Trang

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2015

14-09-2015 : THỨ HAI TUẦN XXIV MÙA THƯỜNG NIÊN - SUY TÔN THÁNH GIÁ - Lễ Kính

14/09/2015
Thứ hai tuần 24 thường niên
SUY TÔN THÁNH GIÁ.
Lễ kính.

* Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành sau lễ Cung Hiến Thánh Đường Phục Sinh, được xây ở Giê-ru-sa-lem trên mồ thánh (335). Từ cõi chết phục sinh, Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết. Thánh giá của Người tiêu biểu cho cuộc chiến thắng này. Truyền thống còn thấy ở đây dấu chỉ của Con Người, Đấng sẽ xuất hiện trên trời để loan báo ngày Người trở lại.

Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9
"Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".
Trích sách Dân số.
Trong những ngày ấy, dân chúng đi đường và mệt nhọc, nên nản chí, họ kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này". Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ chạy đến cùng Môsê và thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn".
Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 77, 1-2. 34-35. 36-37. 38
Ðáp: Chúng ta đừng quên lãng những kỳ công của Chúa (c. 7c).
Xướng: 1) Hỡi dân tôi, hãy nghe lời huấn dụ, hãy lắng tai nhận lấy những lời miệng tôi. Tôi sẽ xuất khẩu nói ra lời ngạn ngữ, sẽ trình bày những điều bí nhiệm của thời xưa. - Ðáp.
2) Khi Người sát phạt họ, bấy giờ họ kiếm tìm Người, và họ trở lại kiếm tìm Thiên Chúa. Họ nhớ lại rằng Thiên Chúa là Ðá Tảng của họ, và Thiên Chúa Tối Cao là Ðấng cứu chuộc họ. - Ðáp.
3) Nhưng rồi miệng họ đã phỉnh phờ, và lưỡi họ ăn nói sai ngoa với Người. Ðối với Người, lòng họ không ngay thẳng; họ cũng không trung thành giữ lời minh ước của Người. - Ðáp.
4) Phần Người từ bi, tha lỗi và không huỷ diệt họ; nhiều khi Người đã tự kiềm chế căm hờn, và không để cho thịnh nộ hoàn toàn tuôn đổ. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11
"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em thân mến, Chúa Giêsu Kitô, tuy là [thân phận] Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa Kitô, chúng con thờ lạy Chúa; chúng con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dùng cây Thập giá mà cứu chuộc thế gian. - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 3, 13-17
"Con Người phải bị treo lên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: "Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.
"Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ".
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm : Ngày 14 tháng 9
Lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Yêsu
(Ds 21,4-9; Ph 2,6-11; Yn 3,13-17)
Chúng ta hết thảy đều biết, hôm Ðức Yêsu chịu chết trên Thập giá, chỉ có mấy bạn hữu nghĩa thiết của Người đứng gần. Họ là những người yếu đuối nghèo khó. Chẳng ai biết phải làm gì! May thay có các ông Yuse và Nicôđêmô đi xin Philatô cho phép hạ xác Chúa xuống và táng trong huyệt. Còn thập giá của Người thì chẳng ai để ý đến. Sau ngày Phục sinh, các môn đệ cũng chỉ bận đầu với việc Chúa sống lại. Và với ơn trợ giúp của Thánh Thần, họ bắt đầu đi rao giảng ở mọi nơi. Người ta quan tâm đến việc xây dựng các giáo đoàn và lo nhớ lại giáo huấn cũng như cuộc đời của Chúa Yêsu chứ những di vật và kỷ niệm vật chất của Người, không ai để ý.
Cho đến khi có nhiều người ở xa Ðất Thánh đã tòng giáo và muốn cũng như có điều kiện hành hương những nơi Chúa đã sinh sống, việc thu lượm những di vật kỷ niệm về Chúa trở thành một cuộc săn tìm. Chính trong hoàn cảnh ấy người ta nghĩ rằng đã tìm lại được cây Thập giá mà Chúa đã vác và đã nằm trên khi bị đóng đinh. Lập tức hình cụ ấy đã trở thành vật thánh; thập giá trở thành Thánh giá; và người ta suy tôn kính mến.
Lễ hôm nay muốn nhắc lại kỷ niệm này. Hội Thánh thúc giục con cái đến với Thánh giá, bắt chước các tín hữu khi mới tìm lại được cây gỗ đã đóng đinh Chúa Yêsu, để nơi cây Thánh giá mà hằng ngày vì quá quen không còn ý nghĩa bao nhiêu, chúng ta được dịp khám phá lại giá trị vinh quang cao cả của nó. Phụng vụ giúp chúng ta ba bài đọc để suy nghĩ. Ba bài thường thôi nhưng hàm chứa biết bao sự thật!

A. Câu Truyện Rắn Ðồng
Bài sách Dân số kể lại một câu truyện, mà nếu không có bài Tin Mừng hôm nay, thì hầu chắc đã chẳng được mấy ai để ý. Ðó là truyện con cái Israel hồi đó đang đi loanh quanh trong sa mạc để hướng về Ðất Hứa. Một hôm họ bị rắn lửa cắn quá nhiều; Môsê theo lệnh Chúa dựng lên một con rắng đồng để chữa họ.
Câu truyện vắn tắt quá! Ai tin thì nghĩ đây là một phép lạ. Còn ai không tin, có thể cho rằng tác giả sách Thánh đã bịa đặt. Nhưng một chữ viết ở thời xưa vẫn có giá trị. Và thường ý nghĩa của nó không hiện ra tức khắc. Các khoa học lịch sử, địa dư, văn minh, tôn giáo có thể cung cấp cho chúng ta ngày nay nhiều yếu tố quý giá để hiểu câu truyện này.
Việc có nhiều rắn lửa trong sa mạc là điều có thật. Ðó là loại rắn độc cắn chết người. Nhưng đồng thời ở các mỏ đồng gần đó, người ta cũng bới tìm được nhiều hình rắn đồng. Ðó là hình ảnh một vị thần của dân ngoại, nổi tiếng có sức chữa lành bệnh tật. Như vậy chắc chắn ngày xưa khi bị rắn lửa cắn, người ta đã khẩn cầu vị thần này, cũng như ngày nay khi mắc bệnh người ta đi tìm dược liệu; và nhiều tiệm bào chế vẫn trình bày hình một con rắn.
Môsê dẫn con cái Israel đi qua nhiều dân ngoại. Chắc chắn họ đã thấy các dân này thờ thần rắn để được khỏi bệnh. Và chắc chắn khi bị đau yếu con cái Israel cũng bị cám dỗ chạy đến với vị thần nổi tiếng này. Môsê coi đó như là một nguy hiểm cho tôn giáo độc thần. Ông thấy có bổn phận phải mở mắt và dạy dỗ Dân. Có lẽ khi nhiều người trong họ bị rắn lửa cắn là dịp để ông giải quyết vấn đề.
Chúng ta hãy đọc câu truyện của bài sách Dân số trong viễn tượng ấy. Rõ ràng có nhiều bài học tôn giáo trong câu truyện này. Và phải nói đây là Lời Chúa dạy dỗ Dân về mặt đạo đức đi từ một câu truyện chứ không phải là bài chỉ muốn tường thuật câu truyện ấy.
Trước hết chúng ta được biết vì sao con cái Israel bị rắn lửa cắn. Họ muốn bỏ Chúa, bỏ con đường đi tới tự do để trở về mảnh đất nô lệ. Họ phàn nàn đã nghe Môsê và Chúa để đi tìm Ðất Hứa. Giả như họ cứ ở lại Aicập thì làm gì phải cảnh ngộ này: gối mỏi chân chồn, nước uống thiếu hụt, thức ăn chán ngấy! Họ đã quên ơn giải phóng, tỏ ra bạc nhược trước khó khăn và bất trung, thất tín đối với Giao ước. Ðã đành có khó khăn, vất vả; nhưng Chúa không toàn năng và đáng tin tưởng sao? Vì sao không phấn đấu để cứ tin Người và Môsê, vị Ngôn sứ của Người? Phàn nàn, trách móc là điều không tốt; muốn bỏ Chúa để trở về đời sống cũ là phản bội. Rắn lửa bò ra cắn những kẻ kêu trách là hình phạt Chúa gửi đến. Bệnh tật và các sự dữ ở đời đều do tội lỗi: Ðó là bài học thứ nhất của câu truyện hôm nay.
Nhưng tội lỗi và sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Con cái Israel đã nhận ra bài học Chúa dạy. Họ đến với Môsê, thú nhận tội lỗi và nhờ ông khẩn cầu lòng Chúa tha thứ. Họ để lại cho hậu thế bài học sám hối ăn năn.
Chúa rộng lòng tha thứ, dạy Môsê làm hình một con rắn đồng treo lên một cây sào để ai bị rắn cắn, nhìn vào sẽ được khỏi. Như vậy rắn đồng không phải là thần thánh mà chỉ là dấu hiệu hoặc khí cụ Thiên Chúa dùng. Chính Người chữa lành người ta, khi họ ăn năn hối cải trở về với Người.
Con cái Israel đã hiểu như vậy. Về sau mỗi lần có khốn khó ập tới, các ngôn sứ của Chúa chỉ cần kêu gọi thống hối ăn năn, chứ không cần treo lên một dấu hiệu nào nữa. Chẳng bao giờ người Dothái thờ thần Rắn như nhiều lân bang. Câu truyện con rắn đồng hầu như không còn được nói đến nữa. Ngược lại dần dần người ta cảm thấy rằng chẳng có gì có thể chữa dứt được thứ bệnh của con cái Israel, thứ bệnh "tội lỗi" mà các ngôn sứ làm cách nào cũng không ngăn ngừa nổi. Các lễ thiêu và kinh nguyện sáng chiều không sao rửa sạch tội lỗi của Dân cứng đầu hay kêu trách. Cuối cùng người ta chỉ còn biết đợi cánh tay uy hùng của Chúa. Chính Người phải ra tay cứu độ mới được. Bất cứ người Dothái đạo đức nào cũng nghĩ như vậy. Và Nicôđêmô, khi đến với Ðức Yêsu ban đêm, cũng chỉ muốn được hiểu biết thêm về kế hoạch cứu độ này. Chúng ta hãy nghe Chúa dạy dỗ trong bài Tin Mừng.

B. Ý Tưởng Về Thập Giá
Nicôđêmô là một Biệt phái. Ông còn là một đầu mục trong Dân, tức là có chân trong Hội đồng tối cao. Nhưng ông không nghĩ như đồng bạn về Ðức Yêsu. Ðối với Người, ông có lòng tôn kính và muốn được Người chỉ dẫn đường lối cứu độ. Người bảo ông: muốn nhìn thấy Nước Thiên Chúa, người ta phải sinh lại. Ông bỡ ngỡ và lo sợ. Già như ông làm sao có thể sinh lại được? Thấy vậy Ðức Yêsu phải cắt nghĩa rõ hơn cho ông về đường lối cứu độ của Thiên Chúa.
Người nói: "Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ bị giương cao như vậy". Có thể Nicôđêmô đã bắt được ý của Chúa, ông là người học rộng biết nhiều. Ông là bậc làm thầy của Israel, nên không những ông đã biết câu truyện Rắn đồng trong sách Dân số, mà có thể ông còn nhớ cả lời bàn của sách Khôn ngoan về câu truyện ấy (16,6-10). Sách viết: kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu, không phải nhờ điều nó thấy nhưng là nhờ Người là Ðấng cứu chữa mọi người. Phải, ơn cứu độ thì bởi Chúa, nhưng con rắn đồng kia cũng là dấu hiệu độ sinh. Dấu hiệu này, bây giờ Ðức Yêsu nói, sẽ là Con Người khi bị giương cao. Và đó là mạc khải hôm nay Người ban cho Nicôđêmô.
Chắc chắn ông đã không thắc mắc gì về từ ngữ "Con Người". Ðã nhiều lần Ðức Yêsu dùng kiểu nói ấy để ám chỉ mình. Nhưng việc Con Người sẽ bị giương cao là điều mới lạ hoàn toàn đối với ông. Nó còn là điều mầu nhiệm nữa. Chúng ta có thể chắc chắn rằng: hôm đó ra về ông đã chẳng hiểu bao nhiêu. Và luôn luôn nó sẽ là một tư tưởng ám ảnh ông cho đến ngày sự thật ấy xảy ra.
Quả vậy, cho dù ông thông thạo Kinh Thánh và biết những đoạn Isaia về Người Tôi Tớ đau khổ, hoặc lời sấm của Zacarya viết rằng: chúng sẽ nhìn lên Người chúng đã đâm, hôm nói chuyện với Ðức Yêsu, Nicôđêmô vẫn chưa hình dung được sự thật. Còn Ðức Yêsu, Người đã không tiếc lời với ông. Người đã gieo vào lòng ông những điều cần thiết để sau này sẽ giúp ông hiểu.
Người muốn nói với ông rằng: dấu hiệu độ sinh sau này sẽ là Con Người khi bị treo trên Thập giá. Nhưng ông chưa mang nổi một sự thật như vậy; giống như Phêrô khi nghe nói cũng không chịu được và xin Chúa từ nay đừng nói như vậy nữa. Tuy nhiên đó vẫn là sự thật cứu độ, sự thật duy nhất có thể cứu độ người ta. Ðức Yêsu đã phải làm cho mọi người hiểu. Và hôm nay Người cố gắng giúp Nicôđêmô. Người cho ông biết: đứng trước Thập giá của Người sau này chỉ ai tin mới được sự sống đời đời. Không gì có thể giải thích được đường lối cứu độ của Thiên Chúa đâu! Chỉ có lòng tin mà thôi. Lòng tin sẽ là ánh mắt nhìn vào dấu hiệu độ sinh. Không có lòng tin này, người Dothái đi qua sẽ thấy Thập giá là cớ vấp phạm và người Hylạp sẽ bảo là điên rồ; duy đối với ai được kêu gọi thì đó là khôn ngoan của Thiên Chúa (1C 1,23).
Quả vậy, đức tin sẽ bảo cho người ta biết: Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Con Một Người để ai tin vào Ngài... được có sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã không sai Con của Người đến để xử án thế gian nhưng để cứu độ. Người ta đừng chờ Con của Người đến lẫm liệt oai phong khiến mọi người phải sợ hãi. Vì thế đừng ai hiểu việc Con của Người được giương cao theo nghĩa được hiển vinh ở đời này và theo cách thức trần gian. Ngài đến để cứu sống nên muốn được giương cao lên như rắn đồng nơi sa mạc. Lúc đó mọi người sẽ thấy quả thật Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi thí ban Con Một Người chịu chết đền tội chúng ta. Ðó là dấu hiệu của tình yêu lớn nhất, mà không tình yêu nào sánh được. Ðó là dấu chỉ Thiên Chúa đã yêu thương thì Người muốn yêu thương chúng ta đến cùng. Mầu nhiệm cứu độ là mầu nhiệm yêu thương. Yêu thương sẽ sáng chói trong hy sinh đổ máu. Thế thì Con Người trên Thập giá vừa bị giương cao vừa được lên cao. Thập giá của Ðức Kitô chỉ bị ô nhục bề ngoài; chứ bên trong, quả là khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Ðó là cây gỗ Chúa leo lên để làm sáng chói tình yêu lớn nhất. Các vết thương của Người đầy vinh quang. Ai tin thì thấy đó là dấu hiệu độ sinh và Thập giá đã trở nên Thánh giá.
Hôm nay, một cách đặc biệt chúng ta tin như vậy, thì phụng vụ mời chúng ta tung hô Thánh giá theo bài thư Phaolô dưới đây:

C. Ca Tụng Thánh Giá Chúa Yêsu
Có lẽ Thánh Tông đồ đã chỉ có công chép lại một ca vãn lưu hành trong các cộng đồng Kitô giáo thời bấy giờ. Nó là đức tin của Hội Thánh ở trước Thánh giá Chúa Yêsu. Ðức tin ấy tuyên xưng rằng: Ðấng nằm trên cây gỗ là một vị Thiên Chúa; Ngài không nghĩ phải đòi cho được tôn trọng đồng hàng cùng Thiên Chúa; nhưng Ngài đã muốn hủy mình ra không, tức là lột bỏ những vẻ uy nghi cao cả, để mặc lấy thân phận và hình thức tôi đòi; vì quả thực Ngài đã sống rất bình dị ở giữa mọi người và có khi còn muốn đóng vai trò người tôi tớ. Ðặc biệt trong cuộc tử nạn, Ngài đã hạ mình thấp hèn vâng phục ý định của Thiên Chúa cho đến chết và chết trên Thập giá!
Nhưng chính vì vậy, Thiên Chúa đã suy tôn Ngài trong việc phục sinh, đặt Ngài làm Chúa để bất cứ thụ tạo nào cũng phải quỳ gối bái lạy...
Hôm nay chúng ta cũng đặc biệt bái lạy Thánh giá Chúa Yêsu; Chúng ta sẵn sàng tuyên xưng niềm tin của tất cả Hội Thánh như các tín hữu tiên khởi đã viết ra trong bài thánh ca này.
Nhưng nếu chỉ có thế thì vẫn chưa đạt được ý của thánh Phaolô. Người đã chép lại bài thánh ca để gửi cho giáo dân Philip. Họ đang có nhiều bất hòa và cãi cọ, mà nguyên nhân là những sự kèn cựa không chịu nhịn nhục nhau. Thế nên, chép bài thánh ca gửi cho họ, thánh Phaolô muốn họ nhìn vào gương Chúa Yêsu mà đừng ganh tị vì hư danh nữa, nhưng hãy khiêm nhượng và vâng lời.
Lời khuyên này đối với chúng ta nhiều khi hãy còn thức thời và thiết thực. Nếu chúng ta muốn cho các tương quan xã hội tốt đẹp hơn, há chẳng phải trở về gương Chúa Yêsu trên Thập giá sao? Hơn nữa mỗi khi muốn tiếp tục công việc cứu thế, thiết tưởng chúng ta phải trở về với Thánh giá Chúa Yêsu. Ðó là dấu hiệu độ sinh duy nhất đã được Thiên Chúa mạc khải từ đầu trong sách Dân số cũng như các sách Tiên tri. Chúng ta phải nhìn vào với lòng tin. Chúng ta phải nhìn vào để bắt chước. Chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ và có thể cứu thế.
Mầu nhiệm Thánh giá giờ đây được cử hành trong Thánh lễ. Ðức Yêsu không nghĩ phải giằng cho được vinh dự của một Thiên Chúa. Người chấp nhận hình bánh rượu tầm thường để nên lương thực nuôi sống chúng ta. Người dùng hình thức thập giá này để thông ban tinh thần của Người cho chúng ta.
Ðó là tinh thần yêu mến vâng phục Thiên Chúa; nhưng đồng thời cũng là tinh thần yêu thương đồng loại cho đến cùng đến nỗi thí ban cả mạng sống mình để mọi người được cứu độ. Chúng ta hãy học và đem ra thi hành trong đời sống cả hai mặt của tinh thần yêu thương đó, tức là vừa mến Chúa vừa thương người, không phải chỉ bằng tư tưởng hay môi miệng nhưng bằng cả việc làm và sự sống. Chắc chắn như vậy có khổ, có thiệt thì cũng chỉ là những hy sinh vinh quang nói lên mầu nhiệm Thánh giá là dấu hiệu độ sinh, mà chúng ta suy tôn hôm nay.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Suy Tôn Thánh Giá
Bài đọc: Num 21:4b-9; Phil 2:6-11; Jn 3:13-17

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Quyền Lực của Thánh Giá.
- Thập Giá là một xỉ nhục đối với người Do Thái: Người Do-Thái thích tìm kiếm các phép lạ: muốn họ tin chỉ cần làm phép lạ như Phúc Âm đã tường thuật rất nhiều lần. Họ tin Đấng Thiên Sai sẽ đến và Ngài sẽ dùng quyền năng dẹp tan mọi quân thù của họ, và sẽ cai trị họ trong công lý đến muôn đời. Một Thiên Chúa chết đau khổ trên Thập Giá là yếu đuối, là không uy quyền. Đó là lý do tại sao đa số những người Do-Thái không thể chấp nhận Chúa Kitô cho đến ngày hôm nay.
- Thập Giá là một điên rồ cho những người Dân Ngọai: Triết gia Plato và đa số người Hy-Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan: muốn họ tin cần chỉ cho họ kiến thức làm sao tách biệt linh hồn ra khỏi xác vì họ tin thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn. Họ cho là một điên rồ vì tại sao đang khi họ tìm kiếm cách thóat khỏi thân xác thì có một Thiên Chúa lại muốn Nhập Thể để mang một thân xác hèn yếu của con người. Hơn nữa lại còn muốn chịu đau khổ bằng Cuộc Thương Khó và cái chết tủi nhục trên Thập Giá. Đó là lý do tại sao trong những thế kỷ đầu khi Kitô Giáo được truyền đến các quốc gia Hy-Lạp, Giáo Hội đã phải đương đầu với bao nhiêu lạc thuyết do những quan niệm sai lầm này đem lại: Có học thuyết như Docetism cho rằng Chúa Giêsu chỉ Nhập Thể một cách phớt qua cung lòng Đức Mẹ, và chỉ dường như chịu đau khổ. Có người cho rằng Chúa Giêsu nhập vào ông Simon và ông Simon thay Chúa chịu đóng đinh trên Cây Thập Giá. Tóm lại, họ không thể chấp nhận một Thiên Chúa lại muốn mang lấy thân xác hèn hạ của con người.
- Nhưng đối với các tín hữu, Thập Giá là sức mạnh, tình yêu, và khôn ngoan của Thiên Chúa. Các Bài đọc hôm nay muốn giải thích cho mọi người chúng ta sự cần thiết của đau khổ và quyền lực của Cây Thập Giá.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chỉ với 6 câu ngắn ngủi, tác giả của Sách Dân Số đã mô tả cuộc đời con người là một hành trình qua sa mạc để được thanh luyện trước khi vào Đất Hứa.
(1) Hành trình qua sa mạc để được thanh luyện: Các nhà nghiên cứu Kinh Thánh rất ngạc nhiên khi nghiên cứu bản đồ của các quốc gia vùng Cận Đông. Khỏang cách ngắn nhất từ Biển Đỏ tới vùng Đất Hứa là đi dọc theo bờ biển của Palestine; nếu đi bộ chỉ mất tối đa là vài tuần lễ. Thế mà ông Môsê lại dẫn dân Do-Thái đi con đường dài hơn, từ Biển Đỏ đi vòng hết các sa mạc vùng Delta, qua phía Đông của Biển Muối, vào đất Ammôn, rồi tới phía Đông của sông Jordan, vượt sông vào Đất Hứa qua việc tấn công thành Jericô của Joshua. Tất cả hành trình mất 40 năm!
Tại sao Thiên Chúa lại chọn cho dân con đường dài và đầy chông gai như thế mà không chọn con đường ngắn và dễ dàng hơn?
(2) Mục đích của Chúa là để thanh luyện dân. Sa mạc tự nó là chỗ thử thách: Người Do-Thái quan niệm sa mạc là nơi ở của quỉ dữ. Chúa Giêsu được Thánh Thần mang vào trong sa mạc để chịu cám dỗ. Sa mạc chỉ tòan đá và cát, rất ít sinh vật chịu được sự khắc nghiệt của khí hậu trong sa mạc vì rất nóng và hầu như không có nước. Đi trong sa mạc mà không mang theo nước là nắm chắc phần chết. Chúng ta có thể hiểu được nỗi đau khổ của dân: đường xa, mệt mỏi, bụng đói, miệng khát, gồng gánh nặng nề... Họ nhìn lại và tiếc những ngày còn ở Ai-Cập, tuy làm việc vất vả như nô lệ nhưng có đồ ăn, thức uống. Họ nhìn về tương lai: Đất Hứa thì xa xôi vạn dặm. Và họ mất kiên nhẫn nên họ than trách ông Môsê và Thiên Chúa: Tại sao các Người lại dắt chúng tôi vào đây để chịu đau khổ và chết đói chết khát trong sa mạc?
(3) Hậu quả của sự kêu trách Thiên Chúa là họ phải chết. Thiên Chúa cho rắn độc cắn ra cắn họ và nhiều người đã phải chết. Trong sa mạc có rất nhiều rắn độc; những vùng như Timnah gần Biển Chết dân chúng thờ thần rắn, là quan thầy của những người đi tìm đồng. Lúc ấy, họ lại chạy đến ông Môse cầu xin để Thiên Chúa xua đuổi rắn xa họ. Và ông Môsê cầu nguyện cùng Chúa cho dân. Thiên Chúa truyền cho Môsê làm con rắn bằng đồng và treo trên cột; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được sống. Mỗi khi nhìn lên con rắn, họ nhận ra tội lỗi của họ và không dám kêu trách Thiên Chúa và nhà lãnh đạo Môsê nữa.
Nếu chúng ta suy nghĩ về cuộc đời mỗi người chúng ta từ khi sinh ra cho tới bây giờ, thì quả thật cũng chẳng thua gì dân Do-Thái và cuộc hành trình của họ trong sa mạc. Đói có, khát có, tù đày có, vượt biên có, tị nạn có, đau khổ cũng không thiếu do cha mẹ, vợ/chồng, con cái, anh chị em, và đủ mọi người mọi nơi mang lại. Nhiều lúc chúng ta cũng giống như dân Do Thái kêu trách Chúa: Tại sao để cuộc đời chúng ta quá nhiều đau khổ như vậy?
2/ Bài đọc II: Hy vọng cho chúng ta qua cuộc đời của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vinh quang có được là bằng sự hủy mình ra không. Đàng sau Cây Thập Giá là sự Phục Sinh và khải hòan chiến thắng tội lỗi và sự chết, kẻ thù cuối cùng của con người.
(1) Sự hủy mình ra không (kenosis) qua sự khiêm nhường và vâng lời tuyệt đối của Con Thiên Chúa: Cũng chỉ trong 6 câu ngắn ngủi, Thánh Phaolô đã lột tả được trọn vẹn kế họach cứu độ của Thiên Chúa qua con đường đau khổ: “Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, nhưng Ngài không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, và sống như người trần thế.” Tại sao một Thiên Chúa vinh quang uy quyền như thế lại muốn hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, và sống như người trần thế? Hơn thế nữa, Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự! Chắc chắn Thiên Chúa có thể cứu độ con người bằng uy quyền; nhưng Ngài muốn cứu độ con người qua con đường đau khổ vì muốn đồng cảm với tất cả những gì con người đã, đang và sẽ chịu. Cứu độ bằng uy quyền sẽ mang vào Nước Trời những con người vô cảm, vô trách nhiệm, và không hiểu giá trị của tình yêu.
(2) Vinh quang chiếm được nhờ sự hủy mình ra không: Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Danh hiệu tượng trưng cho công việc thực hiện của một người (Gioan Tiền Hô; Phaolô, Tông Đồ Dân Ngọai; Phêrô, Thủ Lãnh Giáo Hội). Danh được Thiên Chúa ban cho Chúa Kitô là Đức Giêsu, có nghĩa là Đấng Cứu Độ. Khi nào nghe Danh Thánh Giê-su, cả trên trời, dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa."
3/ Phúc Âm: Thập Giá Cứu Độ của Chúa Giêsu
Hậu trường phía sau những lời của Phúc Âm hôm nay là cuộc đàm thọai giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Chúa bảo ông: “Không ai có thể vào Nước Trời nếu không được tái sinh.” Ông không hiểu và hỏi lại: “Làm sao một người lớn như ông lại chui vào lòng mẹ để tái sinh?” Điều Chúa muốn nói với ông là phải tái sinh bởi Nước Rửa Tội và Thánh Thần; nghĩa là được tái sinh trong Cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa thì mới được vào Nước Trời.
(1) Con rắn trong sa mạc là hình ảnh báo trước của Thập Giá Đức Kitô: Biến cố Xuất Hành xảy ra khỏang 2000 năm trước Cuộc Tử Nạn của Đức Kitô; nhưng tất cả những gì đã xảy ra cho Đức Kitô là để làm trọn vẹn những gì đã xảy ra trong Cựu Ước. Con người đã phạm tội vì kêu trách Chúa trong sa mạc nhưng được cứu thóat nhờ biết ăn năn trở lại khi nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc. Từ đó đến nay con người vẫn phạm tội, làm sao con người có thể được cứu thóat? Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta cách được cứu thóat: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.”
(2) Thập Giá biểu lộ tình yêu Thiên Chúa cho con người: Một hình ảnh nữa của Cựu Ước luôn có sức để đánh động con người là hình ảnh của Abraham sẵn sàng cầm dao giơ lên định sát tế người con duy nhất của mình là Isaac. Có ai trong lịch sử lòai người dám làm như thế? Abraham không phải giết con vì Thiên Chúa đã hiểu niềm tin của ông dành cho Ngài; nhưng Thiên Chúa muốn dùng hình ảnh này để chuẩn bị trước cho con người để hiểu hình ảnh Cây Thập Giá. Như Gioan tường thuật hôm nay: “Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Con người chưa bao giờ được xem thấy Thiên Chúa, nhưng mỗi khi nhìn Cây Thập Giá và đọc câu của Jn 3:16, con người tin chắc có Thiên Chúa và cảm nghiệm được tình yêu của cả 2 Cha-Con cho con người.
(3) Chúa chết để cho con người được sống: Cả hai hình ảnh Cây Thập Giá và Ngày Phán Xét đều cần để hướng lòng con người về đời sau. Có những người dễ rung cảm vì tình yêu vô bờ của Thiên Chúa qua Cây Thập Giá. Có những người phải run sợ khi nhìn thấy uy quyền của Thiên Chúa khi Ngài phán xét con người. Nhưng tình yêu là lý do đầu tiên và trên hết tại sao Thiên Chúa tạo dựng, cứu độ, và thánh hóa con người; đúng như lời Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” Nếu nhìn lên Cây Thập Giá mà con người vẫn không cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho mình mà ăn năn trở lại, họ tự kết tội họ và cũng không xứng đáng để hưởng ơn tha thứ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải biết lợi dụng hòan cảnh để tự kỷ luật và thanh thẩy những tính ươn hèn của xác thịt thì mới có hy vọng vượt qua mọi gian khổ khi phải đương đầu với chúng. Phàn nàn, kêu trách, và tìm con đường dễ dãi chỉ dẫn con người đi đến chỗ diệt vong.
- Chúa Giêsu dạy chúng ta: Vinh quang có được là nhờ sự hủy mình ra không bằng sự khiêm nhường và vâng lời tuyệt đối: Thiên Chúa cho con người, mục tử cho đòan chiên, thầy cho trò, và cha mẹ cho con cái.
- Mẹ Giáo Hội đã yêu thương và thu xếp để mọi con cái có ngày hôm nay để nhìn lên và suy niệm về Mầu Nhiệm Thập Giá.
* Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá để thấy, tất cả tội lỗi của mỗi người chúng ta là lý do Con Chúa chịu đóng đinh.
* Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá để cảm nghiệm được tình yêu vô bờ của Thiên Chúa dành cho con người.
* Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá để học bài học “tự hủy mình ra không” của Con Thiên Chúa, để rồi cũng biết tự hủy mình ra không để cứu sống đòan chiên và con cái Chúa trao phó.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

14/09/15         THỨ HAI TUẦN 24 TN
Suy tôn Thánh Giá           Ga 3,13-17
DẤU HIỆU ƠN CỨU ĐỘ
“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3,14-15)
Suy niệm: Để chữa lành những người Ít-ra-en ngày xưa trong sa mạc phạm tội kêu trách Thiên Chúa, và bị rắn cắn, Thiên Chúa đã truyền cho ông Mô-sê đúc một con rắn đồng treo lên cao và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn ấy thì sẽ được sống. Chúa Giê-su cho biết hình ảnh đó tiên báo về Ngài: Ngài cũng sẽ chịu treo trên cây thập giá để ai tin vào Ngài thì sẽ được cứu. Thiên Chúa có thể có muôn vàn cách cứu độ loài người mà không cần Con Chúa phải đổ máu; thế nhưng Ngài đã dùng phương thế cứu độ bằng thập giá vì đó là cách tối hảo để diễn tả tình yêu vô biên của Chúa dành cho con người: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Mời Bạn: Suy tôn thánh giá là suy tôn Đấng yêu thương chúng ta đến nỗi chấp nhận chịu chết trên thập giá để cứu độ chúng ta. Ngày nay người ta rất dị ứng với thập giá. Nhưng đối với những người tin Chúa Ki-tô, thập giá của Ngài lại là vinh quang. Nhờ đó, chúng ta nói được rằng: “Vinh quang của ta là thánh giá Đức Ki-tô. Nơi Người ơn cứu độ của ta, sức sống của ta, phục sinh của ta.” Bạn có sẵn sàng vác thập giá của mình để đi theo làm môn đệ Ngài không?
Sống Lời Chúa: Thực hiện một cử chỉ (hôn kính, bái lạy…) để biểu lộ lòng tôn thờ Thánh giá Chúa Ki-tô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô, hằng ngày chúng con vẫn làm dấu thánh giá trên mình. Chúng con tạ ơn Chúa vì tình yêu cứu độ, và xin Chúa giúp chúng con nối kết thập giá đời mình với thánh giá cứu độ của Chúa.

Phải được giương cao
Ðừng sợ hãi tránh né dù đau đớn xót xa. Ðừng kéo lê, bạn sẽ thấy thánh giá nhẹ hơn và sinh trái. Hãy hôn kính Thánh Giá của mình, của quê hương, của Giáo Hội, dù chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết được...


Suy nim:
Nhiều người ngoài Kitô giáo cảm thấy sợ
khi vào nhà thờ, nhìn lên thánh giá,
thấy một người bị đóng đinh, máu chảy đầm đìa.
Tại sao lại thờ một người khủng khiếp như vậy?
Một số nơi đã đặt tượng Chúa Phục Sinh trên thánh giá.
Hẳn nhà thờ sẽ tươi hơn, ít gây sốc hơn,
mầu nhiệm phục sinh được nổi bật hơn...
Nhưng chúng ta vẫn không được quên Chúa chịu đóng đinh.
Không có cái chết ấy thì cũng chẳng có ơn cứu độ.
Không có thánh giá thì cũng chẳng có phục sinh.
Khi suy tôn thánh giá,
chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp hình chữ thập.
Chúng ta suy tôn chính Ðấng đi đóng đinh vào thánh giá.
Ngài là Ðấng vô tội, là Con Thiên Chúa làm người,
là “Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20).
Chúng ta cũng không suy tôn đau khổ và cái chết,
nhưng chúng ta suy tôn Tình Yêu:
Tình Yêu của Cha dám trao cho thế gian người Con Một,
Tình Yêu của Con dám sống hết mình cho Cha và anh em.
Ðau khổ và cái chết
là cái giá phải trả cho một tình yêu.
Tình yêu lớn nhất là tình yêu hiến mạng.
Thập giá là một thất bại của Tình Yêu.
Quà tặng của Cha bị loài người từ khước:
Người Con yêu dấu bị làm nhục và đóng đinh.
Quà tặng của Con bị loài người rẻ rúng:
Con chẳng đáng giá bằng tên sát nhân Baraba.
Thiên Chúa thất bại vì Ngài khiêm tốn.
Ngài để cho con người có tự do chối từ.
Ngài đau đớn lặng thinh khi Con Ngài hấp hối...
Nhưng thập giá lại là một thành công của Tình Yêu.
Nơi thập giá, tội ác con người lên đến cao điểm.
Cũng nơi thập giá, Tình Yêu Thiên Chúa lên đến tột cùng.
Và Tình Yêu đã thắng tội ác, sự sống thắng sự chết,
ánh sáng thắng bóng tối, tha thứ thắng hận thù.
Cha không đưa Ðức Giêsu xuống khỏi thập giá,
nhưng đưa Ngài ra khỏi nấm mồ hiu quạnh.
Thất bại của thập giá đã biến thành chiến thắng.
Thập giá trở thành Thánh Giá đem lại sự sống đời đời.
Thánh Giá đã trở nên biểu tượng của Kitô giáo.
Thánh Giá có mặt cả trên nến phục sinh.
Thánh Giá ở trên thân xác ta, mỗi lần ta làm dấu,
nhưng Thánh Giá còn ở với người Kitô hữu suốt đời:
“Ai muốn theo Tôi hãy vác thánh giá mình mà theo Tôi”.
Ðừng sợ hãi tránh né dù đau đớn xót xa.
Ðừng kéo lê, bạn sẽ thấy thánh giá nhẹ hơn và sinh trái.
Hãy hôn kính Thánh Giá của mình, của quê hương, của Giáo Hội,
dù chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết được mầu nhiệm.
Ước gì chúng ta thấy được ý nghĩa của khổ đau
nhờ tin tưởng nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu.
Cầu nguyn:
Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh Giá,
bao lâu tuỳ ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khát khao nóng bỏng
có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con
nói lên lòng tin của con
vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha,
và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân,
và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh Giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau
như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy
con đang thuộc về Cha mãi mãi.
(Karl Rahner)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
14 THÁNG CHÍN
Thiên Chúa Cư Ngụ Trong Sâu Thẳm Chúng Ta
Khi chia tay các Tông Đồ trong buổi chiều trước khi vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và chúng ta sẽ đến và cư ngụ với người ấy” (Ga 14,23). Chỉ một vài khoảnh khắc trước khi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta hết chiều cao sâu của một tình yêu vĩ đại. Người mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm hiện diện thẳm sâu của Thiên Chúa. Vâng, con người được kêu gọi để trở nên đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi. Còn mức độ hiệp thông nào sâu xa hơn nữa với Thiên Chúa mà con người có thể khao khát không?
Thiên Chúa còn có thể trao cho chúng ta chứng cớ nào lớn hơn nữa về tình yêu cứu độ của Ngài không? Thiên Chúa của muôn loài muốn đi vào hiệp thông với con người. Tất cả lịch sử bao đời của khoa thần bí Kitô giáo, kể cả một số diễn tả tuyệt vời nhất của nó, chỉ có thể nói bập bẹ cho chúng ta về sự hiện hữu khôn tả của Thiên Chúa trong tâm hồn con người.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 14-9
Suy Tôn Thánh Giá
Ds 21, 4b-9; Ga 3, 13-17.

LỜI SUY NIỆM: “Như Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”
Chúa Giêsu đã nói với Ni-cô-đê-mô, và Người cũng đang nói với mỗi người trong chúng ta. Như trong Sa mạc, dân đã phạm tội, nên bị rắn độc cắn chết. Với sự sám hối của dân, và lời cầu xin của Môsê, Thiên Chúa đã dạy Môsê giương cao con rắn đồng, để ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì được sống. Nhưng Thiên Chúa không diệt trừ rắn. Hôm nay cũng vậy, tội lỗi và sự dữ vẫn tồn tại trong thế gian, nó luôn tìm cách, tìm cơ hội thuận tiện để tấn công con người, và con người khó mà tránh khỏi. Chỉ có những ai biết đón nhận ơn của Chúa soi sáng, thúc đẩy biết nhìn lên Thánh Giá trên đó có Chúa Giêsu chịu đội mão gai, mới được chữa lành, và được sống.
Lạy Chúa Giêsu. Là người Kitô hữu, chúng con không những nhìn lên Thánh Giá Chúa mỗi ngày, mà còn ghi dấu Thánh Giá trên mình chúng con. Xin Chúa thánh hóa mọi công việc chúng con làm và những lời chúng con cầu xin.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
NGÀY 14-09 LỄ KÍNH THÁNH GIÁ CHÚA GIÊSU

Chosroes, vua Ba Tư, sau khi xâm lược Ai cập và trọn miền Phi Châu thuộc Roma, đã chiếm Giêrusalem, giết hàng ngàn người Kitô hữu và chuyển về vương quốc của ông gia sản quí báu nhất là Thánh giá thật mà thánh nữ Hêlôna tìm lại được và đăt trên núi Canvê. Dầu vậy Chostòes đã tỏ lòng tôn kính đặc biệt cây thánh giá này. Ông không dám nhìn cây thánh giá để trần, cũng không cho tháo gỡ bao che mà thánh nữ Hêlena đã học. Dân Batư cùng chung một niềm kính sợ. Họ nói rằng: Thiên Chúa của người Kitô hữu đã tới với quê hương họ và không nên chọc giận Ngài.
Hoàng đế Hêrachiô đã tới vương quốc hai lần để cầu hòa với vua Chosròes. Nhưng nhà vua Ba Tư đã ngạo mạn đưa ra điều kiện cho các vị đặc sứ: - "Trước hết nhà vua các ngươi phải từ bỏ đức Kitô và thờ lạy mặt trời như chúng tôi. Sau đó chúng tôi sẽ hoà hoãn với ông ta".
Thái độ trịch thượng này đã làm cho các Kitô hữu phải kinh ngạc. Hoàng đế nổi giận, Ngài nói với các sĩ quan rằng: mình sẽ đổ tới giọt máu cuối cùng để trả thù cho tội phạm sự thánh này. Hàng giáo sĩ các tu viện và mỗi Kitô hữu đều rộng tay góp của giúp hoàng đế thực hiện cuộc thánh chiến. Một đạo binh được thành lập nhanh chóng. Sau khi cầu khẩn sự trợ giúp của trời cao, Ngài đã vào Batư và ba lần bắt Chosròes phải tẩu thoát. Nhưng kẻ bại trận thay vì nghĩ tới chuyện cầu hòa, lại đưa người con thứ là Medarsèr lên ngôi.
Người con trưởng của ông là Siròes nổi giận đã âm mưu sát hại em lẫn cha mình. Bắt được họ đang trên đường tẩu thoát, hắn bèn thực hiện ý định, Chorròes bị hốt tù và chết đói sau khi phải chứng kiến tận mắt Mêdarsèr cùng với các con bị thắt cổ chết.
Siròes chiếm giữ ngai vàng Ba Tư và xin cầu hoà với Hoàng đế Hêrachiô. Hoàng đế ưng thuận với điều kiện là hắn phải trả lại thập giá và phóng thích các Kitô hữu bị bắt làm nô lệ.
Thánh giá thật đã được tìm lại sau 14 năm rơi vào tay người Ba Tư. Hoàng đế trở về Constantinople cùng với thánh tích. Toàn dân cam đuốc sáng và nhành Ô-lui đi đón thánh giá. Muà xuân năm sau, hoàng đế Hêrachiô đích thân đáp tàu đi đặt di sản quí báu trở lại chỗ cũ. Tới Giêrusalem, Ngài vác thánh giá trên vai tiến tới nhà thờ trên đồi Canvê. Một phép lạ lẫy lừng thánh hóa biến cố này. Trong khi hoàng đế đang tiến lên giữa bầu khí thinh lặng đầy cung kính, bỗng Ngài cảm thấy không thể tiến tới được nữa. Ngài bày tỏ nỗi kinh ngạc với thượng tế Jachatia bên cạnh.
Vị giáo phụ trả lời: - "Thưa hoàng thượng, Ngài mặc cẩm bào trong khi Chúa Giêsu ăn mặc khó nghèo rảo qua các đường phố của thành này để tiến tới lễ hy sinh. Người đã đội mão gai mà đầu hoàng thượng lại đội triều thiên sang trọng. Người đi chân không còn hoàng thượng chân xỏ giầy.
Cảm động vì những lời này, hoàng đế Hêrachiô đã biết được sự thật và cởi bỏ mọi đồ trang sức sang trọng đi chân không. Từ đó, Ngài đã dễ dàng đi hết con đường và đặt thánh gía vào chỗ người Batư đã lấy đi.
Còn nhiều phép lạ nữa chúng minh sức mạnh của gỗ thánh giá. Nhưng chính biến cố kể trên đã là đối tượng của lễ kính thánh giá Chúa Kitô.
(daminhvn.net)


14 Tháng Chín
Quyển Sách Cao Siêu Nhất
Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống.
Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng... Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa.
Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: "Ðây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận".
Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác. Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng... Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: "Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy". Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: "Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Ðây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng".
Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Ðức Tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: "Thập giá là quyển sách cao siêu nhất... Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái".
Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu". Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại...
Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặmg của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.
(Lẽ Sống)

Lectio Divina: Lễ Suy Tôn Thánh Giá
Thứ Hai, 14 Tháng 9, 2015
Những ai tin vào Đức Giêsu thì được sự sống đời đời
Ga 3:13-17


Lời nguyện mở đầu

Lạy Cha, Đấng đã muốn cứu rỗi nhân loại
Bằng Thập Giá Đức Kitô, Con của Cha,
Xin ban cho chúng con là những kẻ
Đã biết đến mầu nhiệm tình yêu của Người trên thế gian,
Được hưởng hoa trái của ơn cứu chuộc của Người trên Thiên Đàng.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

1.  Bài Đọc
Tin Mừng:

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng:  “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời.  Cũng như Môisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.” 
Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.”

2.  Suy Niệm 

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Văn bản Tin Mừng đề nghị với chúng ta bằng phần Phụng Vụ được trích từ Lễ Suy Tôn Thánh Giá.  Chúng ta không nên ngạc nhiên rằng đoạn Tin Mừng được chọn cho lễ này là một phần của sách Tin Mừng Thứ Tư, bởi vì chính quyển Tin Mừng này trình bày mầu nhiệm thập giá của Chúa, như sự suy tôn.  Thật rõ ràng ngay từ phần đầu của sách Tin Mừng đã viết:  “cũng như Môisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy” (Ga 3:14; Đnl 7:13).  Thánh sử Gioan giải thích mầu nhiêm Ngôi Lời Nhập Thể trong sự chuyển động nghịch lý của việc từ trời mà xuống đất (Ga 1:14,18; 3:13).  Thật ra, mầu nhiệm này cho chúng ta chìa khóa của bài đọc để hiểu được sự tiến hóa căn tính và về sứ vụ thương khó và vinh quang của Chúa Giêsu; chúng ta cũng có thể nói rằng điều này không chỉ có giá trị riêng cho Tin Mừng theo thánh Gioan.  Ví dụ, thư gửi các tín hữu Êphêsô, đã dùng sự chuyển động nghịch lý này để giải thích mầu nhiệm Đức Kitô:  “Giờ đây, khi nói rằng: ‘Người đã lên’ nghĩa là gì, nếu không phải là Người đã xuống tận cùng các vùng sâu thẳm dưới mặt đất” (Êp 4:9).

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng trở nên Con Người (Ga 3:13) cho chúng ta biết về mầu nhiệm Thiên Chúa (Ga 1:18).  Chỉ có một mình Người mới có thể làm được điều này, vì chỉ có mình Người đã trông thấy Chúa Cha (Ga 6:46).  Chúng ta có thể nói rằng mầu nhiệm Ngôi Lời, Đấng từ Trời mà xuống, đáp ứng những mong mỏi của các tiên tri:  ai sẽ lên trời để mặc khải mầu nhiệm này cho chúng ta?  (xem Đnl 30:12; Cn 30:4).  Sách Tin Mừng thứ tư thì tràn ngập những lời đề cập đến mầu nhiệm về Đấng “từ Trời mà đến” (1Cr 15:47).  Sau đây là một số trích dẫn hoặc đoạn tham khảo:  Ga 6:33,38,51,62; 8:42; 16:28-30; 17:5.

Việc tôn vinh Chúa Giêsu chính là việc Người xuống thế để đến với chúng ta, cho đến chết, và chết trên Thập Giá, trên đó Người đã bị treo lên như con rắn nơi hoang địa, “để cho bất cứ ai… nhìn lên nó thì sẽ được sống” (Ds 21:7-9; Dcr 12:10).  Thánh sử Gioan nhắc nhở chúng ta về cảnh cái chết của Chúa Giêsu bị treo lên: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19:37).  Trong bối cảnh của sách Tin Mừng thứ tư, quay đầu lại và nhìn có nghĩa là “biết”, “hiểu”, “thấy”. 
                                                                                                                                                                                
Thường xuyên, trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu nói về việc mình bị nâng lên: “khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Ta là Đấng ấy (Ga 8:28); “một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào” (Ga 12:2-33).  Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm cũng viết về việc Đức Giêsu loan báo với các môn đệ về mầu nhiệm cái chết của Người trên thập giá (xem Mt 20:27-29; Mc 10:32-34; Lc 18:31-33).  Thật ra, Đức Kitô đã “phải chịu mọi khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người” (Lc 24:26).

Mầu nhiệm này mặc khải tình yêu tuyệt vời mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức Kitô là Con Thiên Chúa được ban cho chúng ta, “để bất cứ ai tin vào Con Người sẽ không bị hư mất, nhưng sẽ được sự sống đời đời”, Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta đã chối từ và đã đóng đinh.  Nhưng nói một cách chính xác về việc chối từ này của chúng ta, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng ta thấy lòng trung thành và tình yêu của Người không dừng lại trước sự cứng lòng của chúng ta.  Và thậm chí mặc dù bị khước từ và bị chúng ta khinh miệt, Người vẫn ban cho chúng ta ơn cứu độ (xem Cv 4:27-28), quyết tâm trong việc thực thi kế hoạch lòng thương xót của mình:  thật ra, Thiên Chúa đã không sai Con Một Người đến thế gian để lên án thế gian, mà là nhờ Người để cho thế gian được cứu rỗi.    

b)  Một vài câu hỏi gợi ý:
i)  Điều nào trong đoạn Tin Mừng đã đánh động bạn nhất?
ii)  Việc suy tôn Chúa Kitô và Thánh Giá của Người có ý nghĩa gì đối với bạn?
iii)  Sự chuyển động nghịch lý của việc từ trời xuống này bao hàm hệ quả gì trong cuộc sống đức tin của bạn?

3.  Cầu nguyện:

Thánh Vịnh 78(1-2, 34-38)

Dân tôi hỡi, này nghe tôi dạy bảo,
lắng tai đón nhận lời lẽ miệng tôi.
Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ,
công bố điều huyền bí thuở xa xưa.

Khi Chúa giết họ, họ mới đi tìm Chúa,
mới trở lại và mau mắn kiếm Người,
mới nhớ rằng: Thiên Chúa là núi đá họ ẩn thân,
Thiên Chúa Tối Cao là Đấng cứu chuộc họ.

Miệng họ phỉnh phờ Chúa, lưỡi họ lừa dối Người;
còn lòng dạ chẳng chút gì gắn bó,
chẳng trung thành giữ giao ước của Người.
Nhưng Người vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt,
nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí.

4.  Chiêm Niệm:

“Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:  “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Phl 2:11)  





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét