Trang

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2017

22-02-2017 : THỨ TƯ - TUẦN VII THƯỜNG NIÊN - LẬP TÔNG TÒA THÁNH PHÊ-RÔ - LỄ KÍNH

22/02/2017
Thứ Tư tuần 7 thường niên
LẬP TÔNG TOÀ THÁNH PHÊRÔ.
Lễ kính.


* Được đt trong nhà th chính toà ca giáo phn, toà ca mt v giám mc là du ch quyn dy d, quyn hiến tế và quyn lãnh đo ca giám mc. L kính Tông toà thánh Phêrô nhc chúng ta nh li s mng Chúa Kitô đã trao phó cho v th lãnh các Tông Đ. Nh đc ân không sai lm, thánh Phêrô là người bo đm đc tin ca các anh em trong Tông Đ đoàn. Lòng tin ca thánh Phêrô là đá tng, trên đó Chúa đã xây Hi Thánh ca Người

BÀI ĐỌC I:   1 Pr 5, 1-4
"Là kỳ lão và nhân chứng cuộc khổ hình của Chúa Kitô".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến,  tôi xin gởi lời khuyên bảo đến bậc Kỳ Lão trong anh em. Tôi là một Kỳ Lão như các ngài, là một nhân chứng cuộc khổ hình của Chúa Kitô, một kẻ sẽ được thông phần vinh quang sắp được tỏ bày. Hãy chăn dắt đoàn chiên Chúa nơi anh em, hãy trông nom nó, không phải bằng cách miễn cưỡng, mà là sẵn sàng theo thánh ý Chúa; không phải để trục lợi, mà là do tình nguyện; không phải như người chuyên chế lộng hành, nhưng phải nên gương sáng cho đoàn chiên. Và khi thủ lãnh các đấng chăn chiên xuất hiện, anh em sẽ nhận lãnh triều thiên vinh quang bất diệt.  Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA:  Tv 22, 1-3. 4. 5. 6
Đáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Đáp.
2) Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Đáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Đáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Đáp.
ALLELUIA:  Mt 16, 18
Alleluia, alleluia! - Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh Thầy, và cửa hoả ngục sẽ không thắng được. - Alleluia.

PHÚC ÂM:  Mt 16, 13-19
"Con là Đá, Cha sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến miền Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một trong các tiên tri!" Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được". Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)


Suy niệm :
Đức Giêsu và các môn đệ đến miền Cêsarê Philiphê, là miền dân ngoại ở phía bắc Galilê, xa khỏi vùng mà Đức Giêsu thường xuyên lui tới để giảng dạy, để sống với nhau những giây phút thật riêng tư, để đặt ra cho nhau những câu hỏi thâm sâu, liên quan đến ngôi vị và có giá trị suốt cả đời. Thật vậy, dọc đường, Đức Giê-su hỏi các môn đệ hai câu hỏi liên quan đến chính căn tính của mình : câu hỏi thứ nhất « Người ta nói Thầy là ai ? » chuẩn bị cho câu hỏi thứ hai : « Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ? ».
Thánh Phê-rô và các tông đồ chắc chắn đã nghe câu hỏi này của Đức Ki-tô, và các ngài đã trả lời cách đích thân, không chỉ bằng lời tuyên xưng, nhưng bằng cả cuộc đời đi theo và trở nên một Người cho đến cùng, nghĩa là trong mầu nhiệm Vượt Qua, chết và phục sinh.

1.     « Người ta nói Thầy là ai ? »
Đúng là, để trả lời đích thân cho Chúa và đi vào tương quan thiết thân với Ngài, chúng ta phải vượt qua những gì « người ta » nói về Ngài, và cũng đúng là những gì người ta nói về Ngài vẫn chưa là điều Ngài thực sự là trong tương quan với Thiên Chúa và với con người. Nhưng, để giúp các môn đệ và giúp chúng ta hôm nay hiểu sâu xa hơn về mầu nhiệm Nhập Thể và nhất là về cách thức Ngài hoàn tất lịch sử cứu độ, những gì người ta nói về Ngài có một ý nghĩa thực sự quan trọng.
Thật vậy, các môn đệ trả lời : « Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ ». Như thế, Chúa Giê-su ứng xử giống như những người đi trước Ngài, mỗi người một chút : một chút của ngôn sứ Gioan, một chút của ngôn sứ Elia, một chút của ngôn sứ Giêrêmia ; Ngài hòa nhập vào một truyền thống, hay đúng hơn, Ngài xuất phát từ một truyền thống, từ lịch sử, văn hóa, tôn giáo của dân tộc Ngài. Ngài không từ trên trời « nhảy xuống » cách ngoạn mục, để mọi người thán phục, như ma quỉ gợi ý. Nếu làm thế, chắc hẳn Ngài sẽ được nhìn nhận là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Thiên Chúa theo kiểu của ma quỉ. Ngài đến để hoàn tất, chứ không phải hủy bỏ.
Ngài ứng xử giống với nhiều người đi trước Ngài, và tất cả đều là ngôn sứ. Như chính Ngài đã nói về mình : « Không một ngôn sứ nào được đón nhận nơi quê của mình ». Số phận của các ngôn sứ loan báo số phận của Đức Giêsu, mà gần Ngài nhất là số phận của ngôn sứ Gioan. Theo mặc khải Cựu Ước, Người Tôi Tớ Đau Khổ là hình ảnh biểu tượng của tất các các ngôn sứ thuộc mọi thời đại. Đức Giêsu đến để hoàn tất cách trọn vẹn và duy nhất thân phận của Người Tôi Tớ đau khổ nơi chính cuộc đời của mình.
Thánh Phê-rô đã không hiểu ra điều này, mặc dù đã tuyên xưng đúng căn tính của Chúa (x. Mt 16, 21-23). Bởi vì, điều khó vừa khó hiểu và vừa khó chấp nhận, đó là con đường Ngài chọn để bày tỏ căn tính Ki-tô và Con Thiên Chúa cho các môn đệ, cho loài người, cho từng người trong chúng ta. Chính vì thế, bao lâu mầu nhiệm Vượt Qua chưa được hoàn tất, Ngài « cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô » (c. 20).

2.     « Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ? »
Sau câu hỏi thứ nhất « Người ta nói Thầy là ai ? », Ngài hỏi các môn đệ : « Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ? » Chúng ta hãy dừng lại thật lâu để lắng nghe câu hỏi này của Đức Giê-su, vì đây là câu hỏi không thể tránh né được, nhằm đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong hành trình đi theo Thầy Giê-su của các môn đệ, và vì đó cũng là câu hỏi Đức Giê-su hỏi đích thân mỗi người chúng ta. Thật vậy, trong hành trình đi theo Đức Ki-tô của chúng ta, trong đời sống gia đình hay trong ơn gọi dâng hiến, có một lúc nào đó, và có thể là lúc này, Ngài cũng đích thân hỏi chúng ta : « Còn con, con nói Thầy là ai ? ».
Với câu hỏi thứ nhất, các môn đệ đã đồng thanh trả lời. Bởi lẽ, đó là nói lại điều người khác nói về Chúa, đó là những thông tin. Đức Giêsu đặt câu hỏi thứ hai, cũng cho tất cả các môn đệ, nhưng một mình thánh Phêrô trả lời, bởi lẽ câu hỏi này đòi hỏi mỗi người phải trả lời đích thân. Và sau khi người môn đệ tuyên bố Đức Giê-su là ai đối với mình, Ngài sẽ dẫn các ông đi xa hơn và sâu hơn vào cách thức Ngài hoàn tất lịch sử cứu độ và qua đó, Ngài bày tỏ ngôi vị thần linh và tương quan duy nhất của Ngài với Thiên Chúa :
Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”
(c. 21)
Giống như hai người trẻ, sau một thời gian tìm hiểu, và nhất là đón nhận những ân huệ của nhau (quà tặng, thời gian, sự hiện diện và nhất là tình yêu), nhưng sẽ đến một lúc nào đó phải dừng lại, tìm một nơi thanh vắng, cách xa với môi trường sống quen thuộc, để tĩnh tâm, cầu nguyễn và suy nghĩ về việc có nên trao ban cho nhau lòng tin hay không, nghĩa là đặt cuộc đời của mình vào tay người kia, và cùng nhau suy nghĩ về một lựa chọn dứt khoát : có nên thuộc về nhau suốt đời hay không ? Mỗi người được mời gọi đưa ra quyết định : người kia là ai đối với mình suốt đời ?
Và cũng giống như người phụ nữ Samari (x. Ga 4), trong hành trình làm người, hành trình sống đức tin và nhất là hành trình đi theo Đức Ki-tô trong một ơn gọi, gia đình hay dâng hiến, chúng ta đã nhận ra ân huệ Thiên Chúa, nhất là lòng thương xót và ơn chữa lành Thiên Chúa ban cho chúng ta nơi Đức Giê-su chịu đóng đinh, giờ đây Người mời gọi chúng ta đi xa hơn và sâu hơn vào tương quan thuộc về với Đức Ki-tô : Ngài là ai đối với tôi ? Và tôi là ai đối với Ngài ? Và để cho câu trả lời của chúng ta có giá trị Giao Ước vĩnh viễn, chúng ta được mời gọi dành nhiều thời gian để tìm hiểu Đức Ki-tô, để « chiêm ngắm các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết trên Thập Giá và phục sinh. Và cũng như Đức Giê-su đã làm với các môn đệ, Người cũng kiên nhẫn dành nhiều thời gian để bày tỏ ngôi vị đích thật của Ngài cho chúng ta.
Cũng vậy, trong hành trình đi theo Chúa trong một ơn gọi, mỗi người được mời gọi đến một lúc nào đó, không chỉ theo người khác (cho dù là rất đúng, rất hay), không chỉ nói theo công thức có sẵn (cho dù đó là giáo lý, tín lý hay truyền thống), nhưng còn đích thân công bố Đức Giêsu là ai đối với mình; và khi công bố bằng lời Đức Giêsu là ai đối với mình, mỗi người được mời gọi cư ngụ trong câu trả lời của mình, dấn thân trong điều mình nói, đến độ mình và điều mình nói là một.
Vậy sau bằng đó năm đi theo Chúa, với tư cách là Ki-tô hữu trong ơn gọi gia đình hay dâng hiến, mỗi người chúng ta đã nghe Chúa đặt câu hỏi này cho mình chưa : « còn con, con nói Thầy là ai ? » Nếu có, chúng ta đã trả lời thực sự và dứt khoát cho Chúa chưa? Hay chúng ta chỉ nghe và trả lời giống như người ta nói về Chúa mà thôi, chứ chưa đích thân nghe được tiếng Chúa và đích thân trả lời cho Chúa như một người trưởng thành ?
Dĩ nhiên là chúng ta có thể trả lời như thánh Phêrô: “Thầy là Đức Kitô”; nhưng những lời ngày có nghĩa gì đối với tôi? Đâu là cách thức hay con đường Ngài trở nên Đấng Kitô? Và tôi sẽ đi theo Ngài và dấn thân như thế nào để sống câu trả lời của tôi ?

3.     Mối phúc và sứ mạng
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Đây là lời tuyên xưng đức tin, qua đó thánh Phê-rô đại diện cho tất cả những người tin thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay, nhìn nhận căn tính thần linh của con người Đức Giê-su Nazareth. Lời tuyên xưng đức tin này không có nguồn gốc con người, như Đức Giê-su xác nhận : « Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy », nhưng đến từ mặc khải của Thiên Chúa, Cha của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng ngự trên trời. Và niềm tin nơi Đức Ki-tô là một mối phúc : « Này anh Simon, con ông Giô-na, anh thật là người có phúc », phúc của thánh Phê-rô đã tuyên xưng niềm tin nơi Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, nhờ mặc khải của Thiên Chúa, và phúc của chúng ta hôm nay, vì cũng tuyên xưng và sống cùng một niềm tin.
Xin cho chúng ta cảm nhận được mối phúc này mỗi ngày và suốt đời trong niềm vui, vì niềm tin chúng ta đặt để nơi Đức Ki-tô : đức tin của chúng ta thiết yếu không phải là một hệ thống tư tưởng hay nguyên tắc luân lí, nhưng là ngôi vị sống động và thần linh, là Đấng Cứu Độ, mang lại cho chúng ta tình yêu, lòng bao dung, ý nghĩa, đường đi, sự hiểu biết, sức sống và chính sự sống.
Nhưng thế nào là một mặc khải của Thiên Chúa về Đức Ki-tô ? Chắc chắn đó không phải là một sự nhận biết bất chợt và một lần là xong ; như chính Đức Ki-tô nói với thánh Phê-rô : « Điều Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu » (Ga 13, 7). Đặt mối phúc của thánh Phê-rô trong hành trình đi theo Đức Ki-tô của thánh nhân, chúng ta nhận ra rằng, mặc khải về căn tính thần linh của Đức Ki-tô đến từ chính kinh nghiệm gặp gỡ Đức Ki-tô, đi theo, ở lại, lắng nghe, hiểu biết, để cho Người rửa chân, trao ban và yêu thương đến cùng, mỗi ngày và suốt đời. Kinh nghiệm đức tin của thánh Phao-lô Tông Đồ giúp chúng ta nhận ra điều này :
Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người.
(Pl 3, 7-9)
Đó là lời của thánh Phao-lô, nhưng thánh phê-rô cũng có cùng một kinh nghiệm sâu đậm về hiểu biết và lòng mến đến cùng dành cho Đức Ki-tô (x. Ga 21, 1-20). Chúa tin tưởng trao ban cho thánh Phê-rô, vừa với tư cách là “Đá Tảng” và vừa với tư cách là đại diện các tông đồ và các thừa tác viên (x. Ga 20, 23) một quyền rất lớn, đó là quyền tháo cởi hay cầm buộc. Chúng ta được mời gọi nhận ra sự tin tưởng trọn vẹn mà Đức Ki-tô đặt để nơi Giáo Hội, vì quyền ở trên trời, nhưng lại được trao hết cho con người mòng dòn ở dưới đất. Nhưng trong lịch sử, đã có lúc Giáo Hội mê quyền cầm giữ hơn quyền tha tội, đã tách biệt quyền bính với sứ mạng loan báo Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô. Không gắn bó với Đức Ki-tô, không hiểu Ngài cách sâu xa, nhất là mầu nhiệm Thập Giá , không nhớ lại kinh nghiệm được thương xót, không để cho Thánh Thần dẫn dắt, chúng ta rất dễ sử dụng quyền bính Chúa ban không phải để giáo huấn, làm cho lớn lên và cứu sống, nhưng để lên án loại trừ và giết chết, theo năng động của Sự Dữ.
Giáo Hội được xây dựng trên đá tảng Phê-rô, nhưng đá tảng Phê-rô lại được nâng đỡ bởi LÒNG THƯƠNG XÓT của Chúa.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc


Lời Chúa Mỗi Ngày
Lập Tông Tòa Thánh Phêrô (Ngày 22 tháng 2)
Bài đọc1 Pet 5:1-4; Mt 16:13-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Quyền bính của Phêrô và cách lãnh đạo trong Giáo Hội
Nhiều người chúng ta không hiểu đúng về quyền bính, cách tổ chức và cách điều hành trong Giáo Hội, nên khi phải đương đầu với các vấn nạn xảy ra, chúng ta có khuynh hướng phê bình, chỉ trích, và loại bỏ quyền bính của Giáo Hội. Nhiều người chủ trương chỉ cần yêu thương, hòa đồng và lắng nghe mọi người là giải quyết được mọi vấn đề. Đây là quan niệm không khôn ngoan, vì nếu mọi người đều bình đẳng, ai là người bảo vệ sự thật và thi hành thánh ý của Thiên Chúa?
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta cái nhìn sâu xa về quyền bính và cách điều hành trong Giáo Hội. Trong bài đọc I, Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi khuyên các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội không được lãnh đạo như những nhà lãnh đạo dân sự; nhưng phải lãnh đạo bằng tình yêu và gương sáng. Phần thưởng của những nhà lãnh đạo Công Giáo không nhận được ở đời này; nhưng sẽ được đền bù xứng đáng ở đời sau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đặt Phêrô là nhà lãnh đạo tiên khởi và trên hết của Hội Thánh mà Ngài thiết lập. Ngài cũng hứa trước tất cả những gì ông cầm buộc hay tháo cởi, trên trời cũng ban hành như vậy. Quyền lực của hỏa ngục cũng không thắng vượt được quyền bính của Đức Giáo Hoàng.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em.
1.1/ Cách cai trị trong Giáo Hội: Để hiểu được cách cai trị theo đường lối của Thiên Chúa, ngay cả các Tông-đồ cũng cần phải được dạy dỗ bởi chính Chúa Giêsu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần sửa sai quan niệm của các ông về quyền bính và cách cai trị, vì các ông luôn suy nghĩ theo cách thức của người đời. Các ông muốn có quyền bính lớn nhất để được người khác biết đến, để được hưởng lợi nhuận, và để ra lệnh cho mọi người. Chúa Giêsu không cho quyền bính là không quan trọng, nhưng Ngài dạy các ông cách thức xử dụng quyền bính hoàn toàn đi ngược lại với những gì của thế gian. Phêrô đã thấm nhuần đường lối của Chúa Giêsu, nên ông khuyên những nhà lãnh đạo trong Giáo Hội như sau: “Cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai.” Hai điều quan trọng của cách lãnh đạo theo Đức Kitô:
(1) Lãnh đạo bằng tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho tha nhân: “Hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn; không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ.” Nhà lãnh đạo Công-giáo làm tất cả vì tình yêu của họ dành cho Thiên Chúa, và vì yêu Thiên Chúa, họ cũng yêu mọi người, và họ coi tất cả là anh, chị, em. Lãnh đạo vì tình yêu khác xa với lãnh đạo vì lợi lộc.
(2) Lãnh đạo bằng gương sáng: “Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.” Nhà lãnh đạo thế gian thực hành quyền bằng cách ra lệnh, nhà lãnh đạo Công-giáo thực hành quyền bằng cách chính mình làm những việc thấp hèn nhất để nêu gương sáng cho đoàn chiên noi theo.
1.2/ Quyền lợi được hưởng ở đời sau: Nhà lãnh đạo dân sự chú trọng đến những quyền lợi hư nát và chóng qua họ sẽ được hưởng ở đời này; nhà lãnh đạo Công-giáo chú trọng đến phần thưởng vĩnh cửu Thiên Chúa sẽ ban ở đời sau. Thánh Phêrô xác nhận: “Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát.”
2/ Phúc Âm: Quyền điều khiển Giáo Hội được trao cho Phêrô.
2.1/ Hai cách nhìn khác nhau: Cách nhìn của người thường và cách nhìn của các môn đệ về “Con Người của Chúa Giêsu.” Cuộc đối thọai giữa Chúa Giêsu và các môn đệ dẫn chứng hai cách nhìn này: Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Elijah, có người lại cho là ông Jeremiah hay một trong các vị ngôn sứ." Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Simon Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Phêrô là người đầu tiên nhận ra và tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa vì ông không nhìn theo dáng vẻ bên ngoài như các người đương thời, nhưng ông nhìn tận bên trong theo mặc khải của Thiên Chúa. Cũng vậy, khi người Công-giáo nhìn vào Đức Giáo Hoàng và cấu trúc của Giáo-hội, chúng ta không nhìn ngài như một người lãnh đạo dân sự và cấu trúc đó như bao cấu trúc khác; nhưng ngài là đại diện của Thiên Chúa và cấu trúc của Giáo Hội là cấu trúc được Thiên Chúa soi sáng.
2.2/ Trên Đá Tảng này Thầy sẽ xây Giáo Hội: Các nhà chú giải tranh luận “Ai là Đá Tảng trong câu này?” Đối với người Do-Thái: Đá Tảng chỉ áp dụng cho Thiên Chúa mà thôi (Ps 18:2, 31; Dt 32:4, 31; I Sam 2:2, II Sam 22:2). Thánh Augustin đồng ý lập luận này. Người khác cho rằng “Đá Tảng” là “Sự Thật,” Phêrô là người đầu tiên khám phá và tuyên xưng Sự Thật này. Người khác cho “Đá Tảng” là chính niềm tin của Phêrô vào Chúa, và chính niềm tin này mà “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” Mỗi câu trả lời đều cho chúng ta một lối nhìn về Phêrô: Ông là người được chọn bởi Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa là Đá Tảng, người cũng sẽ làm cho ông thành Đá Tảng mà trên đó Giáo Hội được xây dựng. Đá Tảng cũng là Sự Thật và niềm tin của Phêrô vào Chúa mà không một quyền lực nào có thể lấn át được.
2.3/ Tranh luận về quyền bính của Thánh Phêrô và các Đức Giáo Hoàng kế vị ngài: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Không biết bao nhiêu giáo hội và con người qua các thời đại đã tranh luận về câu Phúc Âm này và quyền bính tuyệt đối của Đức Giáo Hòang. Nhiều người đã công nhận đây là lý do chính ngăn cản các giáo hội trong sự hiệp nhất chứ không phải khác biệt về đạo lý. Nhiều giáo hội sợ một khi đã đồng ý trở về với Giáo Hội là họ phải phục tùng quyền bính của Đức Giáo Hoàng.
* Tranh luận về ơn “không thể sai lầm” khi tuyên xưng trọng thể những tín điều thuộc lãnh vực đức tin và luân lý. Công đồng Vatican II, trong Hiến-chế “Ecclesiae Christi,” chương iv, đã xác định như sau: “Chúng tôi truyền dạy và xác định đó là một tín điều do Thiên Chúa mặc khải khi Đức Giáo Hòang tuyên xưng ex cathedra, nghĩa là khi ngài dùng chức năng mục tử và thầy dạy của tất cả các Kitô hữu, bởi quyền tối thượng kế vị các Tông Đồ của ngài, khi ngài định nghĩa là một tín điều liên quan đến đức tin hay luân lý phải được chấp thuận bởi Giáo Hội phổ quát, vì sự trợ giúp từ Thiên Chúa đã được hứa cho ngài qua Thánh Phêrô, vì được sở hữu của ơn không thể sai lầm mà Đấng Cứu Chuộc đã mong muốn Giáo Hội của Ngài được trang bị trong việc định nghĩa là tín điều những gì thuộc đức tin và luân lý, và vì thế, những định nghĩa như thế bởi Đức Giáo Hòang và không bởi sự đồng ý của Gíao Hội không thể sửa đổi.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhiều người đã phủ nhận quyền bính và “ơn không thể sai lầm” của Đức Giáo Hoàng trong câu Phúc Âm này, nhưng một bằng chứng mà họ không phủ nhận được là quyền bính của Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội vẫn tồn tại hơn 2000 năm qua. Hai bằng chứng hùng hồn cho thấy đâu là sự phiên dịch đúng của Phúc Âm hôm nay.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

22/02/17     TH TƯ TUN 7 TN
Lập Tông Tòa Thánh Phê-rô   Mt 16,13-19

XÂY TRÊN NIỀM TIN


Ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Đức Giê-su nói với ông: “Anh thật là người có phúc... Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” (Mt 16,16-18)

Suy niệm: Khi xây nhà, yếu tố người ta quan tâm hàng đầu là tính bền vững: phải chịu được nắng mưa, chống đỡ nổi các tác động từ bên ngoài và có thể đứng vững với thời gian. Vì thế, người khôn thường chọn xây nhà trên đá (Mt 7,24). Để xây toà nhà Hội Thánh, Chúa Ki-tô cũng chọn “nền đá” là thánh Phê-rô, một nền tảng vững chắc không do khí huyết con người, nhưng nhờ tin vào Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống. Bởi theo lời Ngài dạy, ai tin vào Ngài, người đó chẳng những làm được những việc Ngài làm, mà còn làm được những việc lớn lao hơn nữa (Ga 14,12).
Mời Bạn: Nếu tòa nhà Hội Thánh được xây trên niềm tin, thì các bộ phận cũng cần niềm tin để kết dính. Nhưng tin không phải do khả năng vốn có của khí huyết con người, mà do ánh sáng mặc khải đến từ Chúa Cha. Vì thế, chúng ta cần mở lòng để đón nhận, bởi “gió muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8).

Chia sẻ: Chia sẻ kinh nghiệm về những lần được tác động bởi Thần Khí.

Sống Lời Chúa: Dành những phút cuối ngày để lắng đọng trong tĩnh nguyện hầu nghe được tiếng nói của Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô, Chúa hứa rằng Hội Thánh của Chúa sẽ đứng vững trước sự công phá của quyền lực tử thần. Xin cho chúng con vững tin vào lời Chúa hứa, để dù qua cảnh thăng trầm hay bất cứ thử thách nào, chúng con vẫn một lòng gắn bó với Hội Thánh. Bởi trong Hội Thánh, chúng con tìm được ơn cứu độ muôn đời. Amen.
(5 phút lời Chúa)

Trên tng đá này (22.2.2017 – Th tư: Lp Tông Toà Thánh Phêrô)
Ước gì mi người chúng ta li và yêu mến Hi Thánh, ci t và canh tân Hi Thánh bng vic canh tân chính bn thân mình.


Suy nim:
Simon là khuôn mặt nổi bật trong nhóm Mười Hai.
Ông thuộc nhóm những môn đệ đầu tiên theo Ðức Giêsu,
và là một trong ba môn đệ thân tín nhất.
Ông có mặt lúc Chúa hiển dung và trong Vườn Dầu.
Ông thường là phát ngôn viên của cả nhóm (x. Mt 19,27).
Ðức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho ông trước tiên (1Cr 15,5),
và giao cho ông chăn dắt đoàn chiên của Ngài (Ga 21,15-17).
Simon có bản tính bộc trực, hăng hái.
Vì quá tin vào sức mình, ông đã sa ngã, chối Chúa.
Bất chấp những yếu đuối và giới hạn của Simon,
Ðức Giêsu vẫn chọn ông đứng đầu nhóm Mười Hai,
và làm nền tảng cho Hội Thánh của Ngài.
Ngài đặt cho Simon một tên mới là Phêrô,
tiếng Aram gọi là Kêpha, nghĩa là Tảng Ðá.
Tên mới này phản ánh sứ mạng Chúa giao cho ông.
Phêrô được tuyên bố là người có phúc,
vì ông đã được Cha trên trời cho biết Ðức Giêsu là ai.
Ông đã tin tưởng đón nhận mạc khải ấy.
“Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Ðó là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô.
Nhưng ông không chỉ tuyên xưng đức tin của mình,
ông còn tuyên xưng tình yêu nữa:
“Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Với niềm tin-yêu vào Ðức Giêsu,
Phêrô sẵn sàng chia sẻ sứ mạng Mục Tử của Ngài,
sẵn sàng hiến mình vì đoàn chiên.
Quả thực, Phêrô đã giang tay chịu chết như Thầy Giêsu,
đã theo Thầy và đến nơi mình không muốn đến.
Chúng ta ngỡ ngàng trước sự tin tưởng của Ðức Giêsu.
Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài.
dù ông chỉ là một ngư phủ bình thường, ít học.
Chỉ mình Ðức Giêsu mới là Nền Tảng (x. 1Pr 2,4-5),
nhưng Phêrô cũng được làm nền cho Hội Thánh.
Chỉ mình Ðức Giêsu nắm giữ chìa khóa (x. Kh 3,7),
nhưng Phêrô cũng được trao chìa khóa Nước Trời.
Nếu Phêrô có quyền giáo huấn,
quyền thánh hoá và quản trị Hội Thánh,
thì chỉ nhằm mục đích là phục vụ Dân Chúa.
Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong dòng lịch sử.
Không phải chỉ là những cuộc bách hại đẫm máu,
mà còn là những chia rẽ, tranh chấp nội bộ,
những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian.
Hôm nay, Hội Thánh cũng gặp khó khăn không ít,
khi nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ đức tin,
khi ơn gọi giảm sút ở nhiều nơi,
khi Ðức Thánh Cha bị công kích.
Ước gì mỗi người chúng ta ở lại và yêu mến Hội Thánh,
cải tổ và canh tân Hội Thánh
bằng việc canh tân chính bản thân mình.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22 THÁNG HAI
Quê Hương Đích Thực Cho Ta Trở Về
“Ngài đã dẫn đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập” (Đnl 26, 8). Chủ đề Thánh Kinh đầu tiên của mùa Chay là cuộc giải phóng dân Thiên Chúa ra khỏi ách nô lệ Ai-cập. Chủ đề này nằm ở trọng tâm của việc cử hành lễ Vượt Qua trong giao ước cũ. Nó cũng dẫn chúng ta đến trọng tâm của mầu nhiệm Vượt Qua trong giao ước mới: cuộc giải phóng Dân Thiên Chúa khỏi tội lỗi.
Sử dụng kiểu nói “gã Aramean lang thang”, tác giả Sách Đệ Nhị Luật muốn nói đến cuộc hành trình lang bạt của dân It-ra-en hướng về Đất Hứa. Kiểu nói ấy cho chúng ta hình dung về một lữ khách đang loay hoay tìm chốn nương thân, tìm một mảnh đất dừng chân để mình không còn là khách lạ rày đến mai đi nữa. Một lữ khách đang kiếm tìm một nơi chốn tự do thực sự để mình có thể gọi đó là quê hương của mình.
Chỉ có Thiên Chúa mới là quê hương đích thực cho ta trở về. Thiên Chúa đã nghe tiếng rên siết của dân Ngài – và Ngài đã cứu họ ra khỏi xiềng xích nô lệ bên Ai-cập. Thiên Chúa đã đưa họ vào Đất Hứa và đã thiết lập một giao ước với họ. Ngài trở thành Thiên Chúa của họ và họ trở thành dân của Ngài.
Nhưng, vì vô số lần vi phạm giao ước ấy, It-ra-en bị đưa đi lưu đày. Và, một lần nữa, Đức Chúa đã hành động. Ngài hứa với dân về một giao ước mới sẽ được đóng ấn bằng chính máu của Con Một Ngài là Đức Giêsu. Chúng ta, trong tư cách là Giáo Hội, là dân của giao ước mới này. Thiên Chúa dẫn đưa dân Ngài – là chúng ta – ra khỏi cuộc phiêu bạt để đến với ơn cứu độ trong miền Đất Hứa.
Giáo Hội là It-ra-en mới. Nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô, Giáo Hội được ban cho ân sủng và nghị lực để chu toàn tiếng gọi của giao ước mới giữa Thiên Chúa và con người. Giáo Hội là dân Thiên Chúa – điều đó không hệ tại ở chỗ tuân giữ lề luật Mô-sê, nhưng là hệ tại ở đức tin của chúng ta vào Đức Kitô, Đấng là Cứu Chúa và là Chiên Vượt Qua của chúng ta. Đức Kitô giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và Người dẫn đưa chúng ta vào mối quan hệ mật thiết và đầy hoan lạc với Thiên Chúa là Cha chúng ta.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 22 -2
Lập Tông Tòa Thánh Phêrô
1Pr 5, 1-4; Mt 16, 13-19.

Lời Suy Niệm: Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời; dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.”
Suốt thời gian Chúa Giêsu rao giảng, và chữa lành mọi bệnh tật cho con người và làm các phép lạ. Tất cả những điều ấy là để Người mạc khải về Nước Trời và thể hiện tình yêu thương của Thiên Chúa. Giờ đây, trước khi Người đi vào cuộc thương khó và phục sinh, Người muốn biết trong đám đông và kể cả các môn đệ của Người đã có ai nhận ra Người là Đấng Thiên Sai? Sau khi người đặt câu hỏi. Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô. Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Điều này Người đã nhận ra Chúa Cha đã trao ơn đức tin cho Phêrô, và Người đã trao quyền tháo cởi và trói buộc con người vào tay Phêrô.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã trao toàn quyền trói buộc hay tháo cởi cho Phêrô. Xin Chúa cho chúng con tin vào năng quyền này từ Chúa mà luôn biết chạy đến với các tòa cáo giải để nhận được ơn tha thứ hầu làm mới lại phép Rửa của chúng con khi mới nhận lãnh.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 22-02
KÍNH TÒA THÁNH PHÊRÔ TÔNG ĐỒ

Thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu chọn làm thủ lãnh hữu hình của Giáo hội. Phụng vụ muốn dành ngày hôm nay để tôn kính tòa thánh Phêrô, đồng thời cũng tôn kính quyền tối thượng của đấng kế vị thánh Phêrô đã ở tại Antiokia. Bởi đó trước kia có hai lễ riêng biệt để kính toà thánh Phêrô một tại Roma. Nhưng cả hai lễ đều mang cùng một ý nghĩa nên ngày nay phụng vụ kính chung trong một lễ "kính tòa thánh Phêrô".
Trong Giáo hội sơ khai, các Kitô hữu, nhất là bên Đông phương thường mừng ngày giáp năm chịu phép rửa tội. Vào ngày này họ lặp lại lời khấn hứa khi chịu phép rửa tội và cảm tạ Thiên Chúa đã nhận mình vào số con cái người.
Họ gọi ngày này là sinh nhật thiêng liêng của mình. Hợp với thực hành thánh thiện này, các giám mục cũng mừng ngày thụ phong của các Ngài. Sau khi các giám mục qua đời, dân chúng thường kính nhớ ngày thụ phong của các Ngài. Đó là nguồn gốc các ngày lễ kính tòa thánh Phêrô tại Antiokia và tại Roma.
Chúng ta vui mừng với lễ kính này, để tôn kính việc cất nhắc vị thủ lãnh các tông đồ lên làm mục tử Giáo hội chiến đấu và để quyết tâm hiệp nhất với Ngài bằng giây liên kết đức tin, đức cậy và đức mến.
(daminhvn.net)


22 Tháng Hai
Lầm Lỗi Là Chuyện Thường
Hôm nay kỷ niệm ngày sinh của George Washington, vị tổng thống đầu tiên của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Con người đã có công đưa nước Mỹ đến độc lập, tự do và phồn thịnh ấy nổi tiếng là người nóng nảy, nhưng luôn biết phục thiện và yêu sự thanh liêm. Ngay từ lúc thiếu thời, ông đã tỏ ra là người đơn thành và sẵn sàng nhận lỗi của mình...
Ngày kia, cậu bé George được trao cho một con dao để ra vườn làm cỏ. Trong vườn có một cây anh đào nhỏ mà cha mẹ cậu rất quý. Chưa phân biệt được thế nào là cỏ dại thế nào là cây trái, George đã chặt đứt cây anh đào vô cùng qúy giá của cha mẹ mình.
Cha của George đau lòng nhìn thấy cây anh đào đổ xuống mặt đất. Ông đã thoáng nghi George là thủ phạm, nên mới hỏi cậu: "Con có biết ai là người đốn hạ cây anh đào không? Cha không muốn thấy điều đó lập lại một lần nữa...". George suy nghĩ một lúc và trả lời: "Chính con là người đã đốn cây anh đào. Cha cứ phạt con đi".
Và George ngạc nhiên vô cùng khi nghe cha cậu trả lời: "Ðiều con vừa làm là một điều sai trái.Nhưng con đã chữa được điều sai trái đó khi dám nói lên sự thật. Cha đánh giá lòng can đảm và sự thành thật của con cao hơn là trăm nghìn những cây đẹp như thế...".
Không ai trong chúng ta, đặc biệt là tuổi trẻ, mà lại không sống với hy vọng tốt đẹp hơn trong tương lai. Nhưng phải thành thật mà nói thì cuộc đời không phải lúc nào cũng là con đường trải hoa, vì nhiều lần chúng ta gặp hoàn cảnh vô cùng tệ hại. Ðố với nhiều người, dường như hy vọng về những điều tốt đẹp chỉ thành tựu trong mơ mộng mà thôi và thực tế rất phũ phàng.
Tuổi trẻ đi qua rất nhanh. Ngày tháng trôi qua, chúng ta chẳng mấy chốc già đi. Tóc trên đầu chúng ta mỗi lúc một điểm thêm nhiều muối tiêu. Sau khoảng 45, mỗi lần nhìn vào trong gương, chúng ta giật mình thấy mình già mau quá. nhìn lại tập ảnh của gia đình, lắm khi chúng ta không có can đảm ngắm lâu hơn. Chẳng những gương mặt, mái tóc bên ngoài, mà tuổi già còn gặp nhiều hạn chế hơn tuổi trẻ. Những môn thể thao trước kia ưa thích, nay không còn đủ sức để chơi nữa. Cặp mắt sắc sảo đã phải đeo thêm kính mới đọc được sách. Khi bước vào lớp tuổi 60 trở lên, bước đi của chúng trỏe nên chậm chạp hơn. Trí nhớ mỗi lúc một ra kém cỏi...
Tuổi trẻ là một chuỗi những vấp ngã, tuổi già là những tháng ngày để ân hận và hối tiếc khi chợt nhận ra giới hạn của mình. Cuộc đời là thế. Chúng ta có nên bi quan không?
Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để sống hy vọng. Ðổ vỡ, thất bại không phải là những ngõ cụt trong cuốc sống, nhưng phải là bàn đạp để chúng ta vươn cao hơn. Cuộc đời không phải là một chuỗi ngày giữa chiếc nôi và ngôi mộ. Cuộc đời là một hành trình đi từ chỗ hữu hạn đến chỗ vô hạn, từ chỗ tuyệt vọng đến chỗ đầy hy vọng. Và cuối cùng cánh cửa của sự chết mà chúng ta rồi đây sẽ bước qua chỉ là một khúc quanh của cuộc hành trình này mà thôi...
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét