Trang

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2014

16-11-2014 : (phần I) CHÚA NHẬT XXXIII MÙA THƯỜNG NIÊN năm A - KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

16/11/2014
CHÚA NHẬT XXXIII MÙA THƯỜNG NIÊN  năm A
Kính trọng thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
(phần I)

BÀI ĐỌC I: Cn 31, 10-13, 19-20. 30-31
"Nàng cần mẫn dùng tay làm việc".
Trích sách Châm Ngôn.
Ai tìm được một người vợ tài đức? Nàng đáng giá hơn ngọc ngà. Chồng nàng đặt lòng tin tưởng nơi nàng và chàng không thiếu thốn vật thực. Trọn đời, nàng sẽ mang lại cho chồng sự lành, chứ không phải sự dữ. Nàng tìm lông chiên và sợi gai, rồi nàng cần mẫn dùng tay làm việc. Nàng ra tay đưa thoi dệt vải, và ngón tay nàng cầm xe kéo sợi. Nàng rộng tay bố thí cho người nghèo khó, và giơ tay hướng dẫn kẻ bần cùng.
Duyên dáng thì giả dối và nhan sắc thì hão huyền: Người phụ nữ kính sợ Chúa, sẽ được ca tụng. Hãy tặng cho nàng hoa quả do tay mình làm ra, và sự nghiệp của nàng hãy ca tụng nàng tại các cửa thành. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 127, 1-2. 3. 4-5
Đáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa (x. c. 1a).
Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Đáp.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Đáp.
3) Đó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Thiên Chúa. Nguyện Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống bạn. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Tx 5, 1-6
"Ngày của Chúa bắt chợt anh em như kẻ trộm".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, về thời nào và lúc nào, anh em không cần chúng tôi viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ ngày Chúa sẽ đến như kẻ trộm trong đêm tối.
Khi người ta nói rằng: "Yên ổn và an toàn", thì chính lúc đó tai hoạ thình lình giáng xuống trên họ, như cơn đau đớn xảy đến cho người mang thai và họ không sao thoát khỏi. Phần anh em, hỡi anh em thân mến, anh em không còn tối tăm, đến nỗi ngày đó bắt chợt anh em như kẻ trộm, vì tất cả anh em là con cái sự sáng, con cái ban ngày; chúng ta không thuộc về ban đêm và tối tăm. Vậy chúng ta đừng mê ngủ như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và điều độ. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 21, 36
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 25, 14-30
"Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi.
"Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Người lãnh hai nén cũng đi làm lợi được hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình.
"Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: 'Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác'. Ông chủ bảo người ấy rằng: 'Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi'. Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: 'Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc; đây tôi đã làm lợi được hai nén khác'. Ông chủ bảo người ấy rằng: 'Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi'.
"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: 'Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ (mà) đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại cho ông'. Ông chủ trả lời người ấy rằng: 'Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, người đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra người phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng'". Đó là lời Chúa.
________________
Hoặc bài vắn này: Mt 25, 14-15. 19-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi.
"Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: 'Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác'". Đó là lời Chúa.

SUY NIỆM : Hãy Canh Thức Và Tỉnh Táo
Chúa nhật này tiếp nối Chúa nhật trước. Chúng ta đang sống cuối năm Phụng vụ. Hội Thánh hướng chúng ta về ngày cánh chung để dạy chúng ta biết sống cuộc đời hiện tại.
Những bài đọc của Chúa nhật trước nói rằng Chúa sẽ trở lại bất thần, nên chúng ta phải sẵn sàng, tức là phải luôn luôn giữ cháy lòng mến Chúa và tìm kiếm Người. Ðó là thái độ của người "khôn". Những bài đọc hôm nay khai triển chiều hướng ấy và mở ra trước mắt chúng ta đời sống cụ thể hàng ngày của những con người khôn có lòng mến Chúa. Họ không thụ động ngồi yên chờ ngày Chúa đến, nhưng cần mẫn và đảm đang, làm việc sinh lời lãi và giúp ích cho đời.
Chúng ta hãy đọc bài Thánh thư trước để hiểu rõ hơn về ngày Chúa trở lại; rồi sẽ đọc bài Tin Mừng và bài sách Cách ngôn để thấy rõ nếp sống cụ thể của chúng ta hiện nay phải thế nào?

A. Hãy Canh Thức Và Tỉnh Táo
Thánh Phaolô hôm nay thấy không cần nói thêm với chúng ta về ngày giờ Chúa trở lại nữa. Chúng ta đã biết Người sẽ đến bất thần như kẻ trộm trong đêm tối. Nhưng ngày đó sẽ thế nào?
Thánh Tông đồ mượn nhiều ý kiến trong Kinh Thánh và nhất là trong Cựu Ước để gợi lên cho chúng ta một số suy nghĩ.
Ðối với những người vô tư, những người khờ như Tin Mừng Matthêô lần trước đã nói, thì "Bây giờ là lúc tiêu diệt thình lình ập đến". Họ cứ chè chén, say sưa, buôn đi bán lại, hết xây lại đập (Lc 17,26-30) như thời Noe. Ðang lúc ông này cặm cụi đóng tàu để tránh lụt thì chung quanh người ta cứ sống phây phây, bình chân như vại. Nhưng chính lúc đó tưởng là bình an chắc chắn thì mưa đã đổ xuống bất thần, diệt vong ập đến trên họ.
Quả thật, đối với họ, ngày của Chúa sẽ là diệt vong. Vì kể từ thời Amos (5,18-20) nhiều đoạn Cựu Ước đã nói như vậy. Các tiên tri đã thẳng thắn tuyên bố cho dân cứng đầu cứng cổ biết: họ ảo tưởng quá chừng khi vịn lẽ là dân được tuyển chọn rồi cứ chạy theo các dục vọng của mình và tưởng rằng sẽ chẳng sao vì Chúa sẽ cứu mình. Không! Chúa sẽ không đến cứu, nhưng để trừng phạt. Và ngày của Người sẽ trở nên tăm tối, khóc lóc, thê thảm cho dân lầm lạc ấy. Bấy giờ họ sẽ đau đớn quằn quại như đàn bà lúc lâm bồn, chẳng thể nào trốn thoát được.
Hôm nay thánh Phaolô cũng mượn lại những hình ảnh ấy để nói với những người khờ, những kẻ vô tư không sẵn sàng cho ngày Chúa trở lại rằng: ngày đó sẽ ập xuống trên họ như nước lụt xuống trên thời Noe. Nó sẽ đem lại diệt vong, đau đớn cho kẻ không tìm kiếm Chúa và yêu mến Người.
Còn đối với những người khôn, những người tìm kiếm và mến yêu Chúa, thì không có gì phải sợ vì họ không ở trong tối tăm, nhưng vẫn sống như con cái sự sáng. Ngày Chúa đến, đối với họ sẽ là ngày đầy vinh quang, ngày chan hòa ánh sáng.
Làm sao cũng là một ngày mà đối với hạng khờ thì là đen tối, còn đối với người khôn thì là sự sáng? Thiên Chúa vừa tối vừa sáng hay sao? Không phải thế! Người chỉ là sự sáng, sự sáng tuyệt đối. Những kẻ đau mắt sẽ chỉ thấy tối tăm khi Người đến. Còn người có mắt trong sáng sẽ thấy Người đem lại vinh quang. Chính Chúa Yêsu trong Tin Mừng Matthêô đã có đoạn nói con mắt là đèn của thân thể. Nếu mắt lành thì thân thể được ở trong ánh sáng; nhưng nếu mắt đau thì toàn thân sẽ ở trong u tối.
Như vậy, Ngày Chúa đến sẽ là tối tăm cho kẻ dữ và là ánh sáng cho người lành. Chúng ta phải sống như người lành để chờ đợi Chúa, tức là phải sống như con cái sự sáng, con cái của ban ngày. Thế mà ban ngày không phải là thời gian để ngủ và để say sưa. Những việc này người ta chỉ làm về đêm. Thành ra bài thư Phaolô hôm nay kết luật: hãy canh thức và tỉnh táo.
Nhưng lời khuyên này cũng phải được hiểu cho đúng. Dĩ nhiên trong chiều hướng coi Ngày Chúa đến có tính cách bất thần như kẻ trộm đột xuất lúc đêm khuya. Thánh Phaolô cũng như nhiều tác giả khác hay khuyên người ta phải "canh thức". Nhưng canh thức ở đây chỉ có nghĩa là cảnh giác và sẵn sàng, là thao thức tìm kiếm Chúa và chờ đợi Người. Và tỉnh táo không say sưa, là không bắt chước người thời Noe cứ mải miết đi trong đường tội lỗi mà không biết tai ương sắp ập đến. Tựu trung, với bài Thánh Thư hôm nay, Hội Thánh khuyên nhủ chúng ta trong cuộc sống tại thế phải biết nhớ đến Chúa, tìm kiếm Người và thi hành những lệnh truyền của Người.
Ðó là điều mà Ðức Yêsu đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay được mệnh danh là dụ ngôn các nén bạc.

B. Hãy Làm Việc Chăm Chỉ
Thánh Matthêô kể dụ ngôn này tiếp ngay sau dụ ngôn 10 trinh nữ đọc trong Chúa nhật trước. Và người mở đầu: về Nước Trời cũng giống như người kia đi xa, đã gọi tôi tớ lại và giao tiền của cho họ.
Như vậy bài dụ ngôn hôm nay muốn khai triển tư tưởng của bài Tin Mừng lần trước. Hôm nay Chúa cũng tự ví như người đi xa nhà một thời gian rồi sẽ trở về. Và cũng như chàng rể đến trễ, người đi xa hôm nay cũng chậm về (câu 19). Nhưng đang khi bài học lần trước dạy phải sẵn sàng vì ngày Chúa đến sẽ bất thần, hôm nay bài dụ ngôn bảo phải chăm chỉ làm việc sinh nhiều quả phúc đức.
Quả vậy bài dụ ngôn đã tập trung vào việc tính sổ, tức là việc phán xét trong thời cánh chung. Ba tên đầy tớ đến trước mặt chủ. Hai người đầu tiên đưa đến cả vốn lẫn lãi. Ông chủ khen họ lương hảo và trung trực và đưa họ vào sống trong hoan lạc của ông. Còn người thứ ba đến, chỉ mang theo tiền vốn và nói rằng y biết chủ là người hà khắc, và tham lam, nên vì sợ, y đã đem chôn tiền vốn và bây giờ xin nộp lại cho chủ. Y tưởng như vậy là thoát thân. Ai ngờ chính luận lý của y lại lên án y. Không biết làm ra của cải, tại sao y không đặt tiền vào ngân hàng để ít ra tiền cũng sinh lời? Vì thế chủ gọi ý là tên tôi tớ bất hảo và lười biếng.
Thánh Matthêô muốn chú trọng đến từ ngữ "lười biếng" này. Nó đối với từ ngữ "trung trực" ở trên khi người chủ khen hai tôi tớ đã biết làm việc. Và trong sách Tin Mừng của Matthêô từ ngữ "trung trực" luôn được dùng để nói về người tôi tớ, trong khi chủ vắng nhà, vẫn làm việc chăm chỉ, phân phát của ăn thức uống hẳn hoi cho mọi người trong nhà; đang khi tên quản gia gian ác thấy chủ về trễ, thì ăn uống với lũ say sưa và đánh đập các bạn tôi tớ (24,48-49).
Vậy, nếu được ghép những tư tưởng ấy lại chúng ta có thể nói rằng: thánh Matthêô bảo chúng ta trong thời gian chờ Chúa trở lại, tức là trong cuộc sống trần gian này, chúng ta không được lười biếng, ích kỷ, chỉ biết ăn uống say sưa và hành hạ người khác, nhưng phải bắt chước những người tôi tớ lương hảo, "ngay" khi được giao phó công việc đã "đi" doanh lợi (câu 16) và vì thế được khen là trung trực, tức là nhiệt tình với chức năng của mình. Trong ngày chung thẩm, những người tôi tớ như vậy sẽ được đi vào sự hoan lạc đời đời của Chúa; còn những kẻ lười biếng sẽ bị đày xuống nơi tối tăm khóc lóc.
Thật ra khi Ðức Yêsu nói dụ ngôn các nén bạc, Người có ý nhắm vào hàng Biệt phái và Luật sĩ thời bấy giờ. Họ có một thứ tôn giáo sợ hãi. Họ tưởng cứ giữ các luật buộc là đủ để được công chính và Chúa sẽ phải công minh trả công cho họ. Nhưng nếu Chúa là Chúa và họ là tôi tớ thì họ luôn luôn phải tìm hiểu ý Người chứ sao lại bó buộc Người trong một khuôn khổ. Tôn giáo như vậy không còn là những tương quan sống động mà chỉ là pháp luật. Thánh Matthêô áp dụng rộng ra và bảo chúng ta phải nhiệt tình làm theo Ý Chúa.
Và như vậy, bài Tin Mừng cũng một ý với bài Thánh Thư. Cả hai đều dạy cuộc sống trần gian không phải để hưởng thụ và sống ích kỷ, nhưng phải cần mẫn chăm chỉ làm việc phục vụ anh em.
Ðó cũng là bài học của sách Cách ngôn.

C. Hãy Biết Ðảm Ðang
Ðoạn văn này đáng chú ý. Không thể nói rõ nó đã được viết vào thời nào. Vì cũng như ca dao tục ngữ của ta, nó là kho tàng khôn ngoan của cả một dân tộc, đã được thu góp từ đời nọ qua đời kia. Ở đây nói về người đàn bà đảm đang, người phụ nữ có tư cách. Chúng ta phải ngạc nhiên vì ở những thời đại xa xôi trước ngày Chúa sinh ra, văn chương Cựu Ước đã tạc ra được một người phụ nữ lý tưởng. Ai thấy nàng bị bóc lột và đàn áp? Ngược lại, nàng vươn lên như một anh hùng kiệt tác.
Dĩ nhiên các nét tả còn mang nặng nếp sống của một xã hội thời xưa. Nhưng cũng đã có nhiều nét thật văn minh. Người phụ nữ lý tưởng, trước hết được sự tin tưởng của chồng con và vì thế, là hạnh phúc cho cả gia đình. Những nét khiến nàng được tin tưởng thì thật nhiều. Nhưng nổi bật nhất là tư cách đảm đang, đảm đang việc nội trợ cũng như việc giáo dục và giao tế với bên ngoài. Vì đảm đang, nàng thắt chặt dây lưng và phát huy sức mạnh của cánh tay. Nàng dậy sớm thức khuya, chăm lo sản xuất và tìm kiếm thực phẩm cho gia đình. Chính tay nàng làm lấy nhiều việc, và nàng biết phân việc cho các tôi tớ. Nàng đề phòng mùa đông và dự trữ lương thực. Nàng không chểnh mảng dạy con đèn sách và lo cho cả địa vị và uy tín của chồng nơi xã hội. Ðặc biệt nàng có từ tâm và nhân đạo, chìa tay cho người nghèo khó và mở cánh tay cho kẻ khốn cùng. Khi cần, nàng mở miệng với giọng khôn ngoan và trên lưỡi nàng, một giáo huấn về đạo đức. Công, dung, ngôn, hạnh không thiếu gì ở nơi nàng nên chồng con được hãnh diện.
Chúng ta có thể bảo những nét tả như thế có thể gặp nơi bất cứ nền văn chương nào. Nhưng nơi văn chương Cựu Ước, tức là văn chương tôn giáo có điểm đặc biệt này, là mọi đức tính trên được xây bằng lòng kính sợ Chúa. Thế nên, đoạn văn Cách ngôn đã kết luận: duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là hư vô; người đàn bà kính sợ Chúa là người phải ca ngợi.
Tôi không hiểu chị em phụ nữ nghĩ thế nào? Nhưng Phụng vụ không muốn đọc bài Cách ngôn hôm nay chỉ có phụ nữ, mà cho tất cả chúng ta và trước hết là cho Hội Thánh.
Ðã nhiều lần chúng ta thấy Hội Thánh được mô tả như một phụ nữ hay trinh nữ, hoặc được khuyến khích để bắt chước và trở nên người phụ nữ lý tưởng. Vì thế, qua bài sách Cách ngôn, Phụng vụ muốn nói với tất cả Hội Thánh: hãy cố gắng trở thành người đàn bà có tư cách và tỏ ra đảm đang, tức là nhiệt tình thi hành tốt sứ mệnh của mình.
Và như vậy bài sách muốn nói trước hết với những ai có trách nhiệm lãnh đạo Giáo hội và giáo xứ. Họ phải tỏ ra đảm đang để cộng đoàn Dân Chúa được hoàn hảo. Do đó chúng ta phải cầu nguyện cho họ và khuyến khích họ, để họ tỏ ra là người có tư cách. Vấn đề tài năng không phải là cốt yếu, vì với bất cứ vốn liếng tài năng nào mà biết chăm chỉ cần mẫn làm việc và phát huy để phục vụ người khác, thì ai ai cũng sẽ cảm mến và ca ngợi tinh thần của những con người như vậy.
Nhưng Phụng vụ bao giờ cũng muốn nói với hết mọi người. Và chủ đề của cả ba bài đọc hôm nay là muốn thúc giục chúng ta, trong thời gian ngóng chờ ngày Chúa trở lại, phải chăm chỉ nhiệt tình làm việc. Kẻ lười biếng sẽ bị coi là tôi tớ bất hảo; còn người tôi tớ chăm chỉ thì đã được bài Tin Mừng gọi là lương hảo.
Dĩ nhiên các tác giả thánh muốn nói đặc biệt về sự chăm chỉ làm việc đạo đức. Thánh Phaolô bảo chúng ta phải sống như con cái của ban ngày, tức là của thời gian làm việc, nên không được say sưa và ngủ thiếp đi. Mà công việc của con cái sự sáng là thi hành các lệnh truyền của Chúa, tập trung trong quan niệm sống bác ái tức là mến Chúa và phục vụ anh em. Những công việc này, người ta sẽ chăm chỉ làm, dù có gặp khó khăn trở ngại, nếu người ta có thái độ sẵn sàng đối với ngày Chúa trở lại, tức là có lòng tìm kiếm Chúa. Chính bài Cách ngôn cũng đã kết thúc bằng câu: mọi nết tốt của người phụ nữ lý tưởng xây trên lòng kính sợ Chúa.
Vậy giờ đây chúng ta được tiếp xúc với Người trong thánh lễ. Người đến thật sự cũng để phán xét và phân biệt các tôi tớ lương hảo và bất hảo, chăm chỉ và lười biếng. Nhưng nhất là Người đến để ban sức mạnh giúp tất cả con cái Người thêm nhiệt tình để sống như con cái của sự sáng và của ban ngày. Người muốn nhờ Thánh Thể và Thánh Thần của Người biến chúng ta nên những con người đảm đang mọi việc trong đời sống. Ðáp lại chờ mong của Người là đi vào hoan lạc của Người và tương lai của toàn thể lịch sử như lời kinh Tin Kính mà giờ đây chúng ta sẽ đọc.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Chủ Nhật 33 Thường Niên, Năm A
Bài đọc: Prov 31:10-13, 19-20, 30-31; I Thes 5:1-6; Mt 25:14-30.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chăm chỉ làm việc cho xứng đáng với sự tin tưởng của Thiên Chúa.

Chăm chỉ làm việc là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của một người. Truyện ngụ ngôn của Jean de La Fontaine đã nhiều lần chứng minh điều này qua câu truyện của con ve sầu và con kiến, con rùa và con thỏ, … Dù không có tài năng nhiều, nhưng nếu chăm chỉ làm việc, sớm muộn rồi cũng thành công đạt đích; nhưng nếu tài năng xuất chúng mà lười biếng không chịu làm việc, sẽ không bao giờ thành công được. Các Bài đọc hôm nay cho chúng ta nhìn thấy sự cần thiết của chăm chỉ làm việc: Bài đọc I dẫn chứng hình ảnh của người vợ khôn ngoan, bà chuyên cần làm việc để mưu ích cho gia đình. Bài đọc II dẫn chứng hình ảnh người đầy tớ trung thành, anh biết tỉnh thức và sống tiết độ để chờ ngày chủ trở về. Phúc Âm dẫn chứng 2 hình ảnh trái ngược: 2 người đầy tớ trung thành và khôn ngoan, biết lợi dụng tài sản chủ trao, chăm chỉ làm việc để sinh lợi cho chủ; và người đầy tớ biếng nhác, chẳng những đã không sinh lời cho chủ, mà còn cay đắng trách luôn cả chủ là người hà khắc, keo kiệt.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Người vợ khôn ngoan

Bài đọc hôm nay nằm trong chương cuối cùng của Sách Châm Ngôn. Sau khi đã chưng dẫn rất nhiều ý tưởng khôn ngoan của người xưa và của các dân tộc trong Sách, tác giả tổng kết lại trong hình ảnh của một người vợ lý tưởng. Khôn ngoan trong Israel ngày xưa không như khôn ngoan trong triết học ngày nay, lối khôn ngoan rất cách xa với cuộc sống thực tế và không mấy quan tâm để tìm ra lẽ sống. Khôn ngoan ngày xưa trước tiên là biết quán xuyến đời mình. Vai trò của người vợ trong gia đình là phải biết cách tạo nên một tổ ấm cho gia đình được hạnh phúc, và giúp đào tạo những người con có khả năng phục vụ gia đình và xã hội trong tương lai. Theo tác gỉa, tìm được một người vợ khôn ngoan như thế là như tìm được một kho tàng: “Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai hoạ cho chồng.”

Thế nào là một người vợ lý tưởng? Phải chăng là sắc đẹp hay duyên dáng? Tác giả cho “duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân.” Giống như quan niệm của cha ông ta ngày xưa, “cái nết đánh chết cái đẹp.” Sắc đẹp mau tàn, nhiều khi đã chẳng sinh lợi, lại còn làm cho gia đình tan nát; nhưng các đức tính tốt sẽ tồn tại và chắc chắn sinh lợi ích cho gia đình. Nhưng đâu là những đức tính quan trọng của người vợ lý tưởng? Tác giả liệt kê 2 nhân đức:
(1) Mến Chúa yêu người: là 2 tiêu chuẩn quan trọng nhất để xác định một người vợ lý tưởng.
- Kính mến Chúa: Theo truyền thống khôn ngoan của Do-Thái: “Kính sợ Chúa là đầu mối mọi khôn ngoan.” Người vợ kính sợ Chúa sẽ biết cách khuyên bảo chồng và dạy dỗ con biết kính sợ Chúa và giữ các giới răn của Ngài: “Người phụ nữ kính sợ Đức Chúa mới đáng cho người đời ca tụng.”
- Yêu tha nhân: Ai kính sợ Thiên Chúa, cũng phải yêu tha nhân. Người vợ khôn ngoan không chỉ biết lo cho gia đình ở đời này, nhưng còn biết lo liệu sao cho gia đình được đòan tụ trên Nước Trời đời sau. Giúp đỡ người nghèo khổ là chuẩn bị cho gia đình đời sau. Vì vậy, người vợ khôn ngoan là người biết “rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.”
(2) Chuyên cần làm việc: Vì “ở không là mẹ các tật xấu,” người vợ khôn ngoan không phí thời giờ để bàn chuyện thiên hạ; “nàng tìm kiếm len và vải gai, rồi vui vẻ ra tay làm việc; nàng tra tay vào guồng kéo sợi, và cầm chắc suốt chỉ trong tay.” Bằng chăm chỉ làm việc, người vợ khôn ngoan biết chăm lo mọi sự trong nhà, chăm sóc miếng ăn cho chồng con. Nàng biết nhìn xa trông rộng, không tiêu xài hoang phí, và biết kiếm thêm tiền để phòng xa, chứ không chỉ trông vào đồng lương của chồng mà thôi.
Hậu quả người vợ khôn ngoan gặt hái đựơc là thành công: cá nhân nàng, gia đình nàng, và xã hội. Thiên hạ tán dương nàng: “Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng do những việc nàng làm.”

2/ Bài đọc II: Người đầy tớ trung thành biết tỉnh thức và sống tiết độ.

2.1/ Sự bất thình lình của ngày giờ Chúa đến: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm.” Điểm “bất ngờ” này đã được Chúa Giêsu đề cập đến nhiều lần trong các Tin Mừng (x/c Mt 24:43, Lk 12:39). Chính khi người ta nói: "Bình an biết bao, yên ổn biết bao!" thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được.

2.2/ Người đầy tớ trung thành biết tỉnh thức và chăm chỉ làm việc: Vì không biết khi nào Ngày ấy sẽ đến, nên con người phải luôn tỉnh thức sẵn sàng. Đêm tối là lúc cám dỗ con người nhiều nhất, và con người dễ bị sa ngã trong khỏang thời gian này vì mê ngủ và vì không chuẩn bị sẵn sàng. Để có thể thắng vượt được cám dỗ, Thánh Phaolô khuyên: “Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ.”

3/ Phúc Âm: Trung thành làm việc cho xứng với niềm tin của chủ.

Chúa Giêsu kể cho dân một ngự ngôn như sau: Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Yến bạc có giá trị tương đương khỏang 5000-6000 dennari thời đó; và tiền công nhật mỗi ngày là 1 dennari; như thế, một yến tương xứng với khỏang 18 năm làm việc mỗi ngày, một số tiền không phải nhỏ.

3.1/ Sự khôn ngoan và tin tưởng của ông chủ:
- Sự khôn ngoan của ông chủ: Nhiều người thắc mắc: “Tại sao ông chủ không trao đồng đều để tránh sự ganh tị?” Lý do là vì ông chủ biết rõ tính các đầy tớ của mình, nên ông giao của tùy khả năng mỗi người. Điều này chứng tỏ sự khôn ngoan của ông: tiền bạc đầu tư là phải sinh lời. Nếu là người lười biếng thì có giao cho họ dù chỉ một yến cũng là vô ích.
- Ông tin tưởng nơi các đầy tớ: Khi giao cho họ xong là ông trẩy đi phương xa, chứ không ở gần để xem xét dòm ngó hay khuyên răn chỉ bảo. Họ có tự do hòan tòan để dùng khôn ngoan mà đầu tư tiền của chủ dưới bất cứ hình thức nào.

3.2/ Đầy tớ khôn ngoan và phần thưởng trung thành: Điểm đặc biệt của ông chủ là ông không ra giá phải sinh lợi bao nhiêu, ông để cho các đầy tớ hòan tòan quyết định điều đó.
(1) Đầy tớ tài giỏi: Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Họ bắt đầu làm việc “ngay lập tức,” chứ không phí thời giờ chờ đợi.
(2) Phần thưởng trung thành: Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ:
- Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây." Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!"
- Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây." Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!"

3.3/ Đầy tớ lười biếng và hình phạt:
- Phản ứng của người lãnh một yến: Đã không sinh lời cho chủ, anh còn tìm lý do để biện minh cho sự biếng lười của mình bằng cách tố cáo chủ: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!”
- Phản ứng của ông chủ: "Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
- Ý hướng của ông chủ: Ông không đặt nặng vấn đề lời lãi vì ông không ra giá phải sinh lời bao nhiêu phần trăm. Ông trao cho mỗi người tùy theo khả năng và ông mong họ cũng sinh lời cho ông tùy theo khả năng của họ. Điểm ông muốn nhắm tới ở đây là sự chăm chỉ làm việc; qua dấu chỉ này, các đầy tớ chứng tỏ cho ông biết họ có xứng đáng với lòng tin của ông vào họ hay không. Ông chủ nói rõ: “Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Thiên Chúa cho chúng ta thời giờ, tài năng, sức khỏe, của cải vật chất trong cuộc đời là để cho chúng ta chăm chỉ làm việc sinh lời cho Thiên Chúa. Chắc chắn sẽ có ngày chúng ta phải tính sổ với Ngài. Nếu chúng ta luôn chăm chỉ làm việc, chúng ta sẽ không quan tâm đến ngày phải tính sổ; nhưng nếu chúng ta ngủ mê lười biếng, ngày ấy sẽ là ngày kinh hòang cho chúng ta.
- Chúng ta đừng bận tâm nhìn chung quanh để so sánh bản thân với người khác; nhưng để tâm xét mình để nhìn ra chúng ta có thể làm gì với những quà tặng Thiên Chúa đã ban. Ngài ban cho mỗi người tùy khả năng: ban càng nhiều thì phải sinh lời càng nhiều và ngược lại. Điều quan trọng không phải ở chỗ lời lãi; nhưng ở chỗ chúng ta chăm chỉ làm việc và trung thành sống xứng đáng với lòng tin tưởng của Thiên Chúa.
- Nếu chúng ta sống xứng đáng với sự tin tưởng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ban cho chúng ta thêm và cho chúng ta hưởng muôn vàn phúc lành khác; nhưng nếu chúng ta ngủ mê, than phiền, lười biếng, Ngài sẽ lấy đi tất cả và chúng ta sẽ phải khóc lóc suốt đời. 

Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.     


(Các bài đọc của Lễ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM)

Các Thánh Tử Đạo Việt-Nam
Bài đọc: II Mac 7:1, 20-23, 27b-29; Rom 8:31b-39; Lk 9:23-26.


1/ Bài đọc I1 Có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm. 20 Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa.
21 Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con:
22 "Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con.
23 Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình." Bà nói với người con út những lời sau đây: "Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. 28 Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy.
29 Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ."

2/ Bài đọc II: Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? 32 Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? 33 Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? 34 Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? 35 Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? 36 Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.37 Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. 38 Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39 trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.

3/ Phúc Âm23 Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?
26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự sống, tình yêu, và sự đau khổ

Sự sống, tình yêu, và đau khổ là ba mầu nhiệm khó hiểu trong cuộc sống con người; vì thế, không phải ai cũng hiểu đúng. Chẳng hạn khi nói về nguồn gốc của sự sống, có người cho là do cha mẹ, có người cho là tự nhiên, có người cho là từ Thiên Chúa. Hay khi phải định nghĩa tình yêu, có người định nghĩa "yêu là chết trong lòng một ít;" có người cho là "cùng nhìn về một hướng;" hay "yêu ai là muốn mọi sự tốt đẹp cho người ấy." Khi nói về đau khổ, quan niệm của nhà Phật cho "cần diệt dục để tránh đau khổ;" trong khi Kitô giáo quan niệm con người không thể tránh đau khổ, và nó cần thiết để con người chứng tỏ niềm tin yêu nơi Thiên Chúa.
Các Bài Đọc trong ngày Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay giúp chúng ta thấu hiểu tại sao các bậc tiền nhân của chúng ta sẵn sàng hy sinh thân mình để làm chứng cho Chúa. Trong Bài Đọc I, bà mẹ của bảy anh em nhà Maccabees xác tín: Thiên Chúa là Đấng ban sự sống và hơi thở cho con người. Ngài sẽ trả lại sự sống cho ai trung thành làm chứng cho Ngài. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người qua biến cố Nhập Thể của Đức Kitô, Người Con của Ngài; để gánh tội cho nhân loại. Một khi đã cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa, không một ai hay một quyền lực nào có thể ngăn cản con người đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Đức Kitô mặc khải cho con người nghệ thuật sống theo thánh ý Thiên Chúa. Đây là cách sống duy nhất mang lại sự sống đầy tràn cho con người.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống.

1.1/ Ai ban cho con người hơi thở và sự sống? Vua Antiochus nghĩ mình có quyền trên sự sống của bảy anh em nhà Maccabees; nên bắt bảy anh em cùng với bà mẹ thay đổi tôn giáo bằng cách cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Moses cấm. Sách Khôn Ngoan còn nói rõ hơn: những kẻ ngông cuồng muốn tra tấn như thế để thử xem Thiên Chúa có đến cứu những ai tin cậy Ngài hay không!
Là con người, ai cũng ham sống và sợ chết; tại sao bà mẹ vẫn bình tĩnh khi chứng kiến bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày? Có phải người mẹ và bảy anh em nhà Maccabees khinh thường sự sống? Trình thuật hôm nay nói rõ lý do: Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà vẫn can đảm chịu đựng được là nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa.
Là người cưu mang tất cả các con, mà Bà lại nói với các con: "Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình."
Theo niềm tin Kitô giáo, Thiên Chúa ban sự sống cho con người bằng các ban hơi thở và thần khí, Ngài có quyền chấm dứt sự sống của con người bằng cách rút hơi thở ra. Hơn nữa, Ngài còn có quyền ban lại sự sống đời đời cho con người, nếu họ trung thành làm chứng cho Ngài.

1.2/ Tình yêu mạnh hơn đau khổ và sự chết: Tình mẫu tử được con người ở mọi nơi và mọi thời ca tụng, vì sự hy sinh chịu đựng của người mẹ dành cho con mình. Rất nhiều bà mẹ đã hy sinh cuộc sống cả đời cho tương lai của con cái; và nếu có phải chết vì con, nhiều bà mẹ cũng sẵn sàng hy sinh để con được sống. Tuy nhiên, tình mẫu tử chỉ là phản ánh của tình yêu Thiên Chúa, chính Ngài đã phú bẩm tình yêu của Ngài vào các bà mẹ để họ sẵn sàng hy sinh cho con cái. Vì thế, khi phải chọn giữa Thiên Chúa và con cái, các bà chọn Thiên Chúa, vì các bà biết Thiên Chúa sẽ trả lại con cái cho các bà. Chúng ta cảm nhận được niềm tin này qua lời của bà mẹ nói với người con út: "Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ."

2/ Bài đọc II: Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô.

2.1/ Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người: được diễn tả rất hay và đầy đủ qua ngòi viết của thánh-sử Gioan: "Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Jn 3:16). Không phải chỉ Thiên Chúa Cha yêu thế gian, mà Người Con cũng yêu thế gian qua sự kiện Ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết đau thương trên Thập Giá: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Jn 15:13). Tuy con người chưa bao giờ nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng khi nhìn lên Thập Giá, con người cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa. Thánh Phaolô rút ra hai hệ luận quan trọng từ tình yêu vô biên của Thiên Chúa:
(1) Thiên Chúa không tiếc con người bất cứ điều gì: Thánh Thomas Aquinas nói: yêu ai là muốn mọi sự tốt lành cho người ấy. Thiên Chúa yêu con người và muốn cho con người mọi sự tốt lành như Phaolô diễn tả: "Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?" Ngài còn rất nhiều quà tặng cho con người, và quà tặng quí giá nhất là cho chúng ta được sống đời đời với Ngài trên Thiên Đàng.
(2) Tình yêu Thiên Chúa không quan tâm đến việc xét xử: Nhiều người sợ Thiên Chúa và coi Ngài như vị hung thần chỉ chờ con người phạm tội là ra tay trừng phạt. Phaolô hoàn toàn chống lại quan niệm này: "Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?" Thánh Gioan đồng ý với quan niệm này và cắt nghĩa rõ hơn: Con người xét xử chính mình khi không tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa" (Jn 3:17-18).

2.2/ Tình yêu con người dành cho Thiên Chúa: Tình yêu chỉ hoàn hảo khi người được yêu chấp nhận tình yêu của người cho đi; nếu không, muôn đời nó chỉ là tình đơn phương. Để có thể đáp trả tình yêu Thiên Chúa, con người phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ. Trong cuộc tử đạo của vị thánh trẻ Anrê Phú Yên, ngài khuyên các tín hữu đang thương khóc ngài những lời cuối cùng: "Anh chị em: chúng ta phải lấy tình yêu để đáp trả tình yêu, lấy mạng sống để đáp trả mạng sống!" Nếu Đức Kitô đã yêu thương và chết cho chúng ta, đến lượt, chúng ta cũng phải yêu thương và chết để làm chứng tình yêu của chúng ta dành cho Ngài.
Chấp nhận hy sinh và chịu đau khổ là hai dấu chứng chắc chắn để bày tỏ tình yêu. Thánh Phaolô chắc chắn đã cảm nhận được tình yêu của Đức Kitô dành cho, nên đã đặt câu hỏi cho mình và cho các tín hữu: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?"
Chấp nhận đau khổ không nhất thiết là hậu quả của tội lỗi một người gây ra. Như Đức Kitô, Đấng không bao giờ phạm tội, mà Thiên Chúa muốn Ngài gánh mọi hình phạt của tội lỗi con người. Noi gương Đức Kitô, các môn đệ của Ngài cũng phải chịu đau khổ để đền tội cho mình và cho mọi người, như có lời chép: "Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh" (LXT 43:23, RSV 44:22). Và thánh Phaolô kết luận: "không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta."

3/ Phúc Âm: Ai được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?

3.1/ Nghệ thuật sống trên đời: Biết sống là một nghệ thuật phải học, vì không phải ai cũng biết sống. Nhiều người tìm đọc cuốn Nghệ thuật Đắc Nhân Tâm của Dale Carnegie, vì ông dạy cho con người biết sống. Tuy nhiên, nếu so sánh sách này với sự dạy dỗ của Đức Kitô dành cho các môn đệ, những lời chỉ giáo của Đức Kitô vượt xa những khôn ngoan của con người.
(1) Ba điều kiện để làm môn đệ Đức Kitô: Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo."
- Từ bỏ chính mình: Đây có lẽ là điều khó làm nhất, vì nó đòi con người phải từ bỏ ý riêng của mình để sống hoàn toàn theo thánh ý Chúa trong mọi sự.
- Vác thập giá hằng ngày của mình: Thập giá hằng ngày là tất cả những bệnh tật, hiểu lầm, trái ý, thử thách do tha nhân và hoàn cảnh gây ra.
- Đi theo Đức Kitô: Con người không chỉ tiêu cực từ bỏ chính mình và vác thập giá suông; nhưng làm tất cả những điều đó cho một mục đích cao vời như Đức Kitô: đó là làm sao đem Tin Mừng cứu độ đến cho muôn người.
(2) Nghịch lý của đời sống: Nghệ thuật sống của Đức Kitô dạy không phải là một trong những cách để sống; nhưng là cách thức duy nhất cho những ai muốn sống cách sung mãn và có ý nghĩa, vì Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng: "Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy." Chúa có ý muốn nói: Nếu con người không theo nghệ thuật sống trên, mà chỉ sống theo ý riêng mình, họ sẽ mất mạng sống họ muốn giữ; nhưng nếu họ sống theo thánh ý Thiên Chúa bằng cách sống hy sinh như Đức Kitô, họ sẽ cứu được mạng sống họ.

3.2/ Hậu quả phải lãnh nhận của những người không biết sống: Sống làm sao sẽ gặt hái hậu quả tương xứng. Đối với những người chỉ biết vun quén cho mình để trở nên giàu có, Chúa nhắc nhở họ: "Người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?" Điều Chúa muốn nói ở đây là phần rỗi linh hồn và cuộc sống đời sau.
Đối với những người không sống Lời Chúa và không làm chứng cho Ngài khi có dịp, Chúa cho họ biết hậu quả: "Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần."

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền trên sự sống: Ngài có quyền ban sự sống và có quyền lấy đi. Hơn nữa, Ngài còn có quyền cho lại sự sống đã mất và sự sống trường sinh.
- Thiên Chúa yêu thương con người với tình yêu không biên giới. Ngài cũng đòi chúng ta yêu thương Ngài và tha nhân như thế, cho dù có phải hy sinh đến tính mạng của mình.
- Hy sinh chịu đựng đau khổ vì Chúa là cách thức duy nhất chúng ta có thể làm để minh chứng tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa.
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


SUY NIỆM : Cảm Mến Công Ơn Của Các Anh Hùng Tử Ðạo
Lễ Các Thánh Tử Ðạo Việt Nam
(2M 7,1-2.9-14; 2C 4,7-15; Mt 10,16-23)
Ngày lễ Các Thánh Tử Ðạo Việt Nam là dịp để chúng ta ca tụng Thiên Chúa đã làm những việc vĩ đại trên Quê hương Ðất nước và nơi Dân tộc anh hùng chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng lại khuôn mặt đẹp đẽ và ý chí quật cường của bao bậc tiền bối. Chúng ta học để quý mến sự sống mà chúng ta đang mạng trong mình và do các ngài để lại. Và chúng ta sẽ cố gắng phát huy cơ nghiệp mà tiền nhân đã hy sinh mạng sống để giữ lại cho chúng ta.

A. Cảm Mến Công Ơn Của Các Anh Hùng Tử Ðạo
Bài sách Macabê thuật lại câu truyện tử đạo của một gia đình 7 mẹ con ở thời Cựu Ước. Ðó là một gia đình không tên không tuổi; và vì thế được phụng vụ coi như là tiêu biểu cho bao bậc tử đạo vô danh. Chúng ta có thể tựa vào câu truyện ấy để nhắc tới những bậc tử đạo quá nhiều trên Ðất nước chúng ta.
Thực vậy, Hội Thánh Việt Nam có nhiều tử đạo bậc nhất thế giới: xét cả về tổng số, cả về tỷ số... Người ta đã nói tới con số 300,000 tử đạo ở Việt Nam. Ðược mấy Giáo hội có nhiều tử đạo như vậy! Và con số 300,000 kia ở thời bấy giờ, chắc phải chiếm tới 3, 4 phần trăm tổng số tín hữu. Chúng ta rùng mình khi nghĩ đến điều ấy. Nhưng thật như lời người ta nói: máu tử đạo làm nảy sinh kẻ có đạo. Chính Ðức Yêsu cũng đã dạy trong Phúc Âm: hạt thóc có rơi xuống đất, thối đi thì mới mọc lên cây, đem lại mùa màng phong phú. Chúng ta ngày nay có đời sống đạo, là nhờ có đông đảo tiền nhân đã cương quyết giữ vững niềm tin cho đến cùng Chắc chắn có nhiều bậc phụ huynh ngồi đây, nhiều gia đình Công giáo ở bên cạnh chúng ta có thể tính lên đời thứ ba thứ tư và gặp thấy một hay nhiều tử đạo trong gia tộc của mình. Ít nhất ai cũng nói được rằng tổ tiên của mình đã phải giữ đạo một cách rất vất vả. Và tất cả chúng ta đều là con cháu các tử đạo theo cả hai nghĩa thiêng liêng và xác thịt.
Ðiều đó chắc chắn không cần phải nói thêm. Nhưng phải nói lên điều này, là: 300,000 tử đạo kia là một đoàn thể đông đảo đủ mọi màu sắc, khác nào một cánh đồng bát ngát đủ mọi sắc hương. Giám mục, linh mục và tu sĩ nam nữ có; nhưng số giáo dân đông hơn nhiều. Và già có, trẻ có; thanh niên, phụ nữ, nhi đồng cũng có: không thiếu một hạng người nào. Ðặc biệt hơn nữa là rất nhiều người đã tử đạo trong y phục lý trưởng cũng như quân nhân. Họ là những người dân tốt, phục tùng Nhà nước, làm việc tận tâm, được lòng quan chức nêu gương cho mọi người.
Tổng đốc Trịnh Quang Khanh là viên chức có lẽ đã giết rất nhiều tín hữu ở miền Bắc. Thế mà dưới quyền ông vẫn có nhiều người lính có đạo. Và những người này nhiều khi lại gương mẫu và xuất sắc. Ông quý mến họ và ra sức dụ dỗ họ bỏ đạo... Ông không hiểu rằng chính đức tin họ đang giữ là động lực cho đời sống công dân tốt lành kia. Thấy họ cương quyết trung thành với tín ngưỡng đang khi vẫn nhiệt tình với chức năng, ông tìm cách bao che cho họ. Nhưng họ không chịu. Ông Huy, ông Thể, ông Hiếu và nhiều người khác dưới quyền Trịnh Quang Khanh đã ra xưng đạo, trước sự khâm phục và xót thương của bao nhiêu chiến sĩ, không cùng một quan điểm tôn giáo nhưng không thể không cảm mến những người chiến hữu và đồng bào giá trị như vậy.
Chúng ta không thể kể hết ở đây về đời sống gia đình, xã hội của các Tử đạo Việt Nam. Chúng ta thường chỉ biết các ngài tử đạo nghĩa là chịu chết vì đạo. Cùng lắm chúng ta chỉ hay nghĩ tới lòng can đảm, chí chịu đựng của các ngài khi bị tra tấn, hành hạ. Nhưng chúng ta cần phải biết: Tử đạo là ơn rất lớn. Nó đưa thẳng người ta về thiên quốc và lên bàn thờ các thánh ngay ở đời này. Một ơn như vậy không dành cho bất cứ một người nào đâu, nhưng chỉ dành để cho những phần tử ưu tú được Chúa lựa chọn. Ở thời các tử đạo, rất nhiều tín hữu đã bị bắt. Có những người đã chối Chúa. Vì họ không mến đủ! Và sở dĩ như vậy vì như lời thánh Yoan nói: người ta không mến Chúa vô hình khi không yêu mến Người nơi anh em hữu hình. Các tử đạo, dù ở chức năng nào, trước khi tuyên chứng lần cuối cùng về lòng yêu mến Ðấng vô hình, cũng đã trải qua nhiều thử thách trong đời sống phục vụ tha nhân. Chúng ta cứ đọc lại mà xem! Hết mọi hạnh thánh tử đạo Việt Nam đều kể rằng trước khi ra pháp trường hay chịu chết trong ngục để xưng đạo, các ngài đã là những người mẹ, người cha chu toàn phận sự gia đình; những người chồng người vợ thi hành tốt mọi phận sự công dân; những người con hiếu thảo và những người lính dũng cảm; những y sĩ và lý trưởng được đồng bào quý mến việc phục vụ. Bởi vì không ai có thể trở thành công dân Nước Trời sau này, nếu đã không là những công dân tốt trên mặt đất.
Ngay cái chết của các tử đạo Việt Nam cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ về khía cạnh vừa nói. Anh em Macabê được tử đạo trong một hoàn cảnh đơn giản hơn. Họ là những người Israel bị ngoại xâm Batư bắt phải bỏ đạo của tổ tiên. Trong một cái chết họ đã tỏ ra trung thành với Thiên Chúa và Tổ Quốc. Trường hợp các tử đạo Việt Nam éo le hơn. Những người bắt các ngài bỏ đạo lại là vua quan "phụ mẫu chi dân". Thế nên các ngài không có một lời nào xúc phạm đối với các quan tòa. Và cho đến lúc chết các ngài vẫn chứng tỏ đã chu toàn tốt đẹp mọi nghĩa vụ xã hội. Các ngài đã chết trong tình mến Chúa yêu người và thương nhà thương Nước. Các ngài đã hy sinh mạng sống cho đức tin và chân lý ở trên giải đất này... Cho nên Giáo hội toàn cầu chỉ biết các ngài là tử đạo của Việt Nam.
Do đó khi mừng lễ các ngài, chúng ta phải biết để ý đến nét Việt Nam nơi các ngài. Chúng ta phải soi gương các ngài chu toàn các nhiệm vụ xã hội một cách thánh thiện. Và cho được như vậy chúng ta phải tìm hiểu động lực bên trong thúc đẩy đời sống của các ngài.
Bài thư Phaolô có thể giúp chúng ta làm công việc này.

B. Ði Theo Ðường Lối Của Các Tử Ðạo
Quả thật các Tử đạo Việt Nam có thể mượn những lời thư Phaolô hôm nay để nói với chúng ta. Một đàng các ngài không giấu giếm sự thật. Bí quyết khiến các ngài có thể vượt thắng trăm ngàn thử thách là chính sự sống và sự sống lại của Chúa Yêsu trong thân xác yếu hèn của các ngài. Các ngài nói: chúng tôi chứa đựng những kho tàng ấy trong những bình sành để biết rằng quyền lực vô song ấy là của Thiên Chúa chứ không phải phát xuất tự chúng tôi. Các ngài chịu khổ cực tư bề nhưng không bị đè bẹp, bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi... bởi vì sự sống của Ðức Kitô tỏ hiện nơi thân xác của các ngài. Chính Ðức Kitô trong bài Tin Mừng cũng đã nói không phải các tử đạo ở trước tòa nhưng là Thánh Thần nói trong các ngài.
Và để có Thánh Thần và sự sống của Ðức Kitô ở trong mình như vậy, các tử đạo đã phải hư vô hóa mình, tức là chết cho bản thân, không sống theo xác thịt tự nhiên nữa, nhưng theo Thần trí của Ðức Kitô, tức là đường lối của Người. Hết mọi tử đạo đều đã chết cho đức tin và vì đức tin; nhưng đức tin ở đây không phải là một hệ thống tư tưởng vũ trụ nhân sinh quan mà là đức tin sống động, tin Thiên Chúa và tin Ðức Yêsu Kitô đã yêu thương mình cho đến chết. Ðó là đức tin đầy lòng mến và đầy lòng trông cậy, chắc chắn rằng nếu cùng chết với Ðức Kitô và vì Ðức Kitô thì sẽ được sống lại với Ngài và được đồng thừa tự với Ngài. Thế nên, các tử đạo là những người đầy Chúa Yêsu sau khi đã tát cạn bản ngã và các khuynh hướng xấu xa ở nơi mình.
Và cũng chính nhờ đó mà đàng khác, các vị tử đạo trước khi hy sinh mạng sống mình vì Chúa, đã có một đời sống xã hội đáng khâm phục. Ðiều này cũng rất dễ hiểu! Lời thư Phaolô viết: sự chết hoành hành nơi chúng tôi còn sự sống hoạt động nơi anh em. Các tử đạo cũng có thể nói: chúng tôi đã chết cho bản thân để sự sống tăng trưởng nơi anh em. Thật vậy, con người đã chết đi cho chính mình, thì sống cho Chúa. Nhưng đối với họ, Thiên Chúa không phải chỉ là Ðấng Vô hình, mà hơn nữa còn là Ðấng đang hiện diện trong Hội Thánh và trong anh em. Mọi hành vi làm cho người anh em nhỏ mọn nhất là làm cho Chúa. Thành ra các đấng thánh là những người nhìn thấy Thiên Chúa ngay ở đời này và cụ thể trên mặt đất này nơi Hội Thánh và nơi anh em. Và vì họ không còn sống cho chính bản thân và vì bản thân nữa, nên mọi phục vụ của họ chỉ còn quy vào một đối tượng. Ðó là Thiên Chúa nơi tha nhân... Ðó là tha nhân trong cái nhìn của đức tin và lòng mến. Các tử đạo làm tốt các nhiệm vụ xã hội là vì thế. Và mọi người thật có lý để nghi ngờ những kẻ đã phản bội đức tin của mình.
Như thế, nếu hôm nay mừng lễ các Tử đạo Việt Nam, chúng ta phải để ý đến nét Việt Nam nơi các ngài, tức là phải soi gương các ngài trong đời sống xã hội phục vụ anh em đồng bào, thì chúng ta người có đức tin phải luôn duy trì và phát triển động lực thúc đẩy đời sống xã hội kia tức là Thánh Thần và Ðức Kitô ở trong mình. Và cho được như vậy, chúng ta phải mang sự chết của Ngài trong thân xác, là biết chết cho bản thân và các khuynh hướng vị kỷ. Phải làm như vậy mới đi vào được đường lối của các tử đạo và mới có thể theo các ngài cho đến cùng. Bởi vì muốn nên giống các ngài hoàn toàn, chúng ta không những phải biết sống như các ngài mà còn phải biết chết như các ngài. Mà muốn chết như các ngài, chúng ta phải sống đạo như trên mà vẫn không quên Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.

C. Tin Tưởng Như Các Tử Ðạo
Chúa nhắc nhở chúng ta biết số phận thông thường của các môn đệ Người: "Người ta sẽ bắt bớ các con". Và trong sách Tin Mừng Yoan, Người còn nói rõ hơn: đó là điều thật dễ hiểu, vì tôi tớ không trọng hơn Thầy. Có lạ chăng là việc thế gian yêu các con chứ các con có thuộc về thế gian nữa đâu mà thế gian quý mến các con! Và lịch sử làm chứng Hội Thánh của Ðức Yêsu, Hội Thánh tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người, luôn luôn có các tử đạo, không ở nơi này thì ở nơi khác, không dưới hình thức này thì dưới hình thức khác. Ðó là mầu nhiệm, nhưng là mầu nhiệm tương đối dễ hiểu.
Sứ mệnh của Ðức Yêsu cũng như của Hội Thánh Người là sứ mệnh tuyên chứng. Tuyên chứng về chân lý, về những chân lý siêu phàm; thế mà chân lý thì như ánh sáng và thế gian đã bị tối tăm bao phủ nên luôn luôn muốn vùi dập ánh sáng. Và cũng đồng thời tuyên chứng về tình yêu, tình yêu của Thiên Chúa yêu thương loài người và chẳng tình yêu nào lớn bằng tình yêu nơi người hy sinh mạng sống vì người mình muốn yêu.
Thế nên chính khi chịu chết vì đạo, người tín hữu trở thành chứng tá hoàn toàn hơn cả. Cái chết của họ vừa nói lên niềm tin chắc chắn, vừa nói lên tình mến tận cùng. Chỉ những kẻ có niềm tin yếu ớt mới sợ tử đạo. Nhưng nếu chúng ta yếu thì đã có Chúa ban Thánh Thần của Người đến nâng đỡ sự yếu đuối nơi chúng ta. Và việc này tùy ở chúng ta trong lúc bình thường có cầu xin và sống đạo để nhận được nhiều Thánh Thần hay không?
Giờ đây chúng ta cử hành thánh lễ. Chung quang bàn thờ này hiện diện vô hình đoàn thể các tử đạo Việt Nam. Các ngài ước mong chúng ta dâng lễ này sốt sắng và hiệu quả. Nếu chúng ta cầu xin và nhất là phó thác bản thân trong tay Chúa thì Người sẽ ban sự sống của Chúa Yêsu và Thánh Thần của Người cho chúng ta. Chính Thánh Thần sẽ là sức mạnh cải tạo cho chúng ta một nếp sống mới để chúng ta dần dần sống bớt đi cho mình và nhiều hơn cho Chúa, tức là cho Người ở trong anh em. Như vậy chúng ta sẽ có đời sống trần gian này tốt để chúng ta cũng sẽ chết tốt như các tử đạo. Chúng ta sẽ tuyên xưng Chúa khi sống và khi chết. Chúng ta sẽ khơi được lòng ngưỡng mộ của mọi người. Chúng ta sẽ xứng đáng với tổ tiên đức tin của mình, những vị mà chúng ta mừng lễ hôm nay.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét