17/01/2017
Thứ Ba tuần 2 thường niên
Thánh Antôn, viện phụ.
Lễ nhớ.
* Thánh Antôn là tổ phụ của các đan sĩ Ai Cập. Người chào đời quãng năm 250. Sau khi song
thân qua đời, đáp lại lời mời gọi của Tin Mừng: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo rồi hãy đến theo tôi”, người rút lui vào sa mạc sống đời khổ chế và đền tội. Nhiều bạn hữu đã đến theo người, sống nếp sống khắc khổ để có thể kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Người cũng có
công nâng đỡ các tín hữu trong thời kỳ hoàng đế Đi-ô-cơ-lê-xi-a-nô bách hại đạo, người cũng trợ giúp thánh Athanaxiô đối phó với phái Ariô. Người qua đời năm 356.
Bài Ðọc I: (năm I) Dt
6, 10-20
"Chúng ta có một
niềm tin đặt trước mặt như chiếc neo chắc chắn và bền vững".
Trích thư gửi tín hữu
Do-thái.
Anh em thân mến, Thiên
Chúa không bất công đến nỗi quên công trình của anh em và lòng bác ái anh em đã
tỏ ra vì danh Người, anh em là những người đã phục vụ và hiện đang phục vụ các
thánh. Chúng tôi mong ước mỗi người anh em thi thố cũng một lòng hăng hái đó để
giữ vững niềm hy vọng đến cùng, ngõ hầu anh em không trễ nải, nhưng sẽ noi
gương những kẻ nhờ tin tưởng và kiên nhẫn mà hưởng thụ các điều đã hứa.
Quả thật, khi Thiên
Chúa hứa cùng Abraham, Người không dựa vào ai lớn hơn mà thề, nhưng dựa vào
chính Mình mà thề rằng: "Ta sẽ chúc phúc cho ngươi và sẽ cho ngươi sinh sản
ra nhiều". Do đó, Abraham kiên nhẫn chờ đợi, nên được hưởng lời hứa. Vì
chưng, loài người dựa vào kẻ lớn hơn mình mà thề, và lời thề được coi như bảo
chứng chấm dứt mọi tranh tụng. Cũng vậy, vì Thiên Chúa muốn minh chứng cho những
kẻ hưởng thụ lời hứa ý định bất di bất dịch của Người, nên đã làm lời thề, để
nhờ hai điều bất di bất dịch mà Thiên Chúa không thể sai lời, thì chúng ta là
những người tìm ẩn náu nơi niềm hy vọng đã ban cho chúng ta, chúng ta có một
nguồn yên ủi chắc chắn. Trong niềm hy vọng đó, linh hồn chúng ta có một chiếc
neo chắc chắn và bền vững, cắm vào tận bên trong bức màn, nơi Ðức Giêsu đã vào
như vị tiền phong của chúng ta, Người được phong làm Thượng tế đến muôn đời
theo phẩm hàm Menkixêđê.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 110, 1-2.
4-5. 9 và 10c
Ðáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng
Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của
Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi. - Ðáp.
2) Chúa đã làm những
điều lạ lùng đáng nhớ, Người thật là Ðấng nhân hậu từ bi. Chúa đã ban lương thực
cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. - Ðáp.
3) Chúa đã gởi tặng ơn
giải phóng cho dân Người, đã thiết lập lời minh ước tới muôn đời, danh Người thực
là thánh thiện và khả uý. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại đến muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống".
- Alleluia.
Phúc Âm: Mc 2, 23-28
"Ngày Sabbat
làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Vào một ngày Sabbat,
Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người
biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm
điều không được phép như vậy?" Người trả lời rằng: "Các ông chưa bao
giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị
đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng
trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế
nào?" Và Người bảo họ rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ
không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày
Sabbat".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Linh hồn của
Lề Luật
Nói về luật pháp của
con người, triết gia Schopenhauer đã ví von như sau: "Luật pháp cũng giống
như một mạng nhện, những con ong gấu thì vượt qua một cách dễ dàng, những thứ ruồi
nhặng thì kẹt lại". Ðây là một sự thật đau lòng mà chúng ta chứng kiến mỗi
ngày trên khắp thế giới: những con ong gấu, tức những người làm ra luật, những
kẻ có quyền thế trong tay, thường chiu qua những kẽ hở của luật pháp một cách dễ
dàng; thế lực của đồng tiền, vây cánh, ô dù, giúp họ luôn đứng trên luật pháp
mà chính họ lập ra.
Vào thời Chúa Giêsu
không có chuyện ô dù, nhưng có một hạng người tự cho mình có quyền lập ra luật,
bắt người khác giữ luật, còn mình thì không muốn lay thử một ngón tay. Tin Mừng
hôm nay là khởi đầu của một cuộc đối đầu triền miên giữa Chúa và hạng người
này, tức là nhóm Biệt phái về vấn đề luật pháp. Chúa Giêsu không phải là một
người vô kỷ luật. Ngài sinh ra khi cha mẹ Ngài tuân theo lệnh kiểm tra dân số
do Hoàng đế La mã ban hành; sau này Ngài vẫn đóng thuế như bất cứ một công dân
của Ðế quốc nào. Trong lãnh vực tôn giáo Ngài tuân giữ lề luật của Môsê. Ngài
cũng chịu cắt bì, được hiến dâng trong Ðền thờ vì là con trai đầu lòng, hằng
năm lên Yêrusalem để mừng lễ, mỗi ngày hưu lễ Ngài cũng đến Hội đường.
Tuy nhiên, như Chúa
Giêsu đã có lần tuyên bố Ngài đến là để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật
là gì nếu không phải là mặc cho nó linh hồn là tình yêu; không có tình yêu thì
lề luật chỉ là những thây chết, nhưng nói đến tình yêu là nói đến con người.
Như vậy luật lệ là vì con người, là để giúp con người sống chứ không phải để
đàn áp và giết chết con người; luật lệ chỉ có ý nghĩa và giá trị khi nó là một
biểu lộ của tôn trọng và yêu thương đối với con người; trái lại, tất cả những
luật lệ nào đi ngược lại với sự sống và tình yêu, đều là những luật lệ bất
công. Trong Thông điệp "Tin Mừng Sự Sống" ban hành năm 1995, Ðức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi các tín hữu mạnh mẽ và can đảm chống lại
những thứ luật lệ xúc phạm đến chính sự sống của con người, như luật cho phép
phá thai, luật cho phép kết liễu cuộc sống của bệnh nhân.
Là một xã hội, Giáo Hội
cũng ban hành luật lệ. Tất cả lề luật của Giáo Hội được tóm gọn trong một giới
luật duy nhất và nền tảng, đó là yêu thương. Ăn chay, giữ ngày Chúa nhật hoặc
bao nhiêu khoản luật khác liên quan đến đời sống hôn nhân, tất cả đều qui về một
luật duy nhất là để giúp các tín hữu sống tôn trọng và yêu thương con người.
Như thế, người Kitô hữu chỉ có một giới răn để tuân giữ, đó là giới răn yêu
thương, và họ cũng chỉ có một tinh thần duy nhất để tuân giữ lề luật, đó là
tình yêu thương.
Nguyện xin Chúa hướng
dẫn để chúng ta luôn sống đạo theo tinh thần yêu thương ấy.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần II TN, Năm lẻ
Bài đọc: Heb
6:10-20; Mk 2:23-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người quí
trọng hơn luật lệ.
Phẩm giá con người rất
quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Các Lề Luật Ngài ban cũng là để bảo vệ và phục
vụ con người. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài không bao giờ muốn cho
con người phải làm nô lệ cho Lề Luật và tội lỗi; nhưng muốn Lề Luật phục vụ con
người và làm cho đời sống con người được bảo vệ và an tòan hơn.
Các Bài Đọc hôm nay
nói lên sụ quan tâm của Thiên Chúa cho con người. Trong Bài Đọc I, tác-giả Thư
Do-Thái khuyên các tín hữu phải bền lòng trông cậy vào Lời Thiên Chúa đã hứa. Một
khi Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thi hành. Tác giả đưa ra một ví dụ là Lời Thiên
Chúa hứa với Tổ-phụ Abraham. Lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Kitô, khi
Ngài đi tiên phong vào nơi Cực Thánh để mở đường cho con người đến trực tiếp với
Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, các Pharisees tố cáo với Chúa Giêsu: các môn đệ của
Ngài đã vi phạm luật của ngày Sabbath. Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài có
lý do làm như thế để bảo vệ sự sống. Ngài nhắc cho họ biết luật lệ làm ra là vì
con người, chứ không con người cho luật lệ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Kitô.
1.1/ Phải kiên nhẫn trong
khi Chúa thực hiện Lời Hứa: “Quả thế, Thiên
Chúa không bất công đến nỗi quên việc anh em đã làm và lòng yêu mến anh em đã tỏ
ra đối với danh Người, khi trước đấy anh em phục vụ các người trong dân thánh,
và hiện nay vẫn còn đang phục vụ. Nhưng chúng tôi ao ước cho mỗi người trong
anh em cũng tỏ ra nhiệt thành như thế, để niềm hy vọng của anh em được thực hiện
đầy đủ cho đến cùng.” Qua đọan văn này, tác giả muốn khuyên các tín hữu 2 điều:
(1) Những lúc tăm tối
của cuộc đời: Đừng nản lòng! Hãy nắm giữ niềm hy vọng vào Lời Thiên Chúa hứa.
Con người ai cũng phải trải qua những đêm tăm tối này. Trong những lúc như thế,
tác giả khuyên cứ giữ vững đức tin, thực hành các việc lành như đã và đang làm.
Chắc chắn tăm tối sẽ qua, và ánh sáng của Thiên Chúa lại tiếp tục chiếu sáng.
(2) Bắt chước gương Tổ-phụ
Abraham: “Anh em đừng trở nên uể oải, nhưng hãy bắt chước những người nhờ có đức
tin và lòng kiên nhẫn mà được thừa hưởng các lời hứa… Như thế, vì nhẫn nại đợi
chờ, ông Abraham đã nhận được lời hứa.”
1.2/ Lời Thiên Chúa hứa với
Tổ-phụ Abraham: “Ta sẽ ban phúc dư dật cho
ngươi và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông vô số” (Gen 22:16-18).
(1) Lời hứa được bảo đảm
bằng lời thề: Con người thường lấy danh ai cao hơn mình mà thề để bảo đảm lời
mình đã long trọng hứa. Khi Thiên Chúa hứa với ông Abraham, Người đã không thể
lấy danh ai cao trọng hơn mình mà thề, nên đã lấy chính danh mình mà thề. Như vậy,
cả lời hứa lẫn lời thề đều bất di bất dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể
nói dối được. Do đó, chúng ta là những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được
mạnh mẽ khuyến khích nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta.
(2) Lời hứa của Thiên
Chúa được thực hiện qua Đức Kitô: “Chúng ta có điều này như cái neo chắc
chắn và bền vững của tâm hồn, là hy vọng được vào cung điện cực thánh
bên trong, đàng sau tấm màn. Đó là nơi Đức Giêsu đã vào như người tiền
phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời
theo phẩm trật Melkisedech.”
Đối với các thủy thủ,
cái neo là khí cụ cần thiết cho việc sinh tồn. Một khi đã thả neo là không còn
sợ sóng gió làm thuyền lật được nữa. Trong thế giới ngày xưa, cái neo là biểu
tượng của hy vọng. Epictetus nói: “Một chiếc thuyền không bao giờ nên tùy thuộc
vào một cái neo hay một đời sống trên một niềm hy vọng.” Pythagore nói: “Của cải
là cái neo mỏng giòn; danh vọng còn yếu hơn. Khôn ngoan, rộng lượng, và can đảm,
là những cái neo mà không sóng gió nào có thể vùi giập được.” Tác giả Thư
Do-Thái nhấn mạnh người tín hữu có một hy vọng lớn lao nhất trong thế giới là
hy vọng của họ vào Lời Thiên Chúa hứa.
Niềm hy vọng đó là được
vào trong thánh điện đàng sau bức màn. Trong Đền Thờ, chỗ cực thánh là nơi chứa
đựng Hòm Bia Thiên Chúa, được che phủ bởi bức màn. Đây là nơi Thiên Chúa ngự.
Trong nơi này, chỉ độc quyền có một người được vào, mỗi năm một lần; đó là Thượng
Tế trong Ngày Xá Tội mà thôi. Tác giả Thư Do-Thái có ý muốn nói: Giờ đây, Chúa
Giêsu Kitô đã mở đường vào nơi đó cho tất cả con người ở mọi nơi và mọi thời. Từ
ngữ ông dùng để chỉ Chúa Giêsu như prodromos = người tiên
phong mở đường. Chúa Giêsu đi tiền phong mở đường vào nơi hiện diện của Thiên
Chúa, và Ngài bảo đảm an tòan cho tất cả những ai theo sau. Nói cách khác, trước
khi Đức Kitô xuất hiện, Thiên Chúa là Người Khách xa lạ và cách biệt với con
người; chỉ một số nhỏ có thể đến gần và luôn sợ bị thiệt mạng. Nhưng sau khi Đức
Kitô đến, Thiên Chúa trở nên bạn hữu của tất cả; mọi người đều có thể đến trực
tiếp với Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath.
2.1/ Người Pharisee tố
cáo các môn đệ Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabbath: Vào
ngày Sabbath, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt
đầu bứt lúa. Người Pharisee liền nói với Đức Giêsu: "Ông coi, ngày Sabbath
mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!" Có tất cả 39 luật về ngày
Sabbath ngăn cấm không cho làm việc, và các môn đệ phạm 4 luật bằng hành động bứt
lúa để ăn: gặt (bứt lúa), xay (vò lúa trong tay), sàng (thổi vỏ đi), và chuẩn bị
bữa ăn (làm lúa sẵn sàng để ăn). Sự tỉ mỉ của Luật có thể có thể làm chúng ta lắc
đầu; nhưng đối với các Rabbi, nó liên quan đến tội, và có thể gây ra cái chết.
Đó là lý do họ tố cáo các môn đệ với Chúa Giêsu, và họ chờ Chúa sửa phạt các
môn đệ.
2.2/ Chúa Giêsu bảo vệ
các môn đệ của Ngài: Chúa Giêsu đưa ra một
trường hợp riêng đã được ghi lại trong Cựu Ước, và sau đó, Ngài thiết lập một
qui luật chung về ngày Sabbath.
(1) Trường hợp Vua
David (I Sam 21:1-6): Người đáp: "Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao?
Ông David đã làm gì, khi ông và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? Dưới thời
Thượng-tế Abiathar, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc
hạ ăn nữa. Thứ bánh này không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế." Chúa Giêsu
có ý muốn nói: trong trường hợp phải bảo vệ sự sống, con người có thể vi phạm
Luật.
(2) Luật chung của
ngày Sabbath: Người nói tiếp: "Ngày Sabbath được tạo nên cho con người, chứ
không phải con người cho ngày Sabbath. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày
Sabbath." Điều này hiển nhiên, vì con người được Thiên Chúa tạo dựng trước
khi luật về ngày Sabbath ra đời. Con người không được tạo dựng để trở thành nạn
nhân hay làm nô lệ cho luật lệ của ngày Sabbath. Sở dĩ có luật lệ về ngày
Sabbath là để bảo vệ con người, làm cho con người biết thân xác họ cần được nghỉ
ngơi, và linh hồn họ cần được nuôi dưỡng bởi thức ăn tinh thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Phẩm giá con người
chúng ta rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã hy sinh Người Con của Ngài
để cứu chúng ta thóat khỏi làm nô lệ cho Lề Luật, tội lỗi, và sự chết.
- Nhờ lễ tế hy sinh của
Người Con, chúng ta có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa mà không cần qua trung
gian; đến bất cứ lúc nào chứ không phải đợi một ngày cố định trong năm.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
17/01/17
THỨ BA TUẦN 2 TN
Th. An-tôn, viện
phụ
Mc 2,23-28
GIỮ LUẬT VÌ YÊU MẾN
“Ngày sa-bát được tạo ra cho loài người,
chứ không phải loài người cho ngày sa-bát.” (Mc 2,27)
Suy niệm: Kể từ ngày 15/12/2007,
đội mũ bảo hiểm đã thành luật cho người đi xe gắn máy ở nước ta. Các phương
tiện truyền thông cố gắng làm cho người dân thấy rõ lợi ích của việc đội chiếc
mũ rầy rà đó để họ chấp hành tự nguyện chứ không coi đó chỉ là chuyện ‘đối
phó,’ tránh né công an. Luật lệ rất cần thiết cho đời sống cá nhân và xã hội.
Ai cũng phải phải tuân thủ luật pháp chính đáng. Các môn đệ bứt bông lúa mà bị
người Pha-ri-siêu phóng to lên thành gặt lúa, lỗi luật ngày sa-bat. Nếu câu nệ
luật pháp hay áp đặt những luật lệ phi lý thì luật pháp không còn ý nghĩa. Chúa
Giê-su đưa ra một nguyên tắc có giá trị cho mọi thứ lề luật: ngày sa-bát lập ra
cho con người chứ không phải con người cho ngày sa-bát.
Mời Bạn: Trong
Hội Thánh cũng có luật lệ, giới răn. Ki-tô hữu sống đạo chân chính sẽ giữ luật
trong tâm tình mến Chúa yêu người là nền tảng của mọi lề luật. Cuộc sống đang
thay đổi nhanh chóng, lắm lúc người con Chúa không biết phải cư xử thế nào cho
đúng luật. Những khi đó họ sẽ cầu xin ơn Chúa Thánh Thần và khiêm tốn bàn hỏi
với các vị hữu trách khôn ngoan để biết cách hành xử đúng đắn.
Chia sẻ: Trong
cộng đoàn của chúng tôi, có những luật lệ, cách ứng xử tạo nên kỳ thị, bất công
không?
Sống Lời Chúa: Xin
ơn biết giữ luật trong tình yêu mến Chúa để tôi không khô cằn xơ cứng, nhưng
luôn bén nhạy, sẵn sàng có những thích nghi cần thiết.
Cầu nguyện: Lạy Chúa. Xin chỉ cho
con đường đi của Chúa. Xin dạy bảo con nước bước của Ngài… Vì Chúa là Đấng ngày
đêm con đợi trông.
Con Người làm chủ ngày sabát (17.1.2017 – Thứ ba Tuần 2 Thường niên)
Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa. Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời để sống cả ba chiều kích ấy.
Suy niệm:
Các kitô hữu gốc Do Thái
của Giáo Hội sơ khai
thường bị chê trách vì đã
lơ là trễ nải trong việc giữ ngày sabát.
Giữ ngày sabát là điều
hết sức quan trọng đối với người theo Do Thái giáo
Ai vi phạm ngày này có
thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36).
Qua bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu hẳn đã soi sáng cho vấn đề này.
Câu chuyện xảy ra vào một
ngày sabát.
Khi thầy trò băng qua
đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa.
Và hẳn họ đã vò lúa trong
tay trước khi có thể ăn hạt bên trong.
Theo sách Đệ nhị luật
(23, 26) thì hành động này được phép làm :
“Khi vào đồng lúa của
người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa.”
Nhưng theo các kinh sư,
điều này bị cấm làm trong ngày sabát,
lý do là vì bứt lúa và vò
trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa,
mà gặt và xay lúa là một
trong ba mươi chín việc không được phép làm ngày sabát.
Từ đó người Pharisêu kết
luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Môsê.
Ngày nay chúng ta có thể
buồn cười về chuyện này,
nhưng nó nói lên việc các
kinh sư vì sợ người ta phạm luật
nên sau này đã thêm thắt
những quy định tỉ mỉ chi li.
Đức Giêsu đã trả lời
người Pharisêu bằng đức cách trưng dẫn chuyện vua Đavít.
Trong truyền thống Do
Thái, vua này thường được coi là đạo đức mẫu mực.
Đavít đã làm điều không
được phép làm, đó là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21, 1-6).
Bánh này gồm mười hai ổ
lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24, 5-9).
Vào mỗi ngày sabát, bánh
mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.
Khi kể câu chuyện về vua
Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng
nếu Đavít và các thuộc hạ
có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh
thì Đức Giêsu và các môn
đệ trong trường hợp nào đó
cũng có thể được miễn giữ
ngày sabát thánh (x. 1 Mac 2, 34-38).
Theo Đức Giêsu, ngày
sabát được tạo cho loài người, chứ không phải ngược lại.
Người Pharisêu có lẽ đã
quên đi mục đích của việc giữ luật ngày sabát.
Thiên Chúa lập nên ngày
sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi
hầu nhớ đến công trình
tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5, 14-15).
Ngày sabát đúng là ngày
của Chúa, dành cho Chúa,
nhưng nó cũng là ngày cho
loài người sau sáu ngày làm việc vất vả.
Ngày nay chúng ta không
còn giữ ngày sabát nữa,
nhưng giữ ngày Chúa Nhật,
ngày của Chúa.
Cám ơn vị nào đã lần đầu
tiên dùng từ này để chỉ ngày đầu tiên của tuần.
Trong thế giới quá cạnh
tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở
về chuyện nghỉ ngơi để
sống cho mình, cho nhau, cho Chúa.
Ngày Chúa Nhật là thời
gian tuyệt vời để sống cả ba chiều kích ấy.
Cầu nguyện:
Ngày lại ngày, lạy Thiên
Chúa,
tôi sẽ đứng trước Người
chiêm ngưỡng dung nhan,
hai tay cung kính, lạy
Thiên Chúa muôn loài,
tôi sẽ đứng trước Người
chiêm ngưỡng dung nhan.
Dưới bầu trời bao la,
trong cô đơn và thầm
lặng,
với tấm lòng thanh tịnh,
tôi sẽ đứng trước Người
chiêm ngưỡng dung nhan.
Trong thế giới ồn ào vì
nhọc nhằn,
huyên náo vì đấu tranh,
giữa đám đông hối hả lăng
xăng,
tôi sẽ đứng trước Người
chiêm ngưỡng dung nhan.
Và khi đã hoàn tất việc
đời,
lạy Thiên Chúa muôn loài,
một mình, lặng lẽ,
tôi sẽ đứng trước Người
chiêm ngưỡng dung nhan.
(R. Tagore - Ðỗ Khánh
Hoan dịch)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
17 THÁNG GIÊNG
Xây Dựng Một Bầu
Khí Sống Hoạt Yêu Thương
Nhiều khía cạnh khác của
đời sống gia đình cũng cần được quan tâm. Chẳng hạn, chúng ta không được phép
quên quyền lợi của phụ nữ, trẻ em và người già lão. Và cũng có những quyền lợi
của gia đình xét như một toàn thể – tôi đã đề cập đến những quyền này trong
Tông Huấn Familiaris consortio. Tòa Thánh đã đúc kết những quyền này trong bản
“Hiến Chương Quyền Của Gia Đình”.
Tất cả các quyền ấy đều
rất quan trọng; nhưng ở đây tôi muốân đề cập một cách đặc biệt đến quyền được
giáo dục của con cái. Trách nhiệm giáo dục con cái mình là một trách nhiệm rất
quan trọng của cha mẹ – qua đó họ giúp con cái mình đạt đến mức trưởng thành đầy
đủ trong tất cả các giá trị căn bản nhất của đời sống. Công Đồng Vatican II nêu
rõ: “Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì khó lòng bổ khuyết
được. Thực vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần
tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho
việc giáo dục toàn diện con cái trong đời sống cá nhân và xã hội trở nên dễ
dàng. Do đó, gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội cần thiết
cho mọi đoàn thể.” (GD 3).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 17-1
Thánh Antôn viện phụ
Dt 6,10-20; Mc
2,23-28.
Lời suy niệm: “Vào ngày
Sabát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt
lúa. Người Pharisêu liền nói với Đức Giêsu: Ông coi, ngày sabát mà họ làm gì
kìa? Điều ấy đâu được phép.”
Trước thái độ phê phán
của những người Pharisêu khi thấy các môn đệ của Chúa Giêsu bứt lúa ăn trong
ngày Sabát. Điều này họ đã dùng Luật để phê phán. Trong ngày 25/10/2016 Đức
Thánh Cha Phanxicô có giảng trong thánh lễ: Thiên Chúa ban Luật không phải để học
biết mà là để sống, để bước theo. Luật là vì sự sống, Luật để xây dựng Nước Trời.
Ai biết Luật mà không sống thì đó là người có thái độ bảo thủ và phê phán.
Lạy Chúa Giêsu. Luật
giúp chúng con sống để gặp được Chúa Cha. Xin cho chúng con luôn biết kính Chúa
yêu người để ngày sau chúng con được cùng nhau sum họp trong Nước Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 17-01: Thánh
ANTÔN
Viện Phụ (Thế kỷ
IV)
Thánh Antôn chào đời
năm 250 tại Corma, gần Hieraclens, miền thượng Ai cập. Cha mẹ Ngài nổi danh
giàu có lẫn đạo đức, đã lo lắng dạy dỗ Ngài sống đạo ngay từ nhỏ.
Khi được 18 tuổi thì
cha mẹ Ngài qua đời. Sáu tháng sau ngày mất cha mất mẹ, tại một giáo đường,
thánh nhân đã nghe đọc lời sách thánh: "Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về
bán hết của cải và đem phân phát cho kẻ nghèo khó rồi theo Ta" (Mt 19,21).
Tưởng như Thiên Chúa nói riêng với mình đã về bán hết của cải và đem phân phát
cho người nghèo khó.
Sau khi lo lắng gửi gấm
em gái của mình cho một nữ tu viện, Ngài lui vào sa mạc để làm việc và cầu nguyện,
Ngài theo đuổi một cuộc sống rất khắc khổ, chỉ ăn bánh với muối và uống nước
ngày một lần sau khi mặt trời lặn. Để giữ được sự cô tịch trọn vẹn, Ngài còn ẩn
thân vào một ngôi mộ bỏ trống. Thỉnh thoảng một người bạn mang bánh đến cho
Ngài bánh đến cho Ngài nhưng ma quỉ đã tìm cách quấy phá để trục Ngài ra khỏi
"căn phòng" và cuộc sống khắc khổ, chúng thường hay la hét và hiện
hình kỳ quái. Phản ứng lại, thánh nhân thường cầu nguyện nhiều hơn và tăng gấp
những việc hãm mình. Giận dữ vì các mưu mô bị thất bại, ma quỉ còn công khai
hành hạ Ngài nữa.
Một ngày kia người bạn
mang bánh đến, bỗng thấy thánh nhân nửa sống nửa chết, mình đầy thương tích.
Nhưng khi vừa bừng tỉnh, thánh nhân liền chỗi dậy và la lớn: - Tôi còn sẵn sàng
chiến đấu. Lạy Chúa, không, không gì có thể tách lìa con khỏi lòng yêu mến Chúa
được.
Giữa những đau đớn vì
các cuộc tấn công của ma quỉ, Ngài khinh bỉ trả lời: - Ồn ào vô ích. Dấu thánh
giá và lòng tin tưởng vào Chúa là những thành trì kiên cố.
Thánh nhân luôn tin tưởng
nơi Chúa. Ngày kia, được an ủi trong tâm hồn và cảm thấy là ma quỉ đã lùi bước,
Ngài cầu nguyện: - Oi, lạy Chúa, Chúa ở đâu ? Sao Chúa không ở đây lau sạch nước
mắt và thoa dịu những dày vò của con ?
Tiếng Chúa trả lờ i: -
Cha ở gần con, cha giúp con chiến đấu. Bởi vì con đã chống trả lại ma quỉ, cha
sẽ bảo vệ quãng đời còn lại của con. Cha sẽ làm cho tên con rạng rỡ trên trời.
Tràn đầy nghị lực,
thánh nhân chỗi dậy tạ ơn Chúa. Muốn xa mọi người hơn nữa, Ngài vượt sông Nil đến
trú ngụ trong một pháo đài hoang phế đầy những rắn rết. Nhưng sự thánh thiện của
Ngài như một sức nam châm, vẫn thu hút nhiều người đến xin làm môn đệ. Thế là một
phong trào ẩn tu nổi lên mạnh mẽ. Sa mạc mọc lên những mái tranh, từ đó không
ngừng vang lên những lời kinh ca khen Chúa. Thánh nhân trở nên vị thủ lãnh của
nếp sống ẩn tu.
Dầu vậy, thánh An tôn
đã hai lần từ giã sa mạc. Vào năm 311 khi có cuộc bách hại của Alaximiô, Ngài
nói: - Nào ta cùng đi chiến đấu với anh em ta.
Ngài lên đường đi
Alexandria. Người ta thấy thánh nhân khích lệ các tù nhân nơi các trại giam,
theo họ tới trước quan tòa và khuyên nhủ họ can đảm chết vì đạo, Ngài còn xuống
hầm trú để an ủi các linh mục. Ngài thoát chết là một điều lạ lùng.
Cuộc bách hại chấm đứt
được một năm, thánh nhân lại tìm về sa mạc. Số các môn sinh ngày càng tăng thêm
đông. Sợ bị cám dỗ thành kiêu căng, và thấy gương các thánh tử đạo, thánh Antôn
khao khát sống khắc khổ để đền tội. Ngài tiến sâu hơn nữa vào sa mạc. Sau ba
ngày đi theo đoàn người buôn bán, Ngài dừng lại gần biển Đỏ, dưới chân núi
Kolzim và dựng một căn lều vừa đủ để nằm để ở. Dân Bê-đu-anh (Bédouins) cho
Ngài bánh ăn. Về sau các môn sinh tìm tới và mang cho Ngài một cái xuổng với một
ít hạt giống, đây là nguồn gốc của tu viện thánh Antôn hay là Deir-el-Arat, một
tu viện theo nghi lễ Cốp (Copte) ngày nay vẫn còn.
Lần thứ hai, thánh
nhân trở lại Alexandria theo lời mời của đức giám mục Athanasiô, để chống lại lạc
giáo. Dân chúng cả thành chen lấn nhau đi đón Ngài. Các lương dân cũng bảo
nhau: - Chúng ta đi gặp người của Thiên Chúa.
Nhiều người cảm động
vì những bài diễn thuyết và những phép lạ Ngài làm, đã xin lãnh bí tích rửa tội,
người ta tưởng sẽ gặp một lão già tám mươi hoang dại, nhưng đã ngạc nhiên khi
thấy Ngài rất lịch thiệp, xử dụng ngôn ngữ văn hóa và diễn tả tư tưởng rất uyên
thâm. Các triết gia ngoại giáo ngạc nhiên hỏi Ngài:
- Ngài làm gì được
trong sa mạc không có sách vở chi hết ? Thánh nhân trả lời:
- Thiên nhiên đối với
tôi là một cuốn sách mở rộng.
Và người ta ngỡ ngàng
về những điều thánh nhân đã khám phá được trong cuốn sách vĩ đại này của Đấng Tạo
hóa.
Điều đáng kể dường như
không phải những nhiệm nhặt Ngài theo đuổi, mà là tâm hồn trong trắng Ngài kết
hiệp mật thiết với Chúa, Ngài nói: - Hư danh là kẻ thù nguy hiểm nhứt của chúng
ta.
Danh tiếng của thánh
Antôn lan rộng đến nỗi vua Constantinô và con cái ông đã viết thư tham khảo ý
kiến Ngài, Môn sinh của Ngài hãnh diện lắm. Nhưng Ngài bảo họ:
- Đừng ngạc nhiên lắm
khi thấy nhà vua là một con người viết thư cho một con người. Đáng ngạc nhiên
là chính Thiên Chúa đã muốn viết luật cho loài người, và đã nói với chúng ta
qua đức Giêsu Kitô .
Và trả lời cho lớp người
vương giả ấy, Ngài dùng những lời cao thượng để khuyên họ biết khinh chê danh vọng
mà nhớ tới cuộc chung thẩm.
Khi Ngài đã quá 90 tuổi,
Thiên Chúa qua một thị kiến đưa ngài đến thăm thánh Phaolô ẩn tu trong sa mạc.
Ngài còn được cho biết là sẽ sống tới tuổi 105.
Biết sắp tới giờ từ
giã trần gian, Ngài đi thăm anh em Ngài lần chót. Ngài nói với họ về sự chết với
niềm vui của người hồi hương. Họ đã khóc ròng, nhưng Ngài khuyên nhủ họ: - Hãy
sống như phải chết mỗi ngày. Hãy cố gắng noi gương các thánh.
Thánh nhân trở lại núi
với hai môn sinh. Trong căn phòng nghèo nàn của mình, Ngài đã phó linh hồn
trong tay Chúa lúc 105 tuổi. Chúng ta biết được ân sủng giai thoại quý báu của
đời thánh An tôn là nhờ thánh Athanasiô kể lại.
(daminhvn.net)
17 Tháng Giêng
Cứ Ðể Yên Như Thế
Trong một tác phẩm
có tựa đề "Quyển Phúc Âm thứ 5", một tác giả người Italia là ông
Mario Pomilio có tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Sau thời kỳ bách hại tại
Roma, các tín hữu bắt đầu xây cất nhà thờ. Ðâu đâu người ta cũng thấy mọc lên
nhà thờ. Tên của Ðức Mẹ và các Thánh được đặt cho các nhà thờ. Nhưng người ta vẫn
chưa thấy có nhà thờ nào mang tên của Ngôi Lời. Thấy thế thánh Gioan mới đến
báo cáo với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bèn ra lệnh cho thánh Phêrô khởi công xây cất
một nhà thờ dâng kính cho Ngôi Lời.
Con người đã có một
thời được mệnh danh là người xây dựng vĩ đại của Giáo Hội mới đi rảo khắp nơi để
thu tập vật tư. Thánh Mathêô đã cung cấp đá. Thánh Marcô mang vôi đến. Thánh
Luca tặng những cây trụ lớn. Còn Thánh Gioan thì cúng đá cẩm thạch để làm bàn
thờ và vàng để làm nhà tạm..
Với tất cả những vật
liệu cần thiết, Thánh Phêrô hớn hở bắt tay vào việc xây cất. Nhưng thời gian
trôi qua, công sức đã tiêu hao quá nhiều mà người thợ xây Phêrô mới chỉ hoàn tất
được việc đặt nền móng cho ngôi nhà thờ. Thấm mệt, vị thủ lãnh các tông đồ mới
cầu xin Chúa: "Lạy Chúa, xin ban thêm cho con đủ sức để hoàn thành ngôi
Nhà Thờ".
Chúa Giêsu mới trả
lời: "Cứ để yên như thế. Ngươi hãy nhớ rằng cứ mỗi người đi ngang qua công
trình này đều có thể mang đến một viên gạch, một ít vôi để xây tường và thế hệ
này qua thế hệ khác, những cột trụ Ðền Thờ sẽ được dựng lên".
Có hai sự kiện xem ra
tương phản nhau: tại Tây Phương, nhiều nhà thờ bị đóng cửa hoặc đem ra bán đấu
giá, vì giáo dân không đủ cấp số hoặc không còn người lui tới nhà thờ. Trong
khi đó thì tại Việt Nam, nhu cầu sửa chữa hoặc xây nhà thờ mới mỗi ngày một gia
tăng.
Có thể có hai quan niệm
sống đạo đằng sau hai sự kiện ấy. Nhiều người Tây Phương cho rằng sống đạo là sống
Công Bình và Bác Ái, chứ không nhất thiết phải đến nhà thờ. Trong khi đó thì có
người lại trách cứ rằng nhiều người Việt Nam chỉ giữ đạo hình thức, họ thích biểu
dương tôn giáo, họ thích rước sách, họ đọc kinh làu làu, họ siêng năng đến nhà
thờ, nhưng họ xem thường những đòi hỏi của Công Bình và Bác Ái.
Kỳ thực, giữ đạo trong
nhà thờ mà không sống đạo bên ngoài nhà thờ là một thiếu sót, nếu không muốn
nói là một thái độ giả hình mà Chúa Giêsu đã lên án gắt gao. Nhưng sống Công
Bình và Bác Ái mà không múc lấy sức sống từ việc gặp gỡ Chúa nơi nhà thờ cũng là
một thiếu sót. Người Kitô đích thực múc lấy sức sống từ Ðức Kitô và diễn đạt sức
sống ấy qua cuộc sống thường ngày. Có nhà thờ để cầu nguyện nhưng cũng có chợ đời
để gặp gỡ Chúa. Người Kitô hướng về Trời cao, nhưng vẫn còn bám lấy cõi Ðất.
Người Kitô đến nhà thờ, mà để quay trở lại cuộc sống. Và cuộc sống cũng sẽ trở
nên cằn cỗi, nếu nó không được nuôi dưỡng bằng lương thực Thần Linh.
"Hãy trở nên những
viên đá sống động". Ðó là ơn gọi của người Kitô chúng ta. Hãy trở thành những
viên đá sống động không chỉ để xây dựng ngôi nhà thờ bằng gỗ đá, nhưng là để
xây ngôi Ðền Thờ của cuộc sống. Cuộc sống có trở thành Ðền Thờ để gặp gỡ Chúa
qua những gặp gỡ với tha nhân, qua những xây dựng Hòa Bình và yêu Thương, thì Ðền
Thờ gỗ đá mới sống động.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét