16/01/2017
Thứ Hai tuần 2 thường niên.
Bài Ðọc I: (năm I) Dt
5, 1-10
"Dầu là Con Thiên Chúa,
Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Tất cả các vị Thượng tế được chọn
giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến
dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm
lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế cũng như người phải
dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình
như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa
kêu gọi, như Aaron. Cũng thế, Ðức Kitô không tự dành lấy quyền làm thượng tế,
nhưng là Ðấng đã nói với Người rằng: "Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra
Con". Cũng có nơi khác Ngài phán: "Con là Tư tế đến muôn đời theo phẩm
hàm Menkixêđê". Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ
dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Mình khỏi chết, và vì lòng
thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục
do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu
độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người. Người được Thiên Chúa gọi là
Thượng tế theo phẩm hàm Menkixêđê.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 109, 1. 2. 3. 4.
Ðáp: Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm
Menkixêđê (c. 4bc).
Xướng: 1) Thiên Chúa đã tuyên bố
cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới khi Ta bắt quân thù
làm bệ kê dưới chân Con". - Ðáp.
2) Ðức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô
bày vương trượng quyền bính của Ngài, rằng: "Con hãy thống trị giữa quân
thù". - Ðáp.
3) Các thủ lãnh cùng hiện diện
bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy hoàng: trước rạng đông, tựa
hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con". - Ðáp.
4) Ðức Thiên Chúa đã thề và
không hối hận rằng: "Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm
Menkixêđê". - Ðáp.
Alleluia: Tv 144, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung
thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mc 2, 18-22
"Tân lang còn ở với họ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, môn đồ của Gioan và các
người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: "Tại sao môn đồ của
Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?"
Chúa Giêsu nói với họ: "Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân lang
còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ không thể ăn chay được.
Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay. Không ai lấy vải mới
mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ
hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da,
và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Cốt lõi của đạo
Trong những thập niên gần đây, mặc
dầu càng lúc Hiến pháp các quốc gia càng đi sâu vào sự tách biệt giữa tôn giáo
và nhà nước; thế nhưng, sự liên kết giữa tôn giáo và chính trị lại càng đậm nét
hơn. Cuộc chiến giữa Tư bản và Cộng sản đã hầu như chấm dứt, nhưng chiến tranh
tôn giáo xem chừng vẫn dai dẳng, không những giữa những người khác tôn giáo với
nhau, mà ngay cả trong cùng một tôn giáo. Nhìn vào thảm cảnh ấy, ai cũng thắc mắc
tự hỏi: Tôn giáo nào mà không dạy ăn ngay ở lành, tôn giáo nào mà không dạy sự
khoan dung tha thứ, thế thì tại sao những người có tôn giáo lại nhân danh tôn
giáo của mình để gây chiến với người khác hay với chính những người đồng đạo của
mình? Câu trả lời thật đơn giản: sở dĩ người có tôn giáo có thái độ quá khích
và bất khoan nhượng, là vì họ chưa sống đúng cái cốt lõi của đạo. Xét cho cùng,
cái cốt lõi của tôn giáo nào cũng là tình thương.
Chúa Giêsu cũng muốn chứng tỏ
cho chúng ta thấy thế nào là sống đạo. Chúng ta hãy chiêm ngắm thái độ và lời dạy
của Ngài trong Tin Mừng hôm nay. Vừa bắt đầu sứ mệnh rao giảng của Ngài, cũng
như các kinh sư của thời đại Ngài, Chúa Giêsu cũng qui tụ một số môn đệ; và
cũng như các môn đệ của các kinh sư khác, môn đệ của Ngài cũng theo một lối sống
nào đó. Thế nhưng, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên và đặt vấn đề, đó là
Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không tuân giữ một số ngày chay tịnh như môn đệ của
Gioan hay của những người Biệt phái. Không tuân giữ những ngày chay tịnh đã
đành, sau này xem ra Chúa Giêsu càng thách thức hơn nữa, khi Ngài không tuân giữ
cả ngày hưu lễ hay một số tập tục khác, như rửa tay trước khi ăn.
Suốt cuộc sống của Ngài, Chúa
Giêsu đã tỏ ra rất độc lập đối với Do thái giáo. Ðây quả là cách sống đạo hoàn
toàn mới mẻ mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho con người. Ðối với Ngài, linh hồn và cốt
lõi của đạo chính là tình thương; tình thương ấy đã thúc đẩy Ngài đi đến tận
cùng bằng cái chết trên Thập giá, và cái chết của Ngài mãi mãi là lời tố cáo về
thái độ bất khoan nhượng trong niềm tin tôn giáo của con người. Vụ án của Ngài
được thi hành như một vụ án chính trị; mãi mãi tên tuổi của viên toàn quyền La
mã là Philatô gắn liền với cái chết của Ngài. Tuy nhiên, vụ án của Chúa Giêsu vẫn
là một vụ án tôn giáo: Ngài chết vì sự cuồng tín và thái độ bất khoan nhượng của
các thủ lãnh Do thái giáo.
Chiêm ngắm thái độ của Chúa
Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài và lắng nghe giáo huấn của Ngài,
chúng ta sẽ thấy rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Trong cuộc sống
đạo, nhiều lúc chúng ta thắc mắc phải ăn chay thế nào cho đúng cách? Ngày Chúa
nhật có được làm việc xác không? Bỏ lễ Chúa nhật có tội hay không? Thật ra còn
có nhiều câu hỏi nền tảng hơn mà thiết tưởng chúng ta không thể không đặt ra để
tự vấn lương tâm mỗi ngày: tôi có sống công bình, bác ái chưa? Tôi có yêu
thương người anh em bên cạnh tôi chưa? Nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của người
xung quanh tôi có phải là một tội không?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta
ngày càng thấu hiểu và xác tín rằng sống đạo là sống yêu thương, rằng cốt lõi của
Kitô giáo chính là tình thương.
Veritas
Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần II TN, Năm lẻ
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Cũ và mới
Xung đột giữa cái cũ và cái mới
thường xảy ra ở mọi nơi và mọi thời: các chính thể, tôn giáo, cách cư xử, thời
trang và vóc dáng. Ví dụ: Phong trào canh tân của Nhóm Tự Lực Văn Đòan vào đầu
thế kỷ 20, điển hình trong tác phẩm Đọan Tuyệt của Khái Hưng. Chúa Giêsu và các
môn đệ cũng phải đương đầu với người Do-Thái khi mang ra những mặc khải mới của
Thiên Chúa đến cho con người. Câu hỏi đặt ra: Cái nào tốt hơn?
Các Bài Đọc hôm nay cũng xoay
quanh sự xung đột giữa cũ và mới. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Do-Thái dùng
tiêu chuẩn cũ để chứng minh Đức Kitô là Thượng Tế mới có khả năng đem Thiên
Chúa đến cho con người và đem con người về cho Thiên Chúa; vì Ngài vừa có kinh
nghiệm của Thiên Chúa, vừa có kinh nghiệm của con người. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu dùng câu hỏi của những người thuộc thời đại cũ để giúp họ nhận ra thời đại
mới đã bắt đầu; họ cần có tâm hồn mới để lãnh nhận giáo lý mới của Ngài mang đến.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúa Giêsu là Thượng Tế. Bản văn chúng ta nghiên cứu hôm nay, Heb 5:1-10, được tác
giả sắp xếp theo cấu trúc hình nón, với chóp đỉnh là Thượng Tế Aaron của Cựu Ước.
Mục đích của tác giả là chứng minh Chúa Giêsu là Thượng Tế của Tân Ước. Để làm
điều này, tác giả dùng một tam đọan luận: trước tiên, tác giả liệt kê 3 đặc
tính của chức Thượng Tế; sau đó, tác giả chứng minh Chúa Giêsu hội đủ 3 điều kiện
này; cuối cùng, tác giả kết luận: “Thiên Chúa tôn xưng Chúa Giêsu là Thượng Tế
theo phẩm trật Melkisedech.”
1.1/ Ba đặc tính của Thượng Tế:
(1) Thượng Tế đại
diện cho con người: “Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong
số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương
quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.”
(2) Thượng Tế phải cảm thông với
con người: “Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ
lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải
dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình
như vậy.”
(3) Thượng Tế phải được Thiên
Chúa gọi: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa
gọi, như ông Aaron đã được gọi.”
1.2/ Chúa Giêsu là Thượng Tế:
(1) Chúa Giêsu được chọn làm Thượng
Tế: “Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là
Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như
lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật
Melkisedech.”
(2) Chúa Giêsu cảm thông với con
người: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc
lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết.
Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải
trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.”
(3) Chúa Giêsu đại diện cho con
người: “và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn
cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên
Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedech.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bảo vệ môn đệ
của mình.
2.1/ Tại sao môn đệ Chúa Giêsu
không ăn chay? “Bấy giờ các môn đệ ông
Gioan và các người Pharisees đang ăn chay; có người đến hỏi Đức Giêsu: "Tại
sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisees ăn chay, mà môn đệ ông lại
không ăn chay?"
Giao thời giữa Cựu và Tân Ước là
thời gian người Do-Thái gia tăng việc chay tịnh và khổ chế, không những chỉ có
trong những giáo phái, mà còn phổ thông trong dân như các việc đạo đức. Chay tịnh,
cùng với cầu nguyện và làm phúc, được coi là ba trụ chính của đời sống đạo đức
(Tob 12:8). Sách Judith coi chay tịnh là cách để xin ơn lành từ Thiên Chúa (Jdt
4:9). Lối sống chay tịnh và khổ chế của Gioan Tẩy Giả trong sa mạc là muốn đề
cao lối sống đơn giản và sự tùy thuộc hòan tòan vào Thiên Chúa.
2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu nhấn
mạnh đến 2 điểm chính:
(1) Lý do ăn chay: Ăn chay
phải có mục đích rõ ràng. Chúa cho biết lý do tại sao các môn đệ của Ngài chưa
ăn chay: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với
họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được.” Chúa Giêsu nhận
Ngài chính là chàng rể, và khách dự tiệc cưới, bạn hữu của chàng rể là các môn
đệ.
(2) Thời gian ăn chay: Chay
tịnh có lúc của nó, không phải lúc nào cũng ăn chay. Chúa Giêsu cho biết khi
nào các môn đệ của Ngài sẽ ăn chay: "Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi
rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó.”
2.3/ Phải có tâm hồn mới để lãnh
nhận đạo lý mới: Chúa Giêsu là mốc thời gian để phân biệt giữa cái cũ và mới.
Những người Pharisees và môn đệ của Gioan đại diện cho lớp người cũ, các môn đệ
của Chúa Giêsu đại diện cho lớp người mới. Để có thể lãnh nhận những đạo lý mới
được giảng dạy bởi Đức Kitô, một người cần có tâm hồn mới: rộng đủ để nhận ra
những bất tòan của đạo lý cũ; đồng thời biết đón nhận những đạo lý mới để làm
cho con người ngày càng tòan hảo hơn. Nếu không có tâm hồn mới, con người sẽ
ngoan cố thủ cựu những điều cũ; đồng thời họ sẽ khước từ những giáo lý mới của
Đức Kitô.
Để giúp họ nhận ra sự quan trong
của một tâm hồn mới, Chúa Giêsu dùng 2 ví dụ rất quen thuộc với khán giả:
(1) Áo và miếng vá: “Chẳng
ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ,
khiến chỗ rách lại càng rách thêm.”
(2) Rượu và bầu da: “Cũng
không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu
cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Kitô là Thượng Tế mới của
giao ước mới hòan hảo hơn. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài để học hỏi những mặc
khải mới của Thiên Chúa; và mời Ngài đồng hành với chúng ta.
- Chúng ta cần mở rộng tâm hồn để
đón nhận những điều mới lạ từ Thiên Chúa và tha nhân. Một tâm hồn khép kín và
thái độ hay chỉ trích sẽ không làm cho chúng ta tiến xa được.
- Dĩ nhiên chúng ta không đón nhận
tất cả các cái mới và lọai bỏ các cái cũ; nhưng biết dùng trí khôn để thích ứng
với hòan cảnh: giữ lại những gì tốt, thâu nhận những gì mới, và cải tiến để làm
cho tốt hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh
Tiên OP
16/01/17
THỨ HAI TUẦN 2 TN
Mc 2,18-22
TẠI SAO KHÔNG ĂN CHAY?
“Chẳng
lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay khi chàng rể còn ở với họ?” (Mc
2,19)
Suy niệm: Hầu như trong tôn giáo
nào việc ăn chay cũng được coi trọng. Hồi giáo qui định chay
tịnh suốt tháng Ramadan, và coi đó như phương thế tuyệt hảo để nhận thức Thiên
Chúa là Đấng Siêu Việt. Các Phật tử sùng đạo ăn chay trường, không chỉ trong
việc ăn uống mà còn bao gồm cả việc tiết dục, nhằm chế ngự thân xác để tâm hồn
thanh thản hầu thoát khỏi cõi trần tục luỵ. Phụng vụ Do Thái giáo buộc ăn chay
trong ngày lễ Xá tội;[1] những người đạo đức còn ăn chay nhiều hơn, có khi
một tuần hai lần (Lc 18,12). Những người thắc mắc tại sao các môn đệ Chúa
Giê-su không ăn chay như các môn đệ của Gio-an Tẩy giả hoặc những người
Pharisêu là bởi vì:
1. họ chỉ nghĩ đến chay tịnh như
việc làm vụ hình thức mà quên mất tinh thần của nó là đặt mình khiêm hạ trước
nhan Thiên Chúa và tha thiết xin được kết mối liên hệ mật thiết với Ngài;
2. họ đã không nhận ra Đức Giê-su
chính là vị Thiên Chúa họ khao khát mong chờ mà nay đang hiện diện ở giữa họ.
Mời Bạn: Ngày
nay người ta thường coi nhẹ việc chay tịnh hoặc
có giữ chay nhưng vì một lý do thuần tuý tự nhiên (để giảm béo chẳng hạn…).
Chúa Ki-tô dạy chúng ta chay tịnh hay không chay tịnh đều chỉ vì một mục đích
duy nhất là để được kết hợp mật thiết hơn trong tình thân với Ngài.
Sống Lời Chúa: Làm
một việc hy sinh kín đáo để tỏ lòng yêu
mến Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa không
đòi hy lễ cao siêu nhưng đã kêu gọi con
để con thuộc trọn về Chúa. Con xin thưa này con xin đến để làm theo ý Chúa.
Chàng rể còn ở với (16.1.2017 – Thứ hai Tuần 2 Thường niên)
Các Kitô hữu ăn chay,
vác thánh giá theo Chúa Giêsu, dù họ vẫn luôn sống trong niềm vui, bởi tin vào Đấng đã phục sinh vinh hiển.
Suy niệm:
Một
trong những nét khác biệt giữa Gioan Tẩy Giả với Đức Giêsu
là
sự khắc khổ nhiệm nhặt.
Gioan
được coi là người “không ăn bánh, không uống rượu” (Lc 7, 33).
còn
Đức Giêsu bị mang tiếng là “tay ăn nhậu” với quân thu thuế (Lc 7, 34).
Chúng
ta đã từng thấy ngài ăn tại nhà ông Lêvi hay ông Dakêu.
Các
người Pharisêu cũng là những người thích ăn chay nhiều lần trong tuần,
dù
ngày ăn chay chính thức hàng năm của đạo Do-thái chỉ là ngày lễ Xá tội.
Như
thế có sự khác biệt khá rõ giữa môn đệ của Đức Giêsu
với
môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của người Pharisêu.
Một
bên có vẻ thoáng và thoải mái, một bên thì khắc khổ nhiệm nhặt.
“Tại sao môn đệ của ông lại không ăn chay ?”
Có
người đã dám hỏi thẳng Đức Giêsu như thế.
Ngài
đã trả lời bằng một cách dùng một hình ảnh dễ hiểu và đầy ý nghĩa.
Vào
thời Đức Giêsu, tại Paléttin, cũng như tại nhiều vùng quê ngày nay,
đám
cưới là một biến cố mừng vui có tính làng xã.
Chẳng
thể nào hiểu được chuyện một người đi ăn cưới
với
khuôn mặt buồn của kẻ đang ăn chay.
“Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay,
khi chàng rể còn ở với họ”
Đức
Giêsu tự ví mình với chàng rể, còn môn đệ là khách dự tiệc cưới.
Bầu
khí trong nhóm môn đệ của ngài là bầu khí vui tươi của một lễ thành hôn
bởi
lẽ thời đại thiên sai đã đến rồi.
Đức
Giêsu, Đấng Mêsia dân Ítraen mong đợi từ lâu, nay có mặt.
Ngài
là chàng rể kết duyên với cô dâu là dân tộc Ítraen của ngài.
Đức
Giêsu đã làm trọn điều các ngôn sứ nói trong Cựu Ước
về
việc Thiên Chúa lập hôn ước với dân của Người (Hs 2, 21-22; Is 62, 4-5).
“Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy
giờ họ mới ăn chay.”
Sau
khi Đức Giêsu chịu cái chết dữ dằn, được phục sinh và lên trời,
Giáo
hội bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn chờ đợi ngài quang lâm.
Trong
giai đoạn này, khi Chúa Giêsu vừa vắng mặt, vừa hiện diện,
Các
Kitô hữu ăn chay, vác thánh giá theo Chúa Giêsu,
dù
họ vẫn luôn sống trong niềm vui, bởi tin vào Đấng đã phục sinh vinh hiển.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng.
Nụ cười ấy hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu,
có những niềm vui
Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,
có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết
tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm
cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết
mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều
màu hồng.
Chúng con luôn có lý do
để lo âu và chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười
tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy
hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên
Chúa yêu thương
và được sai đi thông
truyền tình thương ấy. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Giêng
16 tháng giêng
Thờ Ơ Hay Chống Lại Các Giá
Trị
Của Gia Đình Là Tự Chuốc Lấy
Tai Họa
Quyền lợi của gia đình, như
chúng ta thấy, không phải chỉ là những vấn đề thuần túy thuộc địa hạt tâm linh
tín ngưỡng mà xã hội trần thế có thể phớt lờ không đếm xỉa đến. Để thực thi sứ
mạng của mình, Giáo Hội tích cực cổ võ cho các giá trị nền tảng của gia đình.
Nhưng các nhà cầm quyền dân sự cũng phải đảm nhận trách nhiệm bảo vệ và đề cao
các quyền lợi giúp thăng tiến và nâng đỡ đời sống hôn nhân.
Vận mệnh của cộng đồng nhân loại
gắn kết chặt chẽ với “sức khỏe” của gia đình xét như một cơ chế trong xã hội.
Khi quyền bính trần thế xem thường những giá trị mà gia đình Kitôhữu đem lại
cho xã hội và khi quyền bính trần thế bàng quan đứng ngoài các giá trị đạo đức ấy,
thì điều sẽ xảy ra là gia đình bị sụp đổ trong xã hội. Đồng thời, một thái độ dễ
dãi đối với tình trạng sống chung chạ bên ngoài mối ràng buộc hôn nhân xem ra
có thể là giải pháp cho một số vấn đề nào đó nhất thời. Song, về lâu về dài,
tình trạng này sẽ phá hoại ghê gờm chính bản chất và phẩm cách của hôn nhân. Một
xã hội như thế không thể tránh khỏi các hậu quả cay đắng.
- suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
do nhà Servant Pubns xuất bản, 1994.
Lời Chúa
Trong Gia Đình
Thứ Hai – tuần 2 thường niên
Dt 5, 1-10; Mc 2, 18-22.
LỜI SUY NIỆM: “Nhưng rượu mới,
thì phải bầu mới”(Mc 2,22b)
Giáo hội luôn mời gọi mọi người
tín hữu, từ hàng giáo dân cho đến các tu sĩ nam nữ và giáo sĩ phải luôn canh
tân, đổi mới đời sống đạo của mình cho phù hợp với Tin Mừng. Muốn đạt điều này
trước tiên trong các cộng đoàn tu sĩ và giáo sĩ phải tiên phong tự canh tân trước.
Từ những sự canh tân đó giúp cho bản thân của các vị khám phá ra những lợi ích
cho đời sống đức tin của mình, Khi đó mới thấy được sự cần thiết phải canh tân
cộng đoàn dân Chúa. Và dẫn đưa đoàn chiên của mình đi đúng hướng. Khi đề cập đến
việc canh tân đói với bản thân mình hay mọi người trong cộng đoàn, không phải
là đơn giản và dễ dàng. Nhưng sẽ có rất nhiều chướng ngại vật, đó là óc bảo thủ,
tính kiêu ngạo, lòng tự mãn, ngại đổi mới,… bởi vì những nếp cũ đã ăn sâu
vào não trạng và cách sống đã lâu. Trước mỗi sự canh tân cộng đoàn phải có
chương trình và phương pháp học hỏi phù hợp với trình độ văn hóa, lứa tuổi và
thành phần xã hội, để mọi người dễ tiếp thu. Cần phải có sự kiên trì và liên tục.
Nếu không thì sự canh tân sẽ có chống đối và khó thành công. Dẫn đến chia rẽ
trong cộng đoàn.
Mạnh Phương
16 Tháng Giêng
Giấc Mơ Của Mẹ Têrêxa Calcutta
Mẹ Têrêxa Calcutta, người được
giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 và là người sáng lập viện của dòng Nữ Tử thừa
sai Bác Ái chuyên phục vụ người nghèo và hấp hối, đã kể lại ơn gọi phục vụ của
Mẹ trong một lá thư viết từ Calcutta như sau:
"Trong những ngày đầu
khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi
bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện
trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Ðàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại
không cho tôi vào Thiên Ðàng. Ngài nói như sau: "Không thể để cho một người
thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Ðàng. Thiên Ðàng không có nơi cùng khổ".
Tôi mới tức giận nói với Ngài
như sau: "Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Ðàng đầy dẫy
dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên
Ðàng".
Tội nghiệp thánh Phêrô. Kể từ
sau giấc mơ ấy, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho Ngài được ở yên
phút nào. Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng
tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên Ðàng đã trở thành nơi cư trú của những người
cùng khổ.
Giai thoại trên đây của Mẹ
Têrêxa Calcutta như muốn nói lên một chân lý: không ai nên Thánh một mình,
không ai lên Thiên Ðàng một mình.
Ðức Cha Fulton Sheen, vị diễn giả
nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình tại Hoa Kỳ, đã có lần phát
biểu như sau: "Không ai trong chúng ta có thể vào Thiên Ðàng, nếu ở đó
không có ai nói với chúng ta: chính tôi đã giúp đỡ để bạn được vào Thiên
Ðàng".
Ai cũng có thể là một trợ giúp để
đưa chúng ta vào cửa Thiên Ðàng. Họ có thể là những người cùng khổ mà chúng ta
chìa tay để san sẻ, để giúp đỡ. Họ cũng có thể là những người cách này hay cách
khác làm cho chúng ta đau khổ. Nhưng ưu tiên hơn cả vẫn là những người chúng ta
cố gắng làm cho hạnh phúc. Chính những người đó là kẻ giúp đỡ chúng ta được vào
Thiên Ðàng. Nhưng Thiên Ðàng không đợi chờ ở đời sau. Hạnh phúc cũng không chỉ
dành lại cho đời sau: Thiên Ðàng và Hạnh Phúc có thể đến với chúng ta ngay từ
cõi đời này. Và Thiên Ðàng và Hạnh Phúc ấy là gì nếu không phải là mỗi lần
chúng ta cố gắng làm cho người khác được hạnh phúc.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét