Trang

Thứ Năm, 24 tháng 9, 2015

25-09-2015 : THỨ SÁU TUẦN XXV MÙA THƯỜNG NIÊN

25/09/2015
Thứ Sáu sau Chúa Nhật 25 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (Năm I) Kg 2, 1b-10
"Còn một ít lâu nữa, Ta sẽ làm cho đền thờ này đầy vinh quang".
Trích sách Tiên tri Khác-gai.
Năm thứ hai triều đại vua Ðariô, đến ngày hai mươi mốt tháng bảy, có lời Chúa dùng tiên tri Khác-gai mà phán rằng: "Ngươi hãy nói với Giorôbabel, con trai tướng lãnh Giuđa, là Saluthiel, nói với Giosua, con trai thượng tế Giosêđec, và với những kẻ sống sót lại trong dân rằng: "Ai trong các ngươi là kẻ sống sót lại đã nhìn thấy vinh quang thuở xưa của đền thờ này: và giờ đây các ngươi xem thấy nó thế nào? Chớ thì nó chẳng là không trước mắt các ngươi sao? Và Chúa lại phán: Hỡi Giorôbabel, giờ đây hãy can đảm. Hỡi Giosua, con trai thượng tế Giosêđêc, hãy can đảm; và toàn dân trên lãnh thổ, hãy can đảm, đây Chúa các đạo binh phán: Các ngươi hãy khởi công, vì Ta ở cùng các ngươi, Chúa các đạo binh phán như vậy. Có lời Ta đã giao ước với các ngươi, khi các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, là thần linh Ta sẽ ở giữa các ngươi, nên các ngươi đừng sợ".
Vì Chúa các đạo binh phán như thế này: "Còn ít lâu nữa, Ta sẽ khiến trời đất, biển khơi và đất cạn chuyển động. Ta cũng sẽ khiến mọi dân tộc chuyển động; và Ðấng mọi dân tộc trông đợi sẽ đến: Ta sẽ làm cho đền thờ đầy vinh quang, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vàng bạc đều là của Ta, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vinh quang đền thờ sau hết này sẽ cao trọng hơn vinh quang đền thờ trước, Chúa các đạo binh phán như vậy: trong nơi này, Ta sẽ ban hoà bình, Chúa các đạo binh phán như vậy".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 42, 1. 2. 3. 4
Ðáp: Hãy cậy trông Ðức Chúa Trời, vì con còn ca tụng Chúa, Ðấng cứu thể diện và là Thiên Chúa của con (c. 5bc).
Xướng: 1) Xin Chúa minh xét cho con, ôi Thiên Chúa, xin bênh vực quyền lợi con đối nghịch với dân vô đạo, xin cứu con khỏi tay người độc ác, điêu gian! - Ðáp.
2) Vì lạy Chúa, Chúa là sức mạnh con, cớ chi Chúa bỏ con? Cớ chi con phải sống ngậm ngùi vì bị quân thù áp bức? - Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thật của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. - Ðáp.

Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 9, 18-22
"Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì Người hỏi các ông rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông thưa rằng: "Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại". Người lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa". Và Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Thầy Là Ðức Kitô
Trong số các trò chơi để trắc nghiệm mức hiểu biết của các em, có trò chơi đưa hình một danh nhân cho các em xem, sau đó yêu cầu các em nói thật vắn tắt và chính xác về nhân vật ấy. Em nào trả lời đúng sẽ được thưởng. Chúa Giêsu đã có lần áp dụng phương thức này với các môn đệ, chỉ khác ở chỗ nhân vật được đưa ra không ai xa lạ hơn là chính Ngài. Ðã có những câu trả lời được đưa ra, nhưng chỉ có câu trả lời của Phêrô là đúng, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu vốn là một vấn đề khó hiểu đối với nhiều người. Những giả thuyết về Ngài đều từ từ bị chứng minh là sai. Có người bảo Ngài là Gioan Tẩy giả, nhưng trong cách sống và giáo lý của Ngài, có nhiều điểm khác với Gioan Tẩy giả; có kẻ bảo Ngài là Êlia hay một ngôn sứ nào đó, nhưng ở đây cũng vậy, giáo lý và thái độ của Chúa Giêsu có nhiều điểm vượt quá và cắt đứt với giáo lý và thái độ của bất cứ ngôn sứ nào trong Cựu Ước. Dù đồng hóa Chúa Giêsu với Gioan Tẩy giả, với Êlia hay với một ngôn sứ nào đó, tất cả đều giống nhau ở chỗ chưa có câu trả lời nào nhận ra Chúa Giêsu là nhân vật chính, còn các vị kia chỉ là người loan báo và chuẩn bị.
Chúa Giêsu đã bị dư luận quần chúng coi là một trong các vị tiền hô cuối cùng, cho đến khi Phêrô đưa ra câu trả lời chính xác: "Thầy là Ðức Kitô Con Thiên Chúa". Phêrô đã nhìn thấy nơi Chúa Giêsu chính nhân vật mà muôn dân mong đợi. Ngài là Ðức Kitô, có nghĩa là Ðấng hội tụ mọi hy vọng và chờ mong của con người, là Ðấng quyết định vận mệnh của dân tộc và cá nhân, là Ðấng nắm giữ và đưa lịch sử đến hồi kết thúc. Ðức Kitô có đủ mọi tư cách đó, bởi vì Ngài là Ðấng được Thiên Chúa sai đến, Ngài là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu linh cảm thấy lời tuyên xưng của Phêrô có thể bị giải thích sai lạc, nếu được tung ra cho mọi người biết; chính vì thế chẳng những Ngài cấm ngặt các ông không được nói điều ấy với ai, mà kể từ đó Ngài còn đích thân nói rõ về tư cách Kitô của Ngài.
Xin Chúa cho chúng ta biết lặp đi lặp lại mỗi ngày lời tuyên xưng của thánh Phêrô: "Thầy là Ðức Kitô Con Thiên Chúa" để chúng ta vững bước trên con đường theo Chúa và làm chứng cho Chúa.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 25 TN1
Bài đọc: Hag 2:1-9; Lk 9:18-22

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Xây dựng kết quả lâu dài hơn là những chấp vá tạm thời.
Khi phải đương đầu với những thách đố của cuộc sống, nhiều người thích những giải quyết dễ dãi, nhanh chóng, và tạm thời; nhưng những giải quyết như thế không đem lại cho con người những kết quả tốt đẹp và lâu bền. Rốt cuộc, họ lại phải bắt đầu lại từ đầu. Ví dụ, việc học sinh ngữ: thay vì phải bắt đầu với việc học văn phạm và nhớ từ ngữ, nhiều người lại bắt đầu ngay với việc nhớ các câu thông dụng. Vì thế, khi phải nói những "câu có sẵn," họ trả lời được; nhưng khi phải làm câu mới, họ không biết phải xếp đặt làm sao! Để đạt được kết quả lâu bền, con người cần tìm ra căn nguyên thật sự của vấn đề, và kiên nhẫn tìm cách thức thích hợp để giải quyết, cho dù phải tốn nhiều thời gian và phải chấp nhận gian khổ.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra hai ví dụ để giúp con người biết giải quyết tận gốc vấn đề. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Haggai khuyên tất cả những người có trách nhiệm và dân chúng chú trọng đặc biệt đến việc xây dựng Đền Thờ, hơn là cố gắng ổn định đời sống; vì Đền Thờ là nơi Thiên Chúa ở với con người để dạy dỗ và ban ơn. Việc xây dựng Đền Thờ sau Thời Lưu Đày chắc chắn sẽ gặp khó khăn, nhưng họ phải cố gắng khắc phục hoàn cảnh, vì Đền Thờ sẽ mang lại nhiều lợi ích đến cho con cái Israel. Trong Phúc Âm, sau khi Phêrô tuyên xưng căn tính của Chúa Giêsu, Ngài báo trước Cuộc Thương Khó lần thứ nhất để các tông-đồ chuẩn bị đương đầu với đau khổ khi nó xảy đến; đồng thời, Ngài cũng báo trước Ngài sẽ sống lại vinh quang sau ba ngày trong huyệt mộ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Diễn từ thứ hai của tiên-tri Haggai
1.1/ Tiên-tri Haggai đốc thúc dân xây cất Đền Thờ Thiên Chúa.
(1) Lý do Đền Thờ bị phá hủy: Đền Thờ Jerusalem do vua Solomon xây dựng bị phá hủy là vì con cái Israel đã bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại và đối xử bất công với đồng loại của mình. Sau hơn 50 năm lưu đày, giờ đây họ được hồi hương trở về để tái thiết xứ sở. Phản ứng đầu tiên của dân chúng là chỉ biết nghĩ đến cá nhân và gia đình của họ; để tìm cách ổn định đời sống cách nhanh chóng hết sức có thể. Tiên-tri Haggai không suy nghĩ như dân chúng. Ông biết căn nguyên của vấn đề là phải sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân. Việc xây dựng Đền Thờ cần thiết để qui tụ và dạy dỗ dân chúng; nếu không, họ sẽ mạnh ai nấy sống, và việc phải lưu đày lần nữa chắc chắn sẽ xảy ra.
(2) Phải biết nhìn lại quá khứ và suy xét: Tiên-tri Haggai mời gọi dân chúng nhìn lại Đền Thờ quá khứ: "Ai trong các ngươi trong số người còn sót lại đã từng được chứng kiến cảnh rực rỡ vinh quang của Đền Thờ ban sơ? Và bây giờ các ngươi thấy Đền Thờ như thế nào? Trước mắt các ngươi, nó chẳng còn là gì nữa đó sao?" Dĩ nhiên, Haggai không chỉ giới hạn việc xây dựng Đền Thờ bên ngoài; nhưng còn chú trọng đến việc xây dựng đền thờ trong tâm hồn, là biết sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa, và với anh chị em đồng loại.
1.2/ Vinh quang có được sau này là hậu quả của cố gắng khắc phục khó khăn bây giờ.
(1) Phải can đảm khắc phục hoàn cảnh khó khăn: Con cái Israel phải đương đầu với rất nhiều khó khăn khi hồi hương: công ăn, việc làm, nhà ở, chính quyền địa phương, kẻ thù chung quanh... Haggai biết tất cả những điều đó; nhưng ông nhìn thấy những lợi ích của Đền Thờ: sự hiện diện của Thiên Chúa, lòng đạo đức của dân chúng, và sự an toàn quốc gia. Vì thế, ông khuyên tất cả phải khắc phục khó khăn, để dốc toàn lực vào việc xây dựng Đền Thờ trước hết, các sự khác không quan trọng bằng Đền Thờ, và Thiên Chúa sẽ chúc lành cho họ sau. Ông nói: "Vậy bây giờ, hỡi Zerubbabel, hãy mạnh bạo lên! Này thượng tế Joshua, con ông Jehozadak, mạnh bạo lên nào! Toàn dân trong xứ hãy mạnh bạo lên! Sấm ngôn của Đức Chúa. Hãy bắt tay vào việc, vì chính Ta ở với các ngươi. Sấm ngôn của Đức Chúa các đạo binh."
(2) Vinh quang sẽ xảy đến trong tương lai: "Quả thật, Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi, Ta sẽ làm rung chuyển trời đất, biển khơi và đất liền. Ta sẽ làm cho tất cả các dân tộc phải chấn động và các kho tàng của các dân tộc sẽ đổ về, rồi Ta sẽ làm cho Đền Thờ này rực rỡ vinh quang. Đức Chúa các đạo binh phán. Bạc là của Ta, vàng là của Ta."
Lời sấm này không chú trọng đến của cải vật chất cho bằng tài sản tinh thần. Hai điều quan trọng và có liên quan Haggai muốn chú trọng ở đây là (1) Đấng Thiên Sai sẽ đến; và (2) Niềm tin vào Thiên Chúa của các dân tộc trên địa cầu. Niềm tin vào Thiên Chúa không chỉ còn giới hạn trong vòng con cái Israel; nhưng sẽ được mở rộng đến tất cả các quốc gia trên địa cầu, và Đền Thờ Jerusalem sẽ là trung tâm cho các dân tộc hướng về (Isaiah).
2/ Phúc Âm: Con Người phải chịu đau khổ nhiều... và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy.
2.1/ Cần nhận ra căn tính của Đấng Thiên Sai: Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: "Dân chúng nói Thầy là ai?"
(1) Dân chúng không nhận ra căn tính của Chúa Giêsu: Có người cho Chúa Giêsu là
- Gioan Tẩy Giả, như tiểu vương Herode: vì Chúa dám nói thật và thẳng tay sửa sai.
- Có kẻ khác bảo là ông Elijah: vì lời Chúa có uy lực và Ngài làm nhiều phép lạ.
- Kẻ khác nữa lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.
(2) Ông Phêrô tuyên xưng căn tính của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho các môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa."
Mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa, hay mối liên hệ giữa người môn đệ với Đức Kitô là một mối liên hệ cá nhân. Người khác có thể nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa. Họ có thể chỉ đường và tạo cơ hội cho chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa; nhưng để sống mối liên hệ với Ngài, chúng ta cần bỏ thời gian để học hỏi, cầu nguyện, và sống mối liên hệ với Ngài.
2.2/ Cần nhận ra con đường cứu độ của Đấng Thiên Sai: Truyền thống Do-thái đang mong một Đấng Thiên Sai sẽ dùng uy quyền và sức mạnh để dẹp tan quân thù, lên ngôi cai trị, và phục hồi danh dự và uy quyền cho con cái Israel. Điều này không phải là ý muốn của Thiên Chúa. Ngài muốn Đấng Thiên Sai phải chấp nhận gian khổ và cái chết để cứu chuộc con người khỏi tội, và cho con người được sống muôn đời.
(1) Con người sẽ phải chịu đau khổ và bị giết chết: Chúa Giêsu báo trước Cuộc Thương Khó lần thứ nhất: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy."
(2) Con Người sẽ sống lại hiển vinh ngày thứ ba: Đau khổ của Chúa Giêsu chỉ tạm thời; nhưng Ngài sẽ phục sinh vinh hiển vào ngày thứ ba.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần đương đầu với sự thật của mọi vấn đề, với căn nguyên của chiến tranh và đau khổ; trước khi có thể giải quyết vấn đề, và xây dựng một cuộc đời tốt đẹp hơn.
- Để đạt được thắng lợi vinh quang, chúng ta cần có can đảm để chấp nhận đau khổ tạm thời. Nếu không chấp nhận đau khổ, làm sao có vinh quang?
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

25/09/15        THỨ SÁU TUẦN 25 TN
Lc 9,18-22
“ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?”
Đức Giê-su hỏi các môn đệ rằng: “Dân chúng nói Thầy là ai ?”…. Người lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”… (Lc 9,18.20)
Suy niệm: Trải qua các thời đại cho đến ngày hôm nay, lời giảng dạy và hành động và cả chính con người của Chúa Giê-su đã khiến cho người ta không ngừng thắc mắc: Ngài là ai? Chúa Giê-su không cần các môn đệ nói mới biết ý kiến của người đương thời về Ngài. Điều cần thiết hơn cả là Ngài muốn các môn đệ nói lên chính họ nhìn nhận Ngài là ai. Ngài không muốn các môn đệ nhìn Ngài như người ta nghĩ, người ta tưởng về Ngài, mà trái lại Ngài muốn họ có một hiểu biết đúng Ngài là ai: “là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” và nhất là muốn họ có thái độ dấn thân quả quyết, dứt khoát để đi theo làm môn đệ của Ngài.
Mời Bạn tự vấn nhận thức và thái độ của mình đối với Đức Ki-tô: “Giờ này, đối với tôi, Đức Ki-tô là ai rồi?... Ngài còn là Ngài hay thôi?” Tôi đã thực sự biết Ngài và sống thiết nghĩa với Ngài như với Đấng là Thiên Chúa và là Chủ đời tôi? Hay tôi vẫn nhìn Ngài theo cảm nhận chủ quan, theo dư luận, quan điểm của thế gian?
Sống Lời Chúa: Mỗi khi đọc Lời Chúa và lãnh nhận Thánh Thể, bạn dành thời gian tâm sự thân tình với Chúa Ki-tô để bạn thực sự được gặp gỡ Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, không ai có thể làm thay con, nhưng con phải tự mình khám phá khuôn mặt Chúa trong suốt cuộc đời con. Xin ban cho con đôi mắt trong sáng để nhận ra Chúa mọi nơi mọi lúc; và đôi tai mở rộng để lắng nghe tiếng Chúa gọi mời. Xin giúp con sống điều Chúa dạy, để người khác cũng nhận ra khuôn mặt đáng yêu của Chúa nơi chính cuộc đời con.

Anh em bảo Thầy là ai?
Trả lời câu hỏi của Thầy Giêsu không hẳn đã là điều quan trọng. Điều quan trọng là sống câu trả lời của mình. Đời tôi là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi đó.


Suy nim:
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã đi cầu nguyện một mình,
trước khi đặt những câu hỏi quan trọng cho các môn đệ.
“Dân chúng nói Thầy là ai ?” (c. 18).
Ngài muốn biết dư luận nghĩ gì về mình.
Nói chung họ nghĩ Ngài là một ngôn sứ đầy quyền năng (x. Lc 24, 19).
Điều đó đúng nhưng không đủ.
Đức Giêsu mong nghe ý kiến của những người đã ở gần Ngài hơn.
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (c. 20).
Phêrô đại diện anh em trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.”
Câu trả lời này đúng hơn và đủ hơn,
nhưng cũng dễ gây hiểu lầm và chưa đến lúc cần công bố.
Chính vì thế Đức Giêsu đã cấm các môn đệ không được tiết lộ (c. 21).
Phêrô đã trả lời đúng, vì Thầy Giêsu quả là Đấng Kitô
hay còn gọi là Đấng Mêsia mà dân Do Thái mong đợi từ bao đời.
Nhưng Phêrô có thể hiểu sai khuôn mặt của Đấng Mêsia đó.
Mêsia Giêsu không phải là người sẽ giải phóng Ítraen khỏi ách Rôma,
cũng không phải là người muốn nắm quyền lực trần thế.
Nhưng Ngài sẽ phải chịu khổ hình và bị giết chết bởi giới lãnh đạo (c. 22).
Mêsia Giêsu mang khuôn mặt đau khổ của Người Tôi Trung.
Phêrô đã đi theo Mêsia nào?
Nếu ông biết số phận bi đát đang chờ đợi Thầy của ông,
ông có còn muốn theo Ngài nữa không?
“Còn con, con bảo Thầy là ai?”
Đức Giêsu cũng hỏi từng người chúng ta như vậy, nhiều lần trong đời.
Tôi phải trả lời, vì tôi không nên đi theo Đấng mà tôi không biết là ai.
Tôi nghe câu hỏi trên ở mọi chặng đường của cuộc sống,
và có thể đưa ra những câu trả lời khác nhau, dựa trên kinh nghiệm,
bởi lẽ Đức Giêsu là một Mầu nhiệm không ngừng mở ra cho tôi.
Qua từng biến cố trong đời, tôi lại khám phá ra những nét mới nơi Ngài.
Ngài vẫn là một, nhưng mang nhiều dáng dấp khác nhau khi đến với tôi,
để đáp lại những khát vọng sâu thẳm nơi trái tim.
Nhưng trả lời câu hỏi của Thầy Giêsu không hẳn đã là điều quan trọng.
Điều quan trọng là sống câu trả lời của mình.
Đời tôi là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi đó.
Nếu tôi coi Ngài là Thầy, xin được ngồi nghe và để Thầy uốn nắn.
Nếu tôi coi Ngài như Bạn, xin được dành giờ để tâm sự, sẻ chia.
Nếu tôi tin Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người,
xin được cúi đầu thờ lạy trước tình yêu khiêm hạ.
Nếu tôi gọi Ngài là Chúa, xin được hiến trọn đời mình
để cùng Ngài phục vụ cho kế hoạch cứu độ của Cha.
Nếu tôi gọi Ngài là Đấng Giải Phóng, xin Ngài cho tôi được tự do,
và cho tôi được cộng tác với Ngài giúp thế gian ra khỏi vòng nô lệ.
Cuối cùng, nếu tôi biết rõ Ngài yêu tôi cách độc nhất,
xin để cho đời mình đáp lại tình yêu.
Cầu nguyn:

Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.

Xin hãy dẫn dắt con
đi từ thất vọng đến hy vọng,
từ sợ hãi đến tín thác.

Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình.

Xin hãy đổ đầy bình an
trong trái tim chúng con,
trong thế giới chúng con,
trong vũ trụ chúng con.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25 THÁNG CHÍN
Tiếng Gọi Làm Môn Đệ Chúa
Chúng ta đã tìm hiểu những chân lý mà Giáo Hội tuyên xưng và rao giảng. Những chân lý này thiết lập nên nền tảng của Giao Ước Mới với Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.
Chúng ta đã nắm hiểu mục đích của việc giáo dục Kitô giáo. Ngay từ những năm đầu đời của chúng ta tại gia đình và giáo xứ, chúng ta đã nghe lời mời gọi trở thành môn đệ Đức Giêsu Kitô. Đây là mục tiêu của lời cầu nguyện chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta cùng với gia đình và cộng đoàn xứ đạo của mình đã đưa chúng ta đến gần hơn bao giờ hết mầu nhiệm về sự hiện diện của Đức Kitô.
Đó là mục tiêu của việc giáo dục Kitô giáo. Nhờ Phép Rửa, chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa. Giờ đây chúng ta lại trở nên những môn đệ của Đức Giêsu Kitô.
Các con, và cả Cha nữa, chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa về cha mẹ và về các cha xứ của chúng ta. Chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa về tất cả những ai đã giúp chúng ta nhận hiểu chân lý được Thiên Chúa mạc khải qua Đức Giêsu Kitô và được Hội Thánh truyền giảng.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II

Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY  25-9
Kg 1, 15b-2,9; Lc 9, 18-22.

LỜI SUY NIỆM: Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: “Dân chúng nói Thầy là ai?”
Sau khi Nhóm Mười Hai được sai đi rao giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành mọi bệnh tật cho dân chúng trở về. Chúa Giêsu hỏi các ông có nghe dân chúng nói về Người như thế nào không. Các ông đã thành thật nói lên những dư luận của dân nói về Người: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ bảo là ông Êlia, kẻ khác lại bảo là một ngôn sứ thời xưa sống lại”. Như thế là tất cả chưa ai nhận ra Người là Đấng Thiên Sai, Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Nên Người đã hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Trước sự im lặng của các ông, chỉ môt mình Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, Và Người đã an tâm để loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người.
Lạy Chúa Giêsu. Nhờ có Hội Thánh Chúa; nhờ những Tông Đồ nối tiếp nhau loan báo Tin Mừng và những chứng nhân Tử vì Đạo, chúng con tin nhận Chúa là Thiên Chúa của chúng con. Chúa là Đấng cứu độ chúng con. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn sống đức tin, để được cứu rỗi.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
NGÀY 25-09 THÁNH GIUSE CALASANZ - LINH MỤC (1557 - 1648)

Thánh Giuse Calasanz sinh năm 1557 tại Peralta de la Sal miền Aragonia. Cha mẹ Ngài là những một giàu có trong miền, nhưng đã dày công dạy cho con biết yêu Chúa thiết tha, ham thích cầu nguyện và gớm ghét tội lỗi. Chính Giuse ngay từ niên thiếu đã tỏ dấu có lòng bác ác đặc biệt với trẻ nhỏ và ưu tư giáo dục chúng. Ngài thường tụ họp các bạn trẻ lại để dạy cho chúng biết các mầu nhiệm đức tin và biết cách cầu nguyện.
Lớn lên, Giuse được gởi học văn phạm và các môn cổ điển tại Estadilla. 15 tuổi Ngài đã hoàn tất chương trình trung học. Cha mẹ Ngài đặt rất nhiều hy vọng vào tương lai của con. Giuse lại mong chờ một sứ mệnh cao cả hơn. Ngài xin theo học một chương trình sống rất nghiêm khắc để đề phòng những dục vọng bất chính. Ngài còn nhiệt thành dạy giáo lý cho người dốt nát, thăm viếng giúp đỡ các bệnh nhân và những người nghèo khổ. Dầu vậy Ngài đã thành công mỹ mãn và được phép cha cho ở lại để học dân luật và giáo luật.
Ngày 11 tháng 4 năm 1575, Ngài chịu phép cắt tóc gia nhập hàng giáp sĩ.
Sau khi đậu tiến sĩ giáo luật và dân luật, Giuse tiếp tục học thần học tại Valence. Nơi hoa lệ này, quỉ đã ra sức tấn công đức trinh khiết của Giuse. Nhưng quyết hiến thân cho Chúa, Giuse đã chiến thắng vẻ vang. Từ đó Ngài bỏ Valence để tiếp tục theo học tại Alcada.
Tuy nhiên một hung tin làm xáo trộn cuộc đời Ngài. Người anh của Giuse, một sĩ quan trong quân đội từ trần mà chưa có con nối dõi tông đường. Giuse trở về quê nhà vâng lời cha mẹ nhưng vẫn nuôi ước vọng làm linh mục. Ngài ra sức cầu nguyện và được nhậm lời. Ngài bị lâm trọng bệnh và các y sĩ đều bó tay. Người cha của Giuse hứa sẽ cho Ngài làm linh mục nếu được chữa lành. Giuse đã lành bệnh.
Ngày 17 tháng 12 năm 1583, Giuse được thụ phong linh mục. Từ đó cha Giuse lao mình vào công việc chấn hưng đạo đức. Ngài đã thành công đến nỗi 35 tuổi đã được đặt làm bề trên địa phận Urgel. Dầu vậy, Ngài cảm thấy sức thúc đẩy đến Roma. Ngài lên đường và suốt năm năm. Ngài đã sống tại giáo đô như là một khách hành hương khiêm tốn. Trong thời gian này, thánh nhân đã thấy tận mắt sự khốn cùng và những tật xấu của đám dân nghèo. Ngài xác tín rằng tình trạng này gây nên bởi sự thiếu hiểu biết về đạo.
Hiện đang sở hữu tài sản lớn lao do người cha từ trần để lại, Ngài liền thiết lập những trường miễn phí cho dân nghèo. Nhiều người đến cộng tác với Ngài, phần lớn là các giáo sĩ. Dần dần họ họp thành một dòng giáo sĩ triều được đặt dưới sự bảo trợ của Mẹ Thiên Chúa. Năm 1622 cha Giuse đã đặt làm bề trên tiên khởi. Các trường dưới sự hướng dẫn của Ngài ngày càng thêm nhiều, công cuộc của Ngài lan rộng sang Đức, Bohemia và Ba Lan.
Về già, cha Giuse trở thành nạn nhân của một âm mưu nhằm truất phế Ngài xuống. Mầm mống chia rẽ vì ghen tỵ mọc lên trong dòng, khiến Đức Innocentê X hạ dòng xuống thành hội đạo đức mà thôi. Cha Giuse vẫn vui vẻ chấp nhận. Tuy nhiên Chúa lại thưởng công cho Ngài và nhiều phép lạ, nhất là được thấy Đức Mẹ ẵm Chúa Giêsu đến xem các học trò của Ngài lần hạt và ban phép lành cho họ. Ngài còn được ơn nói tiên tri, cho biết 10 năm sau dòng sẽ phục hồi và bành trướng mạnh mẽ.
Ngày 25 tháng năm 1648, thánh Giuse từ trần vì một cơn sốt, thọ 92 tuổi, năm 1767 Ngài được tuyên thánh. Năm 1948 Ngài được đặt làm vị tông đồ việc giáo dục và làm đấng bảo trợ các trường công giáo.
(daminhvn.net)


25 Tháng Chín
"Con Người Bất Hạnh Nhất Trần Gian"
Cuộc đời của nhạc sĩ Beethoven, ngay cả khi đạt đến đỉnh cao của danh vọng, cũng không phải là một cuộc đời hạnh phúc. Tất cả những người viết tiểu sử của nhạc sĩ đều ghi nhận rằng ông đã qua một thời tuổi thơ khốn khổ. Cha ông đã xem kỳ tài âm nhạc của ông như một cơ hội để làm tiền. Thần đồng âm nhạc đã phải ngồi vào đàn Piano từ sáng tới chiều, đến độ ông đâm chán cả âm nhạc. Chỉ có mẹ ông mới là nguồn an ủi duy nhất của ông trong lúc tuổi thơ, nhưng bà đã mất năm ông mới 17 tuổi.
Năm 28 tuổi, Beethoven bắt đầu bị điếc. Ông cảm thấy thất vọng hoàn toàn. Và tai họa đã tiếp diễn cho đến cuối đời ông.
Tuy nhiên, con người "bất hạnh nhất trần gian ấy" như ông thường nói về mình đã sáng tác những dòng nhạc bất hủ nhất ở cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19.
Kho tàng ẩn dấu trong ta chỉ có thể được khám phá và đem ra thi thố với thế giới nếu ta biết chiến đấu. Ðiều đó đòi hỏi những năm tháng dài, tuy nhiên, trở ngại cuối cùng mà ta có thể vượt qua sẽ làm ló rạng kho tàng ẩn dấu trong ta. Thánh Basiliô đã nói: vĩ nhân không phải là người chỉ đọ sức với những điều cả thể, nhưng chính là biết làm cho những việc tầm thường trở thành cao cả bằng chính sức mạnh của mình.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét