27/09/2015
Chúa Nhật Tuần XXVI
Mùa Thường Niên Năm B
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa:
Chúa Nhật XXVI Thường Niên - năm B
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN - B
Ds 11, 25-29; Gc 5, 1-6; Mc 9, 38-43. 45. 47-48
Ds 11, 25-29; Gc 5, 1-6; Mc 9, 38-43. 45. 47-48
Chủ đề: TINH THẦN BAO DUNG
“Đừng ngăn cản người ta…
ai không chống lại chúng ta
là ủng hộ chúng ta”
(Mc 9, 39-40)
ai không chống lại chúng ta
là ủng hộ chúng ta”
(Mc 9, 39-40)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. BÀI ĐỌC 1: Ds 11,
25-29
Sách
Dân Số là quyển thứ tư trong Bộ Ngũ Thư (Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân Số và
Đệ Nhị Luật). Về mặt nội dung Sách Dân Số có thể được chia thành ba phần chính:
1/
Chương 1-10: Dân Israel chuẩn bị tiến về Đất Hứa
2/
Chương 11-25: Dân Israel đi trong sa mạc khoảng 40 năm
3/
Chương 26-36: Dân Israel lại chuẩn bị chiếm Đất Hứa làm gia sản
Bài
đọc 1 hôm nay – Ds 11, 25-29 – thuộc về Phần II của Sách Dân Số, vốn bàn nhiều
đến một sự thật đáng buồn trong dân Israel: trong hành trình tiến về Đất Hứa,
dân Israel đã nhiều lần kêu trách Đức Chúa. Khi thấy những đám dân hùng mạnh
trong đất Canaan, dân Israel đã khiếp sợ, họ không chịu tiến vào Đất Hứa như
Đức Chúa đã truyền cho họ. Họ nổi lên chống đối Môsê và Aaron. Họ đòi lập một
nhà lãnh đạo khác để dẫn họ trở lại Ai-cập. Hậu quả cho một loạt các hành vi
phản loạn của dân là Đức Chúa bắt họ phải đi trong sa mạc đến 40 năm trước khi
họ có thể vào Đất Hứa. Thế hệ những kẻ chống đối cũng phải bỏ xác trong sa mạc.
Đi vào
chi tiết hơn của nội dung Sách Dân Số, chúng ta nhận thấy Phần II này bắt đầu
bằng những lời than trách của dân Israel. Trước hết tại Taberah, dân ta thán về
những khổ cực của họ (x. 11, 1-3). Kế đó, dân lại ta thán về tình trạng mà họ
xem là đáng thất vọng khi đem so sánh với cuộc sống trước đó của họ bên Ai-cập:
“Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? Nhớ thuở nào ta ăn cá bên Ai-cập mà không
phải trả tiền, rồi nào dưa gang, dưa bở, nào hẹ, nào hành, nào tỏi. Còn bây giờ
đời ta tàn rồi; mọi thứ đó hết sách, chỉ còn thấy manna thôi” (11, 4b-6). Rồi
họ lại tụm năm tụm bảy tại kêu khóc tại cửa lều của mình (x. 11, 10). Đứng
trước những cảnh than trách này, Môsê cảm thấy mỏi mệt, ông thấy mình không thể
chu toàn nổi vai trò lãnh đạo đối với đám dân này. Môsê thưa với Đức Chúa: “Một
mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con” (11, 14).
Đức
Chúa đã trả lời bằng việc hứa ban ban Thần Khí cho 70 vị kỳ mục để họ cùng chia
sẻ gánh nặng với Môsê. Đức Chúa đã lấy một phần Thần Khí đang ngự trên Môsê mà
ban cho 70 vị kia. Khi Thần Khí ngự trên họ, họ bắt đầu tuyên sấm. Chúng ta đã
biết trong Sách Xuất Hành, trước lời khuyên chí tình của nhạc phụ Jethro, Môsê
đã đặt các vị thẩm phán để họ xử kiện cho dân. Khi gặp phải những việc khó thì
họ mới trình lên Môsê để chính ông đứng ra xét xử (x. Xh 18, 13-26). Theo một
số nhà chú giải, 70 vị kỳ mục ở đây có lẽ là những người trước đó đã cùng lên
núi Sinai với Môsê (x. Xh 24, 9-11). Vì lòng xót thương dành cho Môsê, Đức Chúa
đã ban cho Môsê 70 vị này để Môsê không còn cảm thấy gánh nặng trách nhiệm quá
mức khi ông phải một mình lãnh đạo toàn dân. 70 vị này, với Môsê đứng đầu, tạo
nên một kiểu hội đồng “hành pháp” đối với dân Israel trong thời gian 40 năm họ
đi trong sa mạc.
Tương tự như những trường hợp sau này được Kinh Thánh ghi lại
(x. 1Sm 10, 6-13; Ge 2, 28; Cv 2, 4; 1Cr 12, 10), dấu chỉ chứng thực Thần Khí
ngự xuống trên 70 vị kỳ mục này là họ bắt đầu phát ngôn (cũng có thể hiểu là
tuyên sấm, hay nói tiên tri). Tuy nhiên, câu chuyện muốn nhấn mạnh đến một điểm
quan trọng khác, là mặc dù Thần Khí thường được thông ban qua một định chế tôn
giáo, nhưng việc Đức Chúa ban Thần Khí của Ngài lại không bị
giới hạn vào một định chế hay thể thức cụ thể nào. Quả vậy, có hai
vị tên là Êl-đát và Mê-đát cũng được Thần Khí ngự xuống trên họ, họ cũng phát
ngôn, dù họ không theo một thể thức đã được ấn định trước đó: “tập hợp quanh
Lều Hội Ngộ” (x. 11, 16.24).
Sự kiện hai vị này “phát ngôn” hiển nhiên gây thắc mắc, thậm chí
gây khó chịu cho nhiều người. Như thể đại diện cho những người không ưa chuyện
này, Giôsuê đề nghị Môsê cấm chỉ việc tuyên sấm của hai kỳ mục này. Môsê,
trái lại, không giữ một thái độ hay lối nhìn hạn hẹp. Ông nhìn nhận
thẩm quyền tối cao của Đức Chúa trong việc này: Ngài có quyền ban Thần Khí cho
ai Ngài xét thấy là xứng hợp để mưu ích cho toàn dân; Đức Chúa không phải lệ
thuộc hay phải tùng phục bất cứ một định chế nào. Môsê
cũng không xem việc tuyên sấm, hay nói tiên tri, là một đặc quyền của một nhóm
người nào. Trái lại, Môsê ao ước mọi người Israel đều được Đức Chúa
ban cho Thần Khí của Ngài và đều được ơn nói tiên tri, nghĩa là họ được ơn đón
nhận và làm lan tỏa Lời Chúa cho mọi người, cho muôn dân.
2. BÀI ĐỌC 2: Gc 5,
1-6
Theo
nhiều nhà chú giải, thư của thánh Giacôbê được viết cho những tín hữu đang phải
đối diện với nhiều thử thách nghiêm trọng khi họ tìm cách sống đức tin của
mình: bị đe dọa, bị bách hại, chịu tử vì đạo. Lá thư này cũng rất tương thích
với những hoàn cảnh xã hội của người tín hữu hôm nay, khi có hiện trạng phân
cách giàu nghèo càng lúc càng tăng trong xã hội, khi người nghèo thường không
được tôn trọng, khi đức tin thiếu chiều kích thực hành, khi những mối bất hòa
vẫn thường xuyên xuất hiện trong các cộng đoàn tín hữu, khi lời ăn tiếng nói
thiếu sự kiểm soát gây ra nhiều mối nguy hại. Nếu chúng ta đang gặp phải những
vấn đề này, thì chúng ta sẽ tìm thấy nơi thư của thánh Giacôbê những lời khuyên
mục vụ thiết thực, hữu ích.
Trong
thư của thánh Giacôbê, chúng ta cũng bắt gặp nhiều câu nói, nhiều sứ điệp, hay
những hình ảnh quen thuộc mà chính Chúa Giêsu đã sử dụng khi Ngài giảng dạy dân
chúng. Bài đọc thứ 2 hôm nay phần nào minh họa điều này. Trong đoạn thánh thư
này, thánh Giacôbê với vai trò như một vị ngôn sứ đã mạnh mẽ lên án những kẻ
giàu thiếu lòng quảng đại, bất chính và gian tà. Ngài chỉ cho họ thấy:
1/ Của
cải vật chất đời này chỉ có tính tạm thời, chóng qua. Việc tích trữ chúng chẳng
giúp ích gì cho các chủ nhân của chúng. Thậm chí, chúng là bằng chứng tố cáo
các chủ nhân, vì họ chỉ biết ky cóp làm giàu cho bản thân, nhằm hưởng thụ một
cuộc sống xa hoa, buông theo khoái lạc, nhưng lại thiếu lòng quảng đại, thiếu
lòng xót thương, vô cảm trước nỗi khổ của tha nhân, không biết dùng của cải để
chia sẻ với tha nhân, nhất là với những người nghèo khổ. Kẻ tích trữ cho mình
của cải như vậy chính là đang tích trữ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Chúng ta
như đang nghe lại, qua ngôn từ của thánh Giacôbê, những lời do chính Chúa Giêsu
đã từng nói: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt
Thiên Chúa, thì số phận cũng thế đó [giống như người phú hộ ngu ngốc]” (Lc 12,
21). Hay Chúa Giêsu cũng từng nói về cách thức “làm giàu” trước mặt Thiên Chúa:
“Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ
rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng,
mối mọt không đục phá” (Lc 12, 33). Hay chúng ta cũng đang nghe vang vọng bên
tai dụ ngôn người phú hộ và anh Lazaro nghèo khổ (x. Lc 16, 19-31).
2/ Tồi tệ
hơn, có những kẻ làm giàu do sống bất công, do gian lận tiền công của những kẻ
làm công ăn lương. Luật Môsê đã từng qui định: “Ngươi không được bóc lột người
đồng loại, không được cướp của; tiền công người làm thuê, ngươi không được giữ
lại cho đến sáng” (Lv 19, 13; x. Đnl 24, 14-15). Nhưng trong một xã hội mà
tiếng kêu thống thiết của người nghèo thường bị làm ngơ bởi thái độ vô cảm,
phớt lờ bởi những kẻ có quyền, thì tiếng kêu ấy chỉ còn có thể trông chờ vào
tiếng trả lời của Thiên Chúa mà thôi. Tương tự như trường hợp của Abel, khi
tiếng máu của Abel đã kêu thấu tai Đức Chúa (x. St 4, 10); như trường hợp của
dân Israel, khi nỗi thống khổ vì cảnh bị áp bức của dân Israel tại Ai-cập cũng
đã thấu đến Đức Chúa (x. Xh 3, 23-25), cụm từ “tiếng kêu … đã thấu đến tai Đức
Chúa” (Gc 5, 4) cho chúng ta thấy tình trạng bất công, bóc lột, hay gian ác đã
ở mức trầm trọng, và đích thân Thiên Chúa sẽ hành động để chống lại tình trạng
tồi tệ này.
3/ Tồi tệ
nhất, có những kẻ giàu có đã dùng sức mạnh của tiền bạc và quyền lực trong tay để
kết án và sát hại người khác, nhất là những người vô tội (hay công chính), ngay
cả khi họ không có khả năng tự vệ.
Bài
đọc 2 như thể đang chất vấn lương tâm chúng ta: nếu chúng ta đang sở hữu nhiều
của cải, thì chúng ta nên tự hỏi:
- Của
cải này từ đâu mà có, có phải phát xuất từ lối sống bất công của chúng ta
không?
-
Chúng ta đang sử dụng chúng như thế nào để mưu ích thực sự cho chính mình và
cho tha nhân?
-
Chúng ta có đang sử dụng chúng để chiếm thế thượng phong cho mình, để lấn át kẻ
khác, để mưu lợi bất chính cho mình?
3. BÀI TIN MỪNG: Mc 9,
38-43. 45. 47-48
Sách
Tin Mừng Marcô chính yếu bàn đến ba nội dung chính: Đức Giêsu Kitô là ai? Thế
nào là người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu? Để cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu
đã đi qua con đường nào?
Tin
Mừng Marcô đã từng bước làm sáng tỏ chân lý này: Đức Giêsu Kitô, Đấng là Con
Thiên Chúa, đã đi qua con đường thập giá để đem ơn cứu độ đến cho nhân loại;
người môn đệ đích thực của Ngài cũng phải đi qua con đường hẹp này.
Cuộc
đời và sứ mạng của người môn đệ là họa lại cách trung thực nhất dung mạo, cuộc
sống, và sứ mạng của Thầy Giêsu trong từng hoàn cảnh sống cụ thể của mình. Bài
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy người môn đệ cần học nơi Thầy Giêsu một tinh
thần “rộng lượng”, không cục bộ, không bè phái, không ganh đua – ganh tị trước
những việc tốt đẹp người khác làm “nhân danh thầy Giêsu”.
Thật
vậy, Gioan trong bài Tin Mừng này, đã hành xử như cậu bé trong bài đọc 1, ông
đến “mách lẻo” với Chúa Giêsu về chuyện có “kẻ lấy danh Thầy mà trừ quỉ” (x.
9,38a). Ông và các môn đệ khác cũng hành xử theo cùng một cách nghĩ “chật hẹp”
như Giôsuê trước kia, nghĩa là “chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không
theo chúng ta” (9, 38b). Trái lại, cùng một tinh thần như Môsê, Chúa Giêsu lại
có cái nhìn khoáng đạt và rộng lượng: “Đừng ngăn cản người ta… ai không chống
lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (9, 39-40).
Người
môn đệ đích thực cũng cần phải biết chọn lựa điều tốt nhất đối với mình. Họ
cũng cần phải sẵn sàng đánh đổi những gì rất thiết thân với mình để không đánh
mất đời sống tương quan mật thiết với Thiên Chúa, để không đánh mất “sự sống
vĩnh cửu” của chính mình, vì “nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất
mạng sống mình, thì nào có lợi gì?” (Mt 16, 26).
Thật
vậy, tay, chân, mắt là những cơ phận thiết yếu của thân thể con người. Những
anh chị em khiếm thị hay khuyết tật mà chúng ta gặp gỡ trong đời hẳn đã cho
chúng ta cảm nghiệm được phần nào tầm quan trọng lớn lao của những cơ phận này.
Chúng không chỉ có những chức năng không thể thay thế được. Chúng còn “tô điểm”
tấm hình hài của chính chúng ta. Kinh Thánh còn khai triển rộng hơn ý nghĩa và
tầm quan trọng của những cơ phận này. Chẳng hạn, đôi tay được Jacob dùng để
chúc lành cho Ephraim và Manasseh (x. St 48, 14); Môsê đặt tay phong Giôsuê làm
người kế nhiệm (x. Ds 27, 18); đôi tay được nâng lên để cầu xin Thiên Chúa (x.
Xh 17, 11) hay được giơ lên để chúc phúc cho người khác (x. Lv 9, 22).
Khi
Chúa Giêsu bảo chúng ta “chặt nó”, “móc nó” đi, khi chúng gây cớ cho chúng ta
vấp ngã hay phạm tội, Ngài không bảo chúng ta phải làm theo nghĩa đen của hạn
từ, nhưng Ngài hàm ý chúng ta phải dám chấp nhận từ bỏ cả những gì rất thiết
thân với chúng ta để chúng ta có được chính sự sống đích thực của mình. Bỏ
chúng đi là dám chấp nhận cắt bỏ một cách đau đớn, cắt bỏ chính một phần con
người của chúng ta, là dám chấp nhận thập giá trên con đường theo Chúa. Chỉ như
vậy, chúng ta mới có khả năng đón nhận được sự sống vĩnh cửu Thiên Chúa đã ưu
ái dành cho chúng ta.
II. CÂU HỎI PHẢN TỈNH
1. Ngày
nay, có nhiều anh chị em không cùng tôn giáo với chúng ta, nhưng họ cũng đang
dấn thân phục vụ xã hội, phục vụ con người một cách thành tâm, thiện chí. Bài
đọc 1 và bài Tin Mừng hôm nay dạy tôi cần phải có thái độ như thế nào đối với
họ?
2. Việc
suy niệm với bài đọc 2 có thể đòi chúng ta phải tự tra vấn lương tâm mình. Ba
câu hỏi được gợi ý ở phần cuối bài đọc này mời gọi tôi phải có thái độ thế nào
với “của cải” hay “tài sản” mình đang có?
3. Chúa
Giêsu mời gọi chúng ta phải biết “cắt bỏ” những gì rất thiết thân nhưng có thể
đang gây nguy hiểm cho cùng đích đời sống chúng ta. Đối với bản thân tôi, tôi
cần “cắt bỏ” điều gì để có thể sống được mối tương quan thiết thân với Thiên
Chúa, với chính mình, và với tha nhân?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót muốn cho tất cả mọi
người được lãnh nhận dồi dào ân huệ của Chúa Thánh Thần và được cứu độ. Với
niềm xác tín và tâm tình tri ân, chúng ta thành tâm cảm tạ Chúa và tha thiết
cầu nguyện.
1. Hội
Thánh có sứ mạng loan báo và đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta cùng
cầu xin cho các vị chủ chăn và mọi thành phần Dân Chúa, được ơn Chúa Thánh Thần
soi dẫn, luôn ý thức và nhiệt tâm chu toàn sứ vụ ngôn sứ đã lãnh nhận.
2.
Ghen tương tranh chấp là nguồn gốc những xáo trộn và xung đột xã hội. Chúng ta
cùng cầu xin Chúa cho các dân tộc trên thế giới biết tôn trọng lẫn nhau, và nỗ
lực hợp tác nhằm góp phần xây dựng một thế giới hoà bình, văn minh và thịnh
vượng.
3. Ai
nhân danh Chúa Kitô mà phục vụ những kẻ bé mọn thì sẽ được Thiên Chúa ân thưởng.
Trong ngày Trung Thu hôm nay, chúng ta cùng cầu nguyện cho các em thiếu nhi
luôn nhận được sự quan tâm chăm sóc và giáo dục từ gia đình, xã hội và cộng
đoàn.
4. “Ai
không chống đối các con, là ủng hộ các con.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi
người trong cộng đoàn chúng ta biết vượt qua những khác biệt ngăn cách, sống
hòa thuận yêu thương và trách nhiệm, để cộng đoàn ngày càng trở nên dấu chỉ của
sự hiệp nhất.
Chủ tế: Lạy
Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa luôn yêu thương và sẵn sàng xuống ơn cho
những ai tin tưởng cậy trông Chúa. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và khứng
ban muôn ơn lành giúp chúng con trung thành phụng sự Chúa trong mọi người.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Đừng
ngăn cấm
Hai
đứa trẻ có thể đánh nhau chí choé khi một đứa dám lôi tên ba của đứa kia ra giễu
cợt. Hình như việc biết tên là một khám phá ra một bí mật và việc gọi tên có vẻ
bất kính là một xúc phạm. Ngày xưa tên của một người thường mang ý nghĩa như
chính con người đó. Vì thế mà Thiên Chúa cấm gọi đến tên Ngài ở giới răn thứ
hai, đồng thời chúng ta cũng thếy được tầm quan trọng của tên Thiên Chúa như
trong kinh Lạy Cha: Nguyện danh Cha cả sáng.
Nếu
hiểu như thế chúng ta sẽ không lạ gì khi Chúa Giêsu tuyên bố: Kẻ nào tiếp đón một
kẻ nhỏ vì danh Ta tức là tiếp đón Ta. Kẻ nào tiếp đón Ta thì không phải là tiếp
đón Ta mà là tiếp đón chính Đấng đã sai Ta. Chúa nói về ân phúc của mọi hành động
trong danh Ngài, điều này nhắc cho Gioan việc vừa xảy ra. Lạy Thầy, chúng con
thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo Thầy và chúng con đã
ngăn cấm. Gioan có một lòng nhiệt thành về danh Chúa Giêsu, nhưng đồng thời lại
kiêu hãnh về địa vị nhóm 12 của mình được sống sát cạnh Chúa, cũng như ganh tức
với những kẻ không cùng nhóm, lạm dụng quyền hạn của mình. Thế nhưng quan điểm
của Chúa Giêsu thì khác, Ngài phán: Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân
danh Thầy mà làm phép lạ rồi liền sau đó lại nói xấu Thầy. Ai không chống đối
các con là ủng hộ các con. Thái độ của Gioan là một thái độ tự ái, bảo vệ một độc
quyền của mình. Thế nhưng chúng ta có thể đặt lại vấn đề, liệu các môn đệ đã
tin vào danh Chúa hay chưa?
Có
thể họ đã tuyên xưng, nhưng trong hành động họ lại chối bỏ và để Chúa Giêsu chịu
chết một mình, cô đơn trên thập giá. Chính Chúa Giêsu đã nhìn những người ngoại
giáo và đã khen ngợi lòng tin của họ chẳng hạn người thiếu phụ Canaan và viên đội
trưởng, khi Ngài nói với ông: Ta chưa thấy một niềm tin như thế trong dân
Israel. Như vậy lúc ấy chưa chắc gì các môn đệ đã có một niềm tin mạnh như những
kẻ ngoại. Các môn đệ của Chúa đã nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ, còn những
người ngoài nhóm cũng nhân danh Chúa mà làm phép lạ, nhưng thử hỏi họ đã làm
vinh danh ai? Phúc Âm thánh Luca ghi lại các môn đệ trở về kể lại cho Chúa
Giêsu: Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng phải luỵ phục chúng con.
Như thế cái tôi của họ vẫn còn là trung tâm điểm. Họ nhờ danh Chúa mà tìm vinh
quang cho mình.
Ngày
hôm nay chính chúng ta cũng phải ngồi lại mà suy nghĩ về những cái chúng ta chiếm
độc quyền: độc quyền về Thiên Chúa, về Đức Kitô, độc quyền về đạo thật, về chân
lý, về bác ai, và những hậu quả tai hại từ đó đưa đến như thế nào? Có phải vì
danh Chúa Giêsu hay chỉ vì danh mình, danh giáo xứ mình mà thôi chăng.
Tiếp
đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Đừng ngăn cản họ. Lời nói tuy ngăn nhưng
phá vỡ cả một ý thức hệ cuồng tín về tôn giáo, phá vỡ cả một sự độc quyền về niềm
tin để mở rộng cho muôn dân: Ta bảo các người nhiều kẻ từ phương Đông phương
Tây mà đến và dự tiệc cùng Abraham trong Nước Trời, còn chính con cái thì lại bị
đuổi ra bên ngoài. Chúa Giêsu qua đó dạy cho các môn đệ một cái nhìn mới về ơn
cứu độ.
Ngày
hôm nay cũng vậy, đôi khi chúng ta thấy người này người nọ thực sự yêu thương
và phục vụ kẻ khác, nhưng họ lại là người vô thần, là người Phật giáo, thì lập
tức chúng ta khựng lại. Chúng ta hãy nhớ lời Chúa: Ai yêu thương thì ở trong
Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại khăng khăng phải ở trong đạo mới có tình
thương. Chắc gì chúng ta những người có đạo lại sống được tốt lành như họ chưa.
SCĐ CHÚA NHỰT 26 TN.B
Chủ đề : Óc bè phái, cục bộ
"Ai
không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta"
(Mc 9,40)
Sợi chỉ đỏ :
-
Bài đọc I (Ds 11,25-29) : Giôsuê khó chịu khi thấy hai người kỳ mục không
đến Lều Thánh mà lại nói tiên tri. Ông bảo Môsê ngăn cấm hai người ấy. Nhưng
ông Môsê chẳng những không ngăn cấm mà còn nói : "Phải chi Đức Chúa
ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ".
-
Tin Mừng (Mc 9,37-42.44.46-47) : Gioan thấy có người ngoài nhóm môn đệ mà
cũng nhân danh Đức Giêsu để trừ quỷ. Gioan yêu cầu Đức Giêsu ngăn cấm họ. Nhưng
Đức Giêsu đáp : "Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng
ta".
I. Dẫn
vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Chúa
nhật vừa qua, Lời Chúa đã dạy chúng ta đừng ganh ghét đố kỵ. Hôm nay, Lời Chúa
lại dạy chúng ta đừng có óc bè phái cục bộ, chỉ biết đến nhóm mình, phe mình và
loại trừ những người không thuộc phe nhóm của mình.
Đoàn
kết trong nội bộ là tốt, nhưng kỳ thị và loại trừ những người khác thì là xấu.
Chúng
ta hãy chăm chỉ nghe giáo huấn của Chúa và cố gắng thi hành.
II. Gợi
ý sám hối
-
Chúng con có lỗi vì đã không thích những người không cùng tín ngưỡng với chúng
con.
-
Chúng con có lỗi vì tạo phe nhóm chống đối nhau.
-
Vì họ đạo chúng con chia bè chia cánh, nên đã không là tấm gương tốt cho những
người lương.
III. Lời
Chúa
1.
Bài đọc I (Ds 11,25-29)
Giôsuê
khó chịu khi thấy hai người kỳ mục không đến Lều Thánh mà lại nói tiên tri. Ông
bảo Môsê ngăn cấm hai người ấy. Nhưng ông Môsê chẳng những không ngăn cấm mà
còn nói : "Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để
họ đều là ngôn sứ".
2.
Đáp ca (Tv 118)
Tác
giả Thánh Vịnh 18 suy nghĩ "Nào ai thấy rõ các lỗi lầm của
mình ?" Từ đó ông khiêm tốn nhìn nhận có những tội mình phạm mà chẳng
hay, trong đó có tội kiêu ngạo.
Phối
hợp với bài đọc I và bài Tin Mừng, ta có thể thấy cái thứ tội kiêu ngạo ta phạm
mà chẳng hay chính là sự đố kỵ với những người không cùng ở trong tập thể của
mình : mình ghét họ, mình chống họ nhưng cứ tưởng làm như thế là tốt cho tập
thể mình.
3.
Tin Mừng (Mc 9,37-42.44.46-47)
Trong
bài Tin Mừng này, Đức Giêsu dạy hai bài học :
a/
Bài học bao dung và hợp tác : Khi thấy một số người không thuộc nhóm 12 mà
cũng nhân danh Đức Giêsu để trừ quỷ thì Gioan khó chịu, xin Chúa ngăn cấm. Đức
Giêsu chẳng những không cấm họ mà còn sửa dạy các môn đệ mình.
-
Người đời thường có óc bè phái : ích kỷ bảo vệ quyền lợi và danh dự của
nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với những nhóm khác. Phương châm của thế gian là
"Ai không theo ta tức là nghịch với ta"
-
Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, và sẵn
sàng hợp tác với tất cả môi người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là
"Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta".
b/
Sự tai hại trầm trọng của việc làm gương xấu gây vấp phạm cho "những kẻ bé
mọn".
-
"Những kẻ bé mọn" không hẳn là trẻ con, mà còn là những người mà đức
tin còn non yếu. Ai gây cớ vấp phạm cho họ thì thà buộc cối đá vào cổ nó rồi xô
nó xuống biển còn hơn.
-
Ngay cả bản thân mình mà gây cớ vấp phạm cho mình thì mình cũng phải tự khắt
khe với mình để diệt trừ nguy hiểm tận gốc : "Nếu tay con nên dịp tội
cho con, hãy chặt nó đi…"
4.
Bài đọc II (Gc 5,1-6) (Chủ đề phụ)
Thánh
Giacôbê nặng lời phê phán những người giàu có mà không giúp đỡ những người
nghèo : (1) Những tiền bạc của cải mà họ tích trữ không xài tới chính là bằng
chứng buộc tội họ ; (2) Tài sản của họ là do gian lận, bất công mà
có ; (3) Họ dùng tài sản để thỏa mãn khát vọng khoái lạc và làm hại người
công chính.
IV. Gợi
ý giảng
*
1. Óc ganh tị bè phái... vì danh Chúa !
Những
bài Sách Thánh mà phụng vụ tuyển đọc trong Thánh Lễ hôm nay đề cập tới một tính
xấu, đó là Óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Tính xấu đó như thế nào, chút nữa
chúng ta sẽ phân tích. Bây giờ trước hết chúng ta hãy xem lại những bài đọc nói
gì.
-
Bài đọc I kể một câu chuyện xảy ra từ thời ông Môsê đang dẫn dân Chúa đi lang
thang trong sa mạc, nghĩa là lâu lắm rồi, khoảng năm 1250 trước Chúa Giáng
sinh, nghĩa là cách nay đến hơn 3000 năm. Khi ấy Chúa bảo Môsê chọn trong dân
ra 72 người để Chúa đổ ơn Chúa Thánh Thần xuống trên họ và nhờ đó họ được ơn
nói tiên tri. Môsê đã chọn 72 người, Chúa đã ban cho họ ơn nói tiên tri. Nhưng
mà có 2 người khác không ở trong danh sách 72 người kia cũng nói tiên tri. Một
đứa bé thấy vậy chạy về báo cáo cho Môsê và người phụ tá của ông là Giôsuê hay
sự việc. Giôsuê liền đề nghị ông Môsê ra lệnh ngăn cấm 2 người đó, lý do là vì
họ không thuộc danh sách 72 người được chọn. Xin nhắc lại rằng câu chuyện này xảy
ra từ thời Cựu Ước, cách đây khoảng 3000 năm lận. Nghĩa là từ thuở rất xa xưa,
mà người ta đã có tính ganh tị rồi.
-
Cái tính xấu này vẫn còn cho tới thời Tân ước. Bài Tin Mừng kể : Khi ấy có
một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Đức Giêsu làm nhiều phép lạ,
rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm
phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh Đức Giêsu và họ cũng làm được một số
phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Đức
Giêsu biết. Gioan tưởng cấm như vậy là đúng, bởi vì những người đó không phải
là tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng
Đức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Đức Giêsu còn nói một câu rất hay mà chút nữa
chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói "Ai không chống lại ta thì thuộc về
ta".
Qua
hai câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là : cái óc ganh tị đã có sẵn
trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con người ngay
trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những người thân cận
của Chúa, như Ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa tiến vào Đất Hứa, như
chính thánh Gioan một tông đồ được Đức Giêsu yêu thương nhất. Đó là óc ganh tị
bè phái vì danh Chúa. Nói "Óc ganh tị Bè Phái vì danh Chúa" bởi
vì ganh tị có tới 3 cấp bực :
.
Cấp thứ nhất là Ganh tị : đó là thói xấu khiến cho người ta khó chịu bực bội
khi thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay
hơn, tốt hơn mình nữa.
.
Cấp thứ hai là Ganh tị bè phái : là Ganh tị với người không thuộc phe nhóm
của mình.
.
Cấp thứ ba là Ganh tị bè phái vì danh Chúa : nghĩa là những người tín hữu
Chúa, những người có đạo ganh tị với những người không có đạo khi những người
không có đạo này làm được những điều hay điều tốt.
Phải
nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì
Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên đạo của mình phải là đạo tốt nhất,
hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có thể làm được những việc hay việc tốt.
Khi thấy những người không có đạo dự tính làm điều này điều nọ thì nghĩ thầm rằng
chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng người ta đã làm việc
thành công, thì khi đó những người có đạo tức bực, tìm cách nói xấu, xuyên tạc
để hạ giá thành quả của những người kia vì họ không thuộc đạo của mình. Trong
quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên tai bão lụt. Các tổ chức bác ái
công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những người công giáo rất hãnh diện với
những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức. Cũng có những nhóm
khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy, nhưng một số người công giáo tỏ ra
nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm kia cho rằng họ sẽ chẳng làm tới
đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm lum, phẩm vật cứu trợ không hoàn
toàn tới tay các nạn nhân. Đó là một thí dụ về cái óc ganh tị bè phái vì danh
Chúa.
Nhưng
Chúa không chấp nhận như thế đâu. Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc "Ai
không chống lại ta thì phải kể như là thuộc về ta". Nguyên tắc này độc đáo
vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường theo từ trước tới giờ.
Người ta thường nghĩ "Ai không theo ta tức là kẻ chống ta", hoặc
"Ai không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta", hay hơn nữa "Ai
làm bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ thù của ta". Những nguyên tắc vừa kể
biểu lộ một tâm lý tự tôn và độc tôn : chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại
trừ tất cả những ai không thuộc phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Đức Giêsu là
một nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác : tất cả mọi
người, miễn là họ không chống lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng
phải coi là bạn của ta ; cũng phải hợp tác với họ.
Giữa
xã hội ngày nay, con số những người có đạo chỉ là một con số nhỏ. Nếu những người
có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị
cô lập giữa xã hội. Còn nếu những người có đạo biết thực hành nguyên tắc của Đức
Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan hoà với những người khác, sẽ có rất nhiều cơ hội
để cùng với những người khác thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ
làm.
Vả
lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn
cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có cần những người có đạo chúng
ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu đạo lên việc tốt đó, phải
ký tên mình lên việc tốt đó. Điều mà Chúa muốn là có những việc tốt đã được
làm.
Chúng
ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng Chúa : đừng ganh tị, đừng giữ
đầu óc bè phái... nhưng cố gắng sống chan hoà với mọi người, cùng với mọi người
thực hiện những việc tốt, những việc làm có ích cho tha nhân, cho xã hội.
2.
Dịp tội
Phần
cuối của bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng những lời rất mạnh mẽ của Đức
Giêsu :
.
Nếu tay con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một tay mà được
vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 tay mà phải vào hoả ngục.
.
Nếu chân con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một chân mà được
vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 chân mà phải vào hoả ngục.
.
Và nếu mắt con nên dịp tội cho con thì hãy móc nó đi. Thà con còn một mắt mà được
vào Nước TC còn hơn có đủ 2 mắt mà phải ném xuống hoả ngục.
Dĩ
nhiên đây là kiểu nói cường điệu theo thói quen của người Á Đông. Không ai hiểu
những câu đó sát nghĩa đến cả. Ta chưa thấy ai tự chặt tay chặt chân móc mắt để
khỏi phạm tội cả. Ngay cả các thánh cũng vậy, các Ngài đã chống trả các cơn cám
dỗ rất là quyết liệt, nhưng không bằng cách chặt tay chặt chân móc mắt mình. Có
một trường hợp đặc biệt sau đây : Ông Origène, một Linh mục rất thánh thiện
và cũng rất thông thái, uyên bác. Các tác phẩm của ông được xếp ngang hàng với
tác phẩm của các thánh giáo phụ và tiến sĩ của Giáo Hội. Ông thường bị cám dỗ mạnh
về xác thịt, cho nên một hôm ông quyết định tự thiến mình đi để khỏi bị cám dỗ
nữa. Hành động này của ông chẳng những không được Giáo Hội khen mà còn bị chê
trách nữa, do hành động ấy mặc dù ông rất thánh thiện và thông thái nhưng ông
đã không được phong thánh và cũng không được coi là giáo phụ, hay tiến sĩ Giáo
Hội, vì ông bị coi là một người bất bình thường.
Vậy,
chúng ta không nên hiểu những lời Tin Mừng trên theo sát nghĩa đen. Mà phải hiểu
theo tinh thần. CG muốn căn dặn chúng ta phải hết sức triệt để xa lánh các dịp
tội.
Nhưng,
dịp tội là gì ? Thưa là tất cả những gì có thể khiến ta phạm tội.
.
Đó có thể là một sự vật. Td một chiếc xe đạp để ở chỗ vắng vẻ mà không có khoá.
.
Đó có thể là một người. Td một cô gái đẹp lả lơi ăn mặc hở hang.
.
Đó có thể là một hoàn cảnh, một môi trường. Td một xóm bình khang, một ổ điếm.
Để
cho rõ hơn nữa, các nhà luân lý phân ra nhiều loại dịp tội :
.
Dịp tội gần : là những dịp mà nếu gặp thì hầu như chắc chắn ta sẽ phạm tội.
Td người ghiền xì ke khi tới cơn ghiền, không có tiền, hễ gặp đồ đạc ai để hớ
hênh thì hầu như chắc chắn sẽ "chôm" liền. Gặp 10 lần thì phạm tội
khoảng 7,8 lần.
.
Dịp tội xa là những dịp mà có gặp thì cũng ít khi phạm tội. Td một người bình
thường gặp một món đồ để hớ hênh. Có thể là anh ta sẽ ăn cắp, mà cũng có thể
không ăn cắp.
Dịp
tội gần lại được phân làm 2 loại nữa :
.
Dịp bó buộc là tuỳ hoàn cảnh đó có nguy hiểm khiến mình phạm tội, nhưng mình bó
buộc phải vào, nếu không vào thì bị thiệt hại nặng. Td một cô gái làm việc cho
ông chủ có máu dê xồm và thường phải gặp mặt ông ta. Đây là một dịp nguy hiểm,
nhưng nếu cô không gặp thì cô phải mất việc làm, phải thất nghiệp, phải túng
thiếu.
.
Dịp tự do : là dịp tội cũng nguy hiểm nhưng ta không bó buộc phải gặp. Td
không ai bó buộc một cô gái phải đến gặp một người đàn ông không đứng đắn vào
buổi tối tại một nơi hẹn vắng vẻ.
Sau
khi đã phân biệt nhiều thứ tội khác nhau. Bây giờ chúng ta nghĩ xem mình phải
tránh loại dịp tội nào ? Xin nhớ 3 nguyên tắc sau :
.
Buộc phải tránh dịp tội gần, vì đó là dịp mà nếu ta gặp thì hầu như chắc chắn
chúng ta sẽ bị phạm tội. Td.
.
Khi gặp dịp tội tự do, ta phải xa tránh : vì đó cũng là một dịp tội gần
nguy hiểm hầu chắc sẽ phạm tội nhưng ta không bị bó buộc phải vào dịp đó cho
nên phải tránh đi.
.
Còn nếu là dịp bó buộc thì ta đành phải gặp, tuy nhiên phải khôn khéo làm cho dịp
tội gần và bó buộc đó tành ra dịp tội xa. Td một cô gái phải cặp mắt một ông chủ
không đứng đắn, đó là một dịp tội gần và bó buộc. Nhưng nếu cô cùng đến với một
người bạn khác nữa, hoặc đến gặp ở chỗ có đông người thì cô không còn nguy hiểm
nữa, dịp đó đã trở thành dịp tội xa rồi.
Con
người chúng ta có lương tri và có ý muốn hướng thượng, không ai cố tình muốn
làm tội. Tuy nhiên con người chúng ta cũng rất yếu đuối và dễ bị lôi cuốn cho
nên dễ bị sa ngã nếu gặp dịp tội. Bảng phân loại các dịp tội ở trên tuy hơi tỉ
mỉ và có tính cách giáo điều, nhưng rất rõ ràng và hữu ích. Chúng ta hãy cố gắng
xa lánh các dịp tội gần, vì Chúa đã dạy : "Nếu tay con nên dịp tội
cho con..."
3. Giải phẫu.
Người
ta đồn thổi rằng : Ăn thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp.
Nên họ tìm cách đánh bẫy khỉ.
Họ
lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một
lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt
trên cây.
Ngửi
thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm
chặt lấy trái cam và lôi ra.
Thọt
tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn tay khỉ bây giờ đã quá lớn
so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông trái
cam ra để bàn tay được tự do. Đã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết
mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người
thợ săn cứ ung dung đến bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương.
*
Thế
giới chúng ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng
ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội, khiến
chúng ta lỗi luật Chúa. "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt
tay nó đi" (Mc.9,43). Kiểu nói "chặt tay, chặt chân,
móc mắt"chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng, để diễn tả các dịp tội mà
ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình. Hội thánh không bao giờ hiểu đòi
hỏi này theo nghĩa đen, nếu cứ áp dụng triệt để theo từng câu từng chữ, thì khó
mà tìm được một người Kitô hữu lành lặn.
Đức
Giêsu chỉ có ý đòi buộc chúng ta phải quyết tâm mạnh mẽ để khử trừ các dịp tội,
các cơm cám dỗ, chớ coi thường chúng.
Chúng
ta đã từng chứng kiến nhiều người dám cắt bỏ một phần thân thể để cứu lấy sinh
mạng của mình. "Từ bỏ một điều quý giá để giữ lại một điều quý giá
hơn", đó là lẽ khôn ngoan ở đời. Cuộc sống vĩnh cửu không là điều
quý giá đáng cho chúng ta từ bỏ một phần thân thể đã trở nên xấu xa để đổi lấy
sao ? Nếu cần một cuộc giải phẫu để cứu lấy thân xác, thì cũng cần nhiều
cuộc cắt bỏ để cứu lấy linh hồn. Chúng ta có thể "cắt bỏ" một
thói hư tật xấu, cắt bỏ một lời nói cay độc, cắt bỏ một ánh mắt căm hờn, cắt bỏ
một cử chỉ khinh khi, cắt bỏ một lối sống buông tuồng, cắt bỏ một mối quan hệ bất
chính… Cắt bỏ như thế có khi còn đau hơn "móc con mắt, chặt cánh
tay". Đau vì nó quá thân thiết với cuộc đời chúng ta, đau vì nó
quá gắn liền với bản thân chúng ta, vì nó quá ăn sâu trong bản chất con người
chúng ta. Nhưng nếu can đảm vượt thắng nỗi đau, chúng ta sẽ lớn lên trong tư
cách làm người, và trưởng thành hơn trong địa vị làm con cái Chúa. Ludovic
Giraud có viết : "Nỗi đau đối với chúng ta như lưỡi cày đối với
mặt đất, nó cầy xới nhưng để làm cho đất màu mở, cũng như việc cắt tỉa cây cối :
làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khỏe và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao".
Có
những người mơ ước hy sinh cuộc đời, nhưng lại không dám hy sinh những tật xấu
của mình. Tuy nhiên, giải phẫu không chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế các bộ
phận hư hỏng. Chúng ta có thể thay trái tim sỏi đá căm hờn bằng trái tim dịu hiền
yêu thương. Chúng ta có thể thay bộ óc định kiến hẹp hòi bằng bộ óc thoáng đạt
hồn nhiên.
*
Lạy
Chúa, sống cho Chúa thật không dễ chút nào : Phải cắt bỏ những gì mình gắn
bó, thiết thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng : chỉ khi cắt tỉa những
cành lá rườm rà thì cây đời chúng con mới trổ sinh hoa trái tốt tươi. Xin cho
chúng con dám ra khỏi chính mình, để được lớn lên trong ân tình của Chúa.
Amen. (Thiên
Phúc, "Như Thầy đã yêu")
4.
Mảnh suy tư
a/ Ai
không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta :
-
Chúng ta có quyền nhân danh Đức Giêsu mà làm việc này việc nọ, nhưng đó không
phải là độc quyền của chúng ta.
-
Nếu biết suy nghĩ kỹ, ta sẽ hiểu rằng những tài năng và thành công của những
người khác không hề làm cho chúng ta bị nghèo đi, trái lại còn làm giàu thêm
cho chúng ta.
-
Cũng thế, một người khác với chúng ta không hề làm chúng ta nghèo đi nhưng còn
làm cho chúng ta giàu thêm.
-
Thiên Chúa ban nhiều ơn cho nhiều người. Bổn phận của chúng ta là đón tiếp những
ơn ban đó ở bất cứ nơi nào mà chúng ta phát hiện.
b/ Ai
cho anh em một chén nước lả thì người đó không mất phần thưởng đâu :
-
Chén nước lả là tượng trưng cho việc tốt nho nhỏ. Chúng ta ít có dịp làm những
việc tốt lớn lao, nhưng có rất nhiều dịp làm những việc tốt nho nhỏ.
-
Một việc làm có khả năng an ủi không nhất thiết phải là một việc lớn, mà chỉ cần
là một việc sưởi ấm cõi lòng.
c/ Ai
làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ
nó mà ném xuống biển còn hơn :
-
Cái làm cho trẻ con dễ thương nhất là tâm hồn rộng mở của chúng. Do tâm hồn rộng
mở, trẻ con đón nhận một cách ngây thơ tất cả những gì người ta dạy chúng.
-
Nhưng cũng do tâm hồn rộng mở mà trẻ con dễ bị tổn thương nhất vì bất cứ điều xấu
nào cũng có thể xâm nhập vào đấy.
-
Tội làm gương xấu cho trẻ con đáng bị buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển vì tội
đó biến cái dễ thương nhất thành cái tổn thương nhất.
V. Lời
nguyện cho mọi người
Chủ
tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã dạy : "Ai không chống đối
chúng ta là ủng hộ chúng ta", và "Ai làm cớ cho tín hữu bé nhỏ sa ngã
thì thà buộc cội đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn". Chúng ta
hãy sốt sắng cầu xin Chúa :
1.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh biết cố gắng tránh
mọi gương xấu / mà nêu gương tốt cho mọi người.
2.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo kẻ khác /
dù chưa biết Chúa để tin theo Chúa / vẫn luôn sống lương thiện và không
bao giờ chống đối Chúa.
3.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những nạn nhân của các gương xấu, nhất là các trẻ
nhỏ / gặp được những bạn bè và những nhà giáo dục biết đem chúng trở về đời
sống lương thiện.
4.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em trong xứ đạo chúng ta / biết
khoan dung với những người làm gương xấu nhưng không chống đối Chúa / và
biết luôn cố gắng để không làm gương xấu cho ai.
Chủ
tế : Lạy Chúa, chung quanh chúng con còn nhiều người làm gương xấu
và nhiều người là nạn nhân của gương xấu, xin cho chúng con biết rõ những hậu
quả ghê tởm của gương xấu, để không bao giờ làm gương xấu cho ai. Chúng con cầu
xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI. Trong
Thánh lễ
-
Sau kinh Lạy Cha : "Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin
giải thoát chúng con khỏi óc bè phái, cục bộ…"
VII. Giải
tán
Trong
tuần này, chúng ta hãy ghi nhớ và sống một câu Tin Mừng này : "Ai
không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa
Nhật XXVI Thường Niên (B)
Chúa
Nhật, 27 Tháng 9, 2015
Đón nhận những kẻ bé
mọn và bị khinh thường
Không ai sở hữu Chúa
Giêsu
Mc
9:38-43, 47-48
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với
cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong
ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám
phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết
của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin
hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa
trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày
và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau,
chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những
người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình
anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức
Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến
với chúng con. Amen.
2. Bài
Đọc
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Văn
bản Tin Mừng của Chúa Nhật XXVI Thường Niên thuật lại một phần của bài chỉ dẫn
dài mà Chúa Giêsu nói với các môn đệ (Mc 8:22-10:52). (Xem bài bình
luận về Tin Mừng ngày Chúa Nhật XXIV). Bài Tin Mừng này đặc biệt đặt
ra ba điều kiện cần thiết cho việc hoán cải một người muốn đi theo Chúa:
(i) Khắc phục ý tưởng sai lầm của những ai nghĩ rằng họ sở hữu Chúa
Giêsu (Mc 9:38-40); (ii) Khẳng định về việc niềm nở chào đón những
kẻ bé mọn (Mc 9:41-42) và (iii) Đòi hỏi một sự dấn thân triệt để vào Tin Mừng
(Mc 9:43-48).
b) Phần
phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Mc
9:38-40: Đức Giêsu chỉnh sửa tâm lý khép kín của thánh Gioan
Tông Đồ.
Mc
9:41: Bất cứ ai cho các môn đệ của Đấng Kitô uống một chén nước thì
sẽ được thưởng.
Mc
9:42: Tránh xúc phạm đến những kẻ bé mọn.
Mc
9:43-48: Tận tụy triệt để với Tin Mừng.
c)
Tin Mừng:
38 Khi
ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân
danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm
y". 39 Nhưng Chúa Giêsu phán: "Đừng ngăn cấm y,
vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. 40 Ai
chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con.
41 Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc
về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
42 Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn
có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì
hơn.
43 "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà
con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa
ngục, trong lửa không hề tắt. 44 Và nếu chân con làm dịp tội
cho con, hãy chặt chân đó đi; 45 thà con mất một chân mà
được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. 46 Và
nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, 47 thà
con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống
hỏa ngục, 48 nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa
không hề tắt". 49 Quả thật, ai nấy sẽ được luyện bằng
lửa như thể ướp bằng muối. 50 Muối là cái gì tốt. Nhưng muối
mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong
lòng anh em, và sống hoà thuận với nhau."
3. Giây
phút thinh lặng cầu nguyện
Để
Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một
vài câu hỏi gợi ý
Để
giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.
a) Lời nào
trong văn bản này làm bạn hài lòng nhất hay đánh động bạn nhất? Tại
sao?
b) Lời
giáo huấn của Chúa Giêsu: “Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các
con” có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay?
c) “Một ly
nước” được Chúa Giêsu nhắc đến có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay?
d) “Những
kẻ bé mọn” là ai? Câu “kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ
bé mọn” có nghĩa là gì (câu 42)?
e) “Buộc
thớt cối xay vào cổ”, “Chặt tay, chặt chân”, “Móc mắt”: Có thể nào
những câu này được hiểu theo nghĩa đen không? Chúa Giêsu nói gì qua
những câu này?
f) Trong cộng
đoàn và xã hội chúng ta, những kẻ bé mọn và bị khinh thường là những ai? Chúng
ta đón tiếp họ như thế nào và phẩm chất sự đón tiếp của chúng ta ra
sao?
5. Dành
cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
a) Bối
cảnh xưa và nay:
· Như
đã nói ở trên, Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này trình bày ba điều kiện cho việc
hoán cải của bất cứ ai muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu: (i)
Không có một tâm lý khép kín như môn đệ Gioan nghĩ rằng mình sở hữu Chúa Giêsu,
mà phải cởi mở và đại kết, có thể nhận ra sự tốt lành ở những người khác, dù rằng
họ có thể thuộc về một tôn giáo khác. (ii) Khắc phục não trạng của
những kẻ tự coi mình cao quý hơn những người khác và do đó, khinh thường những
kẻ bé mọn, nghèo hèn và bị tách rời ra khỏi cộng đoàn. Theo lời Chúa
Giêsu, những kẻ như thế thì đáng bị cột thớt cối xay vào cổ và quẳng xuống biển
sâu. (iii) Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta không nên để cho thói quen nhập vào
đời sống Tin Mừng của chúng ta, mà chúng ta nên có khả năng phá vỡ những mối
quan hệ ngăn trở chúng ta không sống đời ấy cách trọn vẹn.
· Ba
điểm này rất thực tế cho chúng ta ngày nay. Nhiều giáo dân của Giáo
Hội Công Giáo thường có xu hướng chống lại đại kết và có tâm lý khép chặt như
thể những Kitô hữu chúng ta tốt lành hơn những người khác. Thế giới
ngày nay, bị chi phối bởi hệ thống tân tự do, nhiều người coi thường những kẻ
bé mọn và bần hàn ở khắp mọi nơi, đói rách, người tị nạn và những kẻ bị bỏ rơi
đang gia tăng. Người Kitô hữu chúng ta thường không sống hết lòng với Tin
Mừng. Nếu chúng ta, hàng triệu người Kitô hữu, thực sự sống theo lời
Tin Mừng, thế giới này hẳn sẽ là một nơi khác.
b) Lời
bình luận về văn bản:
Mc
9:38-40: Trạng thái tâm lý khép kín.
Có
người không thuộc về cộng đoàn mà nhân danh Đức Giêsu để trừ quỷ. Môn
đệ Gioan thấy vậy và đã ngăn cấm anh ta: Bởi vì người ấy không phải
là người của chúng ta nên chúng con cố gắng ngăn cấm y. Ông
Gioan nhân danh cộng đoàn, ngăn cản người khác làm việc tốt lành! Ông
nghĩ rằng là một người môn đệ tốt, ông phải độc quyền chiếm hữu Chúa Giêsu và
do đó, đã muốn ngăn chặn những kẻ khác không được nhân danh Chúa Giêsu để làm
việc tốt lành. Đây là trường hợp não trạng cổ hủ và khép kín của
“Dân Riêng, Dân Được Chọn!” Chúa Giêsu đáp lại: Đừng
ngăn cản người ta! Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta!(Mc
9:40). Điều quan trọng đối với Chúa Giêsu không phải là người ấy có
thuộc về cộng đoàn hay không, mà là người ấy có làm những việc tốt lành mà cộng
đoàn cần phải làm hay không. Đức Giêsu có một tâm lý đại kết.
Mc
9:41: Ai cho một ly nước thì sẽ được phần thưởng.
Một
trong những câu nói của Chúa Giêsu được đưa vào ở đây: Ai cho anh
em uống một ly nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em,
người đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Hai tư tưởng để nhận xét
về lời nói này: i) “Nếu bất cứ ai cho anh em một ly nước”: Chúa
Giêsu đang trên đường đi về Giêrusalem để hy sinh mạng sống mình. Cử
chỉ của món quà cao quý! Nhưng Người không xem thường những quà tặng
nhỏ nhặt trong đời sống hằng ngày: một ly nước, một câu chào hỏi, một
cử chỉ bác ái, rất nhiều cử chỉ khác cho thấy tình yêu của chúng ta. Bất
cứ ai khinh thường viên gạch thì sẽ không bao giờ xây nổi một ngôi nhà! ii) Vì
lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô: Chúa Giêsu tự nhận mình với chúng
ta là những kẻ muốn thuộc về Người. Điều này có nghĩa là đối với
Chúa, chúng ta có giá trị tuyệt vời. Do đó, chúng ta phải luôn luôn
tự hỏi: “Chúa Giêsu là ai đối với tôi?” và chúng ta cũng hỏi
mình: “Tôi là ai đối với Chúa Giêsu?” Câu Tin Mừng này
cho chúng ta câu trả lời khích lệ và tràn đầy hy vọng.
Mc
9:42: Xúc phạm đến những kẻ bé mọn.
Việc
xúc phạm là
điều gì đó khiến cho một người đi trệch đường. Xúc phạm đến những
kẻ bé mọn là làm cớ cho những kẻ ấy vấp phạm và mất niềm tin vào Thiên
Chúa. Bất cứ kẻ nào làm như vậy, thì bị lên án: “đáng bị
buộc thớt cối xay vào cổ và quăng xuống biển!” Tại sao lại có lời
gay gắt như thế? Bởi vì Chúa Giêsu tự nhận mình với những kẻ nhỏ bé
(Mt 25:40-45). Bất cứ ai làm tổn thương họ, thì làm tổn thương đến
Chúa Giêsu! Ngày nay, ở nhiều nơi, những kẻ nhỏ bé, nghèo hèn, lìa bỏ
Hội Thánh Công Giáo và đi sang các giáo hội khác. Họ không còn có thể
tin vào Giáo Hội! Tại sao vậy? Trước khi chúng ta đổ lỗi
cho các giáo hội khác, tốt hơn là chúng ta hãy tự vấn: Tại sao họ rời
bỏ nhà chúng ta? Nếu họ bỏ đi bởi vì họ không cảm thấy như ở cùng
nhà với chúng ta thì chúng ta phải có sự thiếu sót gì đó. Chúng ta sẽ
đổ lỗi như thế nào đây? Chúng ta có đáng bị buộc cối đá vào cổ
không?
Mc
9:43-48: Chặt chân và tay.
Chúa
Giêsu bảo chúng ta chặt tay hoặc chân, móc mắt, nếu chúng là cớ cho việc phạm tội. Người
nói: “Thà các con là người tàn tật (cụt tay, cụt chân, chột mắt), mà
được vào cõi sống, còn hơn là có đầy đủ hai tay (chân, mắt) mà bị ném vào hỏa
ngục”. Những lời này không thể được hiểu theo nghĩa đen. Chúng
có nghĩa rằng chúng ta phải triệt để trong sự chọn lựa của chúng ta cho Thiên
Chúa và cho Tin Mừng. Danh từ Địa Ngục (Gehenna), nơi
mà dòi bọ rúc rỉa của nó không hề chết và lửa của nó không hề tắt”, là một
hình ảnh mô tả tình trạng của người không có Thiên Chúa. Gehenna là
tên một thung lũng gần thành Giêrusalem, nơi đó rác của thành phố được thải ra
và nơi có ngọn lửa cháy liên tục để đốt rác. Nơi hôi hám này đã được
người ta dùng để chỉ tình trạng của một người không có phần trong Nước Thiên
Chúa.
c) Phần
phụ lục:
Chúa
Giêsu đón tiếp và bênh vực những kẻ bé nhỏ
Đã
nhiều lần, Chúa Giêsu khẳng định về việc đón tiếp những kẻ bé mọn. “Ai
đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp
chính mình Thầy” (Mc 9:37). “Nếu ai cho một trong những kẻ bé nhỏ
này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo
thật các con, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:42). Chúa
yêu cầu chúng ta đừng kinh khi những kẻ bé mọn (Mt 18:10). Vào ngày
phán xét chung, công lý sẽ được chào đón bởi vì họ đã chia thức ăn cho “kẻ bé mọn
nhất trong những anh em của Ta” (Mt 25:40).
Nếu
Chúa Giêsu nhấn mạnh nhiều vào việc tiếp đón những kẻ bé mọn, vì lẽ có nhiều kẻ
bé mọn đã không được đón tiếp! Thật ra, phụ nữ và trẻ em đã không được
đếm xỉa tới (Mt 14:21; 15:38), họ bị khinh thường (Mt 18:10) và buộc phải im lặng
(Mt 21:15-16). Ngay cả các tông đồ cũng đã cấm họ đến gần Chúa Giêsu
(Mt 19:13; Mc 10:13-14). Nhân danh lề luật của Thiên Chúa, bị giải
thích cách sai lạc bởi các kẻ có giáo quyền, cho nên nhiều người tốt lành đã bị
loại trừ. Thay vì đón tiếp những kẻ bị loại trừ, lề luật đã được
dùng để hợp pháp hóa việc loại trừ.
Trong
Tin Mừng, thành ngữ “những kẻ bé mọn” (theo tiếng Hy Lạp, elachistoi,
mikroi hay nepioi), đôi khi có nghĩa là “trẻ nhỏ”, những
lúc khác, nó có nghĩa là những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Không dễ
dàng mà phân biệt. Thỉnh thoảng chữ “bé nhỏ” trong Tin Mừng có nghĩa
gì, có nghĩa là “trẻ em” bởi vì trẻ em bị xếp vào loại “những
kẻ bé mọn”, những kẻ bị loại trừ. Cũng thế, chẳng dễ mà có thể phân biệt giữa
những gì phát xuất từ thời Chúa Giêsu và những gì từ thời các cộng đoàn mà những
sách Tin Mừng được viết cho họ. Dù sao chăng nữa, điều rõ ràng là bối
cảnh của việc loại trừ thì có thật vào thời ấy, và hình ảnh mà các cộng đoàn
tiên khởi có về Chúa Giêsu là: Chúa Giêsu đứng về phía những kẻ bé mọn
và bênh vực họ. Những gì mà Chúa Giêsu làm để bênh vực đời sống của
các trẻ nhỏ, những kẻ bé mọn, thì nổi bật:
* Đón tiếp
và nghiêm cấm việc xúc phạm đến họ. Một trong những câu nói gay
gắt nhất của Chúa Giêsu là đối với những ai tạo cớ vấp phạm cho
những kẻ bé mọn, đó là những kẻ bằng vào thái độ của họ đã tước đoạt khỏi các
trẻ nhỏ đức tin của chúng vào Thiên Chúa. Đối với những kẻ như thế
thì tốt hơn là buộc thớt cối đá vào cổ họ và xô xuống biển (Mc 9:42; Lc 17:2;
Mt 18:6).
* Chào đón
và giao tiếp. Khi các trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu để nhận phép
lành của Người, các môn đệ đã lấy làm khó chịu và muốn đuổi chúng đi. Theo
phong tục của thời đó, trên phương diện pháp lý, các bà mẹ và các con nhỏ thực
sự sống trong một tình trạng luôn không tinh tuyền. Giao tiếp với chúng
có nghĩa là bị nhơ bẩn lây! Nhưng Chúa Giêsu chỉnh sửa các môn đệ và
chào đón các bà mẹ và trẻ em. Người ôm lấy các em. “Hãy để
cho các trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng! (Mc 10-13-16; Mt 19:13-15).
* Đồng
cảm với những kẻ bé mọn. Chúa Giêsu ôm lấy các trẻ nhỏ và đồng cảm
với chúng. Ai đón tiếp chúng tức là “đón tiếp chính mình Thầy” (Mc
9:37). “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé
nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40).
* Đòi hỏi các môn đệ
trở nên như trẻ nhỏ. Chúa
Giêsu muốn các môn đệ trở nên như trẻ nhỏ vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống
như chúng. Nếu không thì chẳng thể nào vào được Nước Trời (Mc 10:15;
Mt 18:3; Lc 9:46-48). Chúa nói rằng các trẻ nhỏ là những thày dạy của người lớn! Điều
này không bình thường. Chúng ta muốn làm ngược lại.
* Bênh
vực quyền được reo hò của chúng. Khi Chúa Giêsu tiến vào thành
Giêrusalem, chính các trẻ nhỏ đã reo hò vang dội: “Hoan hô con vua
Đavít!” (Mt 21:15). Các trẻ nhỏ đã bị khiển trách bởi các thượng tế
và Kinh sư, nhưng Chúa Giêsu đã bênh vực chúng và thậm chí còn trích lời Kinh
Thánh để bênh vực (Mt 21:16).
* Thật
là vinh phúc cho Nước Trời hiện diện trong những kẻ bé mọn. Chúa
Giêsu rất vui mừng khi nhận ra rằng những kẻ nhỏ bé hiểu được các vấn đề liên
quan đến Nước Trời mà Người đã công bố cho người ta. “Lạy Cha, Con
xin tạ ơn Cha!” (Mt 11:25-26). Chúa Giêsu thấy rằng những kẻ bé mọn
hiểu được những việc liên quan đến Nước Trời hơn là những luật sĩ!
* Đón
tiếp và chữa lành. Chúa Giêsu đón tiếp, chữa lành hoặc khiến nhiều
trẻ em hoặc người chết trẻ tuổi sống lại: cô con gái mười hai tuổi của
ông Giairu (Mc 5:41-42), đứa con gái của người phụ nữ Canaan (Mc 7:29-30), con
trai của góa phụ thành Naim (Lc 7:14-15), đứa bé mắc bệnh động kinh (Mc
9:25-26); con trai vị đại đội trưởng (Lc 7:9-10), con trai viên sĩ quan cận vệ
nhà vua (Ga 4:50), đứa bé với năm chiếc bánh và hai con cá (Ga 6:9).
6. Thánh
Vịnh 34 (33)
Người
nghèo chia sẻ đức tin của anh ta với chúng ta
Tôi sẽ không ngừng chúc tụng CHÚA,
câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.
Linh hồn tôi hãnh diện vì CHÚA
xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.
Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA,
ta đồng thanh tán tụng danh Người.
Tôi đã tìm kiếm CHÚA, và Người đáp lại,
giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.
Ai nhìn lên CHÚA sẽ vui tươi hớn hở,
không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.
Kẻ nghèo này kêu lên và CHÚA đã nhận lời,
cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn.
Sứ thần của CHÚA đóng trại chung quanh
để giải thoát những ai kính sợ Người.
Hãy nghiệm xem CHÚA tốt lành biết mấy:
hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!
Kính sợ CHÚA đi, đoàn dân thánh hỡi,
vì ai kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi.
Kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ,
còn ai tìm kiếm CHÚA chẳng thiếu của gì.
Các con ơi, hãy đến mà nghe,
ta sẽ dạy cho biết đường kính sợ CHÚA.
Ai là người thiết tha được sống,
ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc chứa chan?
Phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa;
hãy làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà.
CHÚA đối đầu với quân gian ác,
xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời,
nhưng để mắt nhìn người chính trực
và lắng tai nghe tiếng họ kêu.
Họ kêu xin, và CHÚA đã nhận lời,
giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.
CHÚA gần gũi những tấm lòng tan vỡ,
cứu những tâm thần thất vọng ê chề.
Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân,
nhưng CHÚA giúp họ luôn thoát khỏi.
Xương cốt họ đều được CHÚA giữ gìn,
dầu một khúc cũng không giập gãy.
Quân gian ác chết vì tội ác,
kẻ ghét người lành chuốc án phạt vào thân.
CHÚA cứu mạng các người tôi tớ,
ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ.
Tôi sẽ không ngừng chúc tụng CHÚA,
câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.
Linh hồn tôi hãnh diện vì CHÚA
xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.
Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA,
ta đồng thanh tán tụng danh Người.
Tôi đã tìm kiếm CHÚA, và Người đáp lại,
giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.
Ai nhìn lên CHÚA sẽ vui tươi hớn hở,
không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.
Kẻ nghèo này kêu lên và CHÚA đã nhận lời,
cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn.
Sứ thần của CHÚA đóng trại chung quanh
để giải thoát những ai kính sợ Người.
Hãy nghiệm xem CHÚA tốt lành biết mấy:
hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!
Kính sợ CHÚA đi, đoàn dân thánh hỡi,
vì ai kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi.
Kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ,
còn ai tìm kiếm CHÚA chẳng thiếu của gì.
Các con ơi, hãy đến mà nghe,
ta sẽ dạy cho biết đường kính sợ CHÚA.
Ai là người thiết tha được sống,
ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc chứa chan?
Phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa;
hãy làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà.
CHÚA đối đầu với quân gian ác,
xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời,
nhưng để mắt nhìn người chính trực
và lắng tai nghe tiếng họ kêu.
Họ kêu xin, và CHÚA đã nhận lời,
giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.
CHÚA gần gũi những tấm lòng tan vỡ,
cứu những tâm thần thất vọng ê chề.
Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân,
nhưng CHÚA giúp họ luôn thoát khỏi.
Xương cốt họ đều được CHÚA giữ gìn,
dầu một khúc cũng không giập gãy.
Quân gian ác chết vì tội ác,
kẻ ghét người lành chuốc án phạt vào thân.
CHÚA cứu mạng các người tôi tớ,
ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ.
7. Lời
Nguyện Kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn
ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm
của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải
cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức
Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét