11/07/2017
Thứ Ba tuần 14 thường niên
Thánh Bênêđictô, viện phụ.
Lễ nhớ.
* Chào đời quãng năm 480 tại
Noóc-xi-a (Um-ri-a). Sau một thời gian theo học ở Rôma, Bênêđictô rút lui vào một hang ở Xu-bi-a-cô và bắt đầu sống đời ẩn sĩ, chiêu mộ các đồ đệ rồi chuyển đến Montê Cátxinô. Tại đây,
người lập một đan viện thời danh, chính người soạn tu luật cho
đan viện. Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây”. Người qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547. Từ cuối thế kỷ 8, người đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7. Ngày 24
tháng 10 năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 ra tông thư “sứ giả hòa bình” (Pacis nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.
Bài Ðọc I: (Năm I) St
32, 22-32
"Tên ông sẽ được gọi là Israel, vì ông có sức mạnh chống lại
Thiên Chúa".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy,
Giacóp chỗi dậy sớm, đem hai vợ, hai người đầy tớ gái, và mười một người con đi
sang qua khe suối Giabốc. Sau khi dẫn họ và đem tất cả của cải qua bên kia suối,
ông ở lại một mình, và đây, có một người vật lộn với ông cho đến sáng. Người ấy
thấy mình không thể vật ngã Giacóp được, nên đá vào gân đùi ông, và lập tức gân
ấy khô bại. Người ấy nói với ông rằng: "Hãy buông ta ra, vì đã hừng đông rồi".
Ông trả lời: "Tôi chỉ buông ông ra khi nào ông chúc lành cho tôi". Vậy
người ấy hỏi: "Ông tên gì?" Ông trả lời: "Tôi tên là
Giacóp". Người ấy lại nói: "Tên ông sẽ không còn gọi là Giacóp nữa,
nhưng sẽ gọi là Israel, vì nếu ông có sức mạnh chống lại Thiên Chúa, ắt ông sẽ
còn mạnh sức thắng được loài người". Giacóp hỏi người ấy: "Xin ông
cho tôi biết ông tên gì?" Người ấy đáp: "Tại sao ông lại hỏi tên
ta?" Bấy giờ người ấy chúc lành cho Giacóp chính nơi ấy. Giacóp đặt tên
cho nơi ấy là Phanuel, và bảo rằng: "Tôi đã thấy Chúa nhãn tiền mà mạng sống
tôi vẫn an toàn".
Khi ông đã ra khỏi
Phanuel, thì mặt trời liền mọc lên, nhưng ông đi khập khễnh một chân. Vì lẽ đó,
con cái Israel không ăn gân đùi cho đến ngày nay, vì gân đùi Giacóp bị khô bại:
bởi thiên thần đã đá vào gân đùi ông, nên ông bị bại.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 16, 1. 2-3.
6-7. 8b và15
Ðáp: Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan
(c. 15a).
Xướng: 1) Lạy Chúa,
xin nghe điều chính nghĩa của con; xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe
con thốt ra từ cặp môi chân thành! - Ðáp.
2) Từ cái nhìn của Chúa
hãy diễn ra sự phán quyết về con: vì mắt Ngài thấy rõ điều chân chính. Nếu Ngài
lục soát lòng con, nếu ban đêm Ngài thăm viếng, nếu Ngài thử con trong lửa,
Ngài sẽ không gặp điều gian ác ở nơi con. - Ðáp.
3) Con kêu van Ngài, bởi
Ngài nhậm lời con; lạy Chúa, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con.
Xin tỏ ra đức từ bi lạ lùng của Chúa, là Ðấng giải thoát khỏi bọn đối phương những
ai tìm nương tựa tay hữu của Ngài. - Ðáp.
4) Xin che chở con
trong bóng cánh tay Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan;
khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết
Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 32-38
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, người ta đem đến
Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám
đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: "Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy
trong dân Israel". Nhưng các người biệt phái nói rằng: "Ông ta đã nhờ
tướng quỷ mà trừ quỷ".
Và Chúa Giêsu đi rảo
khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước
Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động
lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người
chăn. Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít.
Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Nhu Cầu Truyền
Giáo
Nhờ tiếp xúc với người
dân, Chúa Giêsu có thể nhận thấy đời sống thực tế của họ. Thánh sử Mátthêu nói
rõ: "Thấy dân chúng đông đảo, Ngài chạnh lòng thương, vì họ lầm than, vất
vưởng, như chiên không người chăn dắt". Ðứng trước thảm trạng này, Chúa
Giêsu gợi ý để các môn đệ của Ngài suy tư: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt
lại ít".
Quan niệm Cựu Ước về
các chủ chăn của dân là quan niệm rộng rãi và ám chỉ vừa các thẩm phán, vừa các
tư tế và tiên tri. Hình ảnh rất quen thuộc với nền văn hóa của các dân du mục.
Chính tổ tiên của họ cũng là những người chăn chiên, như Môsê, Ðavít. Yêrêmia
và Êzêkiel đã báo trước là chính Thiên Chúa sẽ trở nên người chăn dắt đoàn
chiên của Ngài. Lời tiên tri này đã được thực hiện đầy đủ nơi Chúa Giêsu, vị Mục
Tử nhân lành chạnh thương và chăm sóc các con chiên của Ngài, đến nỗi hy sinh cả
mạng sống cho chúng. Như vậy, các Kitô hữu có thể tin tưởng tiến bước, bởi vì họ
biết rằng Chúa là mục tử của họ.
Hình ảnh về mùa gặt
hái đã được các Tiên Tri dùng để chỉ Nước Chúa Cứu Thế sau này. Thời kỳ sau
cùng là thời kỳ gặt hái thu lượm, nghĩa là lúc Thiên Chúa đến phán xét trong
ngày tận thế. Chính Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh này trong dụ ngôn cỏ lùng và
lúa. Giai đoạn sau cùng của lịch sử đã bắt đầu với việc Nước Thiên Chúa đến; tất
cả đều sẵn sàng, nhưng thiếu thợ gặt. Thế giới ngày nay như một cánh đồng mênh
mông, nơi có rất nhiều linh hồn sẵn sàng đón nhận Nước Trời nhưng phải có người
chỉ đường cho họ. Chúa muốn cứu thế gian và Ngài kêu gọi sự cộng tác của con
người. Lời kêu gọi của Ngài vẫn có giá trị và khẩn cấp trong mọi thời đại.
Là người Kitô hữu,
chúng ta có lo lắng để Nước Chúa được lan rộng tới các tâm hồn không? Ðức tin của
chúng ta có sống động bằng việc làm cụ thể hay chỉ là đức tin chết?
Xin Chúa đổ tràn tâm hồn
chúng ta lửa nhiệt tâm truyền giáo. Xin cho chúng ta thực sự trở nên chứng nhân
của Chúa bằng lời nói, việc làm, nhất là bằng lời cầu nguyện và gương sáng.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 14 TN1,
Năm lẻ
Bài đọc: Gen
32:23-33; Mt 9:32-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa
kiên trì cứu độ con người.
Người Hy-lạp và một số
tôn giáo lớn, mặc dù tin có một Đấng dựng nên và điều khiển mọi sự, nhưng họ
không tin Đấng Tạo Hóa quan tâm đến đời sống vất vả và cực khổ của con người.
Lý do: Họ tin Đấng Tạo Hóa không bao giờ thay đổi. Nếu Đấng Tạo Hóa quan tâm hay
nhận lời cầu xin của con người, Ngài đã bị con người thay đổi. Ngược lại, chúng
ta tin Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc cho mọi nhu cầu của con người. Thiên
Chúa có uy quyền đến độ, tuy Ngài đáp ứng những lời cầu xin của con người, vẫn
không thay đổi trong sự quan phòng vũ trụ của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay chứng
minh Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người và luôn kiên trì để dạy dỗ và
chữa lành con người. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật biến cố
Thiên Chúa hiện ra và vật lộn với tổ-phụ Jacob suốt đêm. Biến cố này muốn nói
Thiên Chúa kiên trì trong việc cứu độ con người, và con người luôn phải bám lấy
Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vất vả ngược xuôi để dạy dỗ, rao giảng Tin Mừng,
và chữa lành mọi vết thương hồn xác cho con người. Ngài thương dân vất vả tả
tơi như chiên không người chăn, và dạy các môn đệ phải luôn cầu nguyện để Thiên
Chúa gởi đến các mục tử tốt lành chăn dắt chiên.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Jacob vật lộn với Thiên Chúa.
1.1/ Mối thù hận giữa
Esau và Jacob: Để hiểu trình thuật hôm nay,
chúng ta cần phải biết mối thù hận giữa hai anh em sinh đôi, Esau và Jacob. Tuy
Esau là anh vì sinh ra trước; nhưng bà mẹ Rebekah đã lập kế hoạch để Jacob tước
đoạt quyền trưởng nam và lời chúc lành từ cha là Isaac. Esau tức giận về kế hoạch
này và tìm cách trả thù. Esau cùng với 400 thuộc hạ của ông đang trên đường đi
gặp Jacob, và Jacob đang trên đường chạy trốn Esau, anh mình. Ông rất lo lắng
cho số phận của ông và gia đình, nên ông đã cầu nguyện với Thiên Chúa:
"Xin giải thoát con khỏi tay anh con, khỏi tay anh Esau, vì con sợ anh ấy,
sợ anh ấy đến đánh chúng con, đánh cả mẹ lẫn con" (Gen 32:12).
(1) Cuộc vật lộn suốt
đêm giữa Jacob và người lạ mặt: "Đêm đó, ông Jacob dậy, đem theo hai bà vợ,
hai người nữ tỳ và mười một đứa con, và ông lội qua sông Jabbok. Ông đem họ
theo, đưa họ qua sông, rồi đưa tài sản của ông qua. Ông Jacob ở lại một mình;
và có một người đến vật lộn với ông cho đến lúc rạng đông."
Cuộc vật lộn giữa con
người với thần minh thường xảy ra trong các truyện thần thoại. Trong các câu
truyện như thế, thần minh thường là người trấn giữ các con sông, thường có mặt
lúc ban đêm, và thường bị buộc phải tiết lộ tông tích hay những điều bí mật cho
con người. Tất cả những yếu tố này đều có trong trình thuật hôm nay. Điều này
nói lên tác giả Sách Sáng Thế có thể bị ảnh hưởng bởi những truyện này, với mục
đích để chuyển giao ý định của Thiên Chúa cho con người.
(2) Kết quả cuộc vật lộn:
"Thấy không thắng được ông, người đó bèn đánh vào khớp xương hông của ông,
và khớp xương hông của ông Jacob bị trật đang khi ông vật lộn với người
đó." Người lạ yêu cầu: "Buông ta ra, vì đã rạng đông rồi." Nhưng
ông đáp: "Tôi sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho
tôi." Người đó hỏi ông: "Tên ngươi là gì?" Ông đáp: "Tên
tôi là Jacob." Ông Jacob hỏi: "Xin cho tôi biết tên ngài." Người
đó nói: "Sao ngươi lại hỏi tên ta?" Và người đó chúc phúc cho ông tại
đấy.
Người lạ mặt từ chối mặc
khải tên mình cho Jacob; nhưng sự kiện người đó chúc lành cho Jacob mặc khải phần
nào tông tích của Ngài. Jacob có thể đoán ra được qua việc ông đặt tên cho nơi
đó là Peniel, có nghĩa "mặt của Thiên Chúa." Hơn nữa, lời giải thích
sau đó cũng chứng minh Jacob biết đó là Thiên Chúa: Ông Jacob đặt tên cho nơi
đó là Penuel, "vì ông nói: tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã
được tha mạng."
1.2/ Hậu quả của cuộc vật
lộn:
(1) Thiên Chúa đổi tên
và chúc lành cho Jacob: Thiên Chúa đổi tên cho Jacob thành Israel, có nghĩa:
"người đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng." Động
từ thi đấu dùng ở đây là "sarah" được dùng ở thời quá khứ với tiếp vĩ
ngữ là "yisra-el." Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và Israel được ví như
một cuộc vật lộn, và Israel sẽ thắng dù không xứng đáng. Đổi tên ai là trao cho
người đó cho một sứ vụ. Thiên Chúa trao cho Jacob sứ vụ là tổ-phụ của một dân
riêng. Dân riêng này mang tên của ông là Israel, dân luôn được Thiên Chúa chúc
lành.
(2) Jacob bị trật
xương hông: Tuy Jacob thắng thế, nhưng ông phải trả giá cho cuộc vật lộn chứ
không hoàn toàn bình an vô sự: ông phải đi khập khiễng vì bị trật xương hông.
Việc dân Do-thái không ăn gân đùi có lẽ là một truyền thống xa xưa, vì người
Do-thái không còn thói quen này nữa.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu kiên trì chữa lành và dạy dỗ con người.
2.1/ Chúa Giêsu đi khắp
nơi để chữa lành và rao giảng Tin Mừng: Trong
3 năm công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã lang thang khắp miền Palestine để rao
giảng Tin Mừng và chữa lành các vết thương hồn xác cho con người. Tuy thế, Ngài
cũng gặp biết bao chống đối từ các kinh-sư, luật sĩ, và nhà cầm quyền Rôma.
Trình thuật hôm nay là một trường hợp điển hình.
(1) Hai phản ứng trước
phép lạ Chúa Giêsu trục xuất quỉ ám ra khỏi người câm:
+ Dân chúng kinh ngạc,
nói rằng: "Ở Israel, chưa hề thấy thế bao giờ!" Người chất phác thành
thật thấy sao nói vậy; họ không bị ảnh hưởng bởi thành kiến và các tính toán lợi
nhuận.
+ Nhưng người
Pharisees lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ." Họ buộc tội
Chúa có liên hệ với quỷ vương để khỏi phải tin và giữ những gì Chúa dạy; hơn nữa,
họ không muốn toàn dân tin theo Chúa vì họ sẽ mất uy quyền, thế lực, và những lợi
nhuận vật chất.
(2) Phản ứng của Chúa
Giêsu: Chẳng quan tâm đến những lời phê bình của họ, Chúa Giêsu đi khắp các
thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời
và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Ba việc tông đồ Ngài làm gương cho chúng
ta:
+ Dạy dỗ: để dân chúng
biết đâu là sự thật từ biết bao điều sai trái trong thế gian.
+ Rao giảng Tin Mừng:
loan báo tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người, và chỉ đường cho
con người biết sống làm sao để đạt được hạnh phúc muôn đời bên Ngài.
+ Chữa lành mọi vết
thương hồn xác: Chúa Giêsu cảm thương với những đau khổ hồn xác của con người.
Ngài muốn mặc lấy để cứu chữa hay cất đi tất cả khổ đau mà con người phải chịu.
2.2/ Chúa Giêsu lo lắng
nhân loại không đủ người dẫn dắt: Không phải
chỉ lo cho thế hệ đương thời, Ngài còn lo cho các thế hệ tương lai. Chỉ một câu
vắn vỏi, nhưng đã lột tả hết sự quan tâm của Chúa Giêsu: "Khi Đức Giêsu
nhìn thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy
chiên không người chăn dắt." Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: "Lúa
chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt
lúa về."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa luôn quan
tâm đến cuộc sống của mỗi người chúng ta. Ngài tìm đủ mọi cách để săn sóc, dạy
dỗ, và chữa lành mọi vết thương hồn xác của chúng ta.
- Chúng ta phải kiên
trì với Thiên Chúa trong đau khổ và thử thách. Một khi đã được chữa lành, chúng
ta phải cộng tác với Thiên Chúa trong việc săn sóc, dạy dỗ, và chữa lành tha
nhân.
- Lúa chín đầy đồng mà
thợ gặt quá ít ỏi. Trong Năm Thánh Linh Mục, chúng ta hãy tìm mọi cách để gia
tăng ơn gọi linh mục và tu sĩ; để có nhiều thợ rành nghề làm việc cho Chúa.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Th.
Bê-nê-đi-tô, viện phụ
Mt 9,32-28
THIÊN
CHÚA YÊU CON NGƯỜI
Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng
mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa và chữa
hết các bệnh hoạn tật nguyền. (Mt 9,35)
Suy
niệm: Là Con Thiên Chúa toàn
năng nhưng để cứu độ con người, Ngài đã chọn một phương thế hết sức “vất vả”.
Để “rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa” Ngài đã phải bôn
ba “khắp các thành thị, làng mạc” để giảng dạy và không nề
quản “chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền.” Đó chính là đường
lối hành động nhất quán của Thiên Chúa: Đức Giê-su sinh xuống thế gian làm
người, không phải nơi cung vàng điện ngọc mà là nơi hang đá bần cùng; thuộc
hoàng gia Đa-vít nhưng suốt ba thập kỷ ẩn thân trong kiếp thợ thuyền dân dã, và
cuối cùng chết như tên tử tội để đền bù tội lỗi của muôn người. Tất cả chỉ vì
Thiên Chúa yêu thương con người, mà tình yêu Thiên Chúa thì vô cùng lớn.
Mời Bạn: Mầu nhiệm Nhập Thể tỏ
ra cho chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương nên Ngài đến để chia sẻ, cảm thông
và ban ơn cứu độ để ta được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Đức Giê-su Ki-tô
chính là vị Thiên Chúa làm người để yêu thương con người như thế. Bạn đã làm gì
để chứng tỏ mình cảm nhận được tình yêu ấy? Và hơn nữa bạn đã làm gì sống đúng
sứ mạng người ki-tô hữu là làm chứng cho tình yêu vô cùng lớn của Thiên Chúa?
Những chức năng Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương đế của Chúa Ki-tô mà Bí tích Rửa tội đã
trao ban cho chúng ta là phương diện khác nhau để người Ki-tô hữu thực thi sứ
mạng chứng nhân yêu thương đó.
Sống Lời Chúa: Chiêm ngắm dung mạo
Chúa Ki-tô trong Phúc Âm để nghĩ, nói và làm giống như Ngài.
Cầu
nguyện: Đọc kinh Kính
Mến.
(5 phút Lời Chúa)
Sai thợ ra gặt lúa (11.7.2017 – Thứ ba Tuần 14 Thường niên)
Con người loại trừ Thiên Chúa, để rồi rơi vào sa đọa, chán chường. Đức Giêsu đến như người mục tử chăm sóc mọi mặt cho đoàn dân.
Suy niệm:
Phép lạ Đức Giêsu chữa
người câm là phép lạ cuối
của chuỗi mười phép lạ
trong hai chương 8 và 9 của Tin Mừng Mátthêu.
Mátthêu đã kể lại phép lạ
này với rất ít chi tiết.
Người ta coi bệnh câm của
anh này là do quỷ ám.
Khi quỷ bị trục xuất thì
người câm nói được.
Không thấy Đức Giêsu đã
làm gì hay nói gì để trừ quỷ.
Nhưng quyền năng của Ngài
được lộ ra khi người câm cất tiếng nói.
Có hai phản ứng ngược
nhau trước phép lạ.
Đám đông thì kinh ngạc và
nói: “Ở Israel, chưa hề thấy thế bao giờ.”
Họ đứng trước một điều
hết sức mới mẻ khiến họ ngỡ ngàng (c. 33).
Người câm nói được là một
dấu chỉ cho thấy Nước Trời đã gần,
thời đại thiên sai đã
đến, Đấng Thiên sai đã ở kề bên.
Đức Giêsu đã làm ứng
nghiệm lời ngôn sứ Isaia tiên báo:
“miệng lưỡi người câm sẽ
reo hò” (35, 6).
Nhưng những người
Pharisêu lại nghĩ khác.
Họ không phủ nhận quyền
năng trừ quỷ của Đức Giêsu,
nhưng họ lại cho rằng
Ngài đã bắt tay với quỷ vương để trừ quỷ (c. 34).
Đây là phản ứng đầu tiên
có tính thù nghịch công khai của người Pharisêu.
Phần còn lại của bài Tin
Mừng là một bản tóm lược
về các hoạt động của Đức
Giêsu: dạy dỗ, rao giảng, và chữa bệnh (c. 35).
Tất cả cuộc sống của Ngài
như dành trọn cho đám đông.
Đôi chân Ngài đi khắp các
thành thị, làng mạc và hội đường.
Đôi môi Ngài không ngớt
đem tin vui đến cho những người mong đợi.
Đôi tay Ngài chạm đến
những bệnh tật yếu đau của con người.
Nhưng trên hết vẫn là
chuyện Đức Giêsu chạnh lòng thương (c. 36).
Chạnh lòng thương là nhói
đau ở chỗ sâu bên trong của ruột gan mình.
Thấy thì thương: đó luôn
là cái nhìn của Đức Giêsu trước đám đông.
Ngài thấy họ như chiên
không có người chăn dắt, lãnh đạo.
Chính vì thế họ bị rơi
vào tình cảnh vất vưởng lầm than.
Đức Giêsu không đau xót
về chuyện bệnh tật thân xác của đám đông.
Ngài quan tâm nhiều hơn
đến nhu cầu tâm linh của con người.
Con người đánh mất ý
nghĩa cuộc sống, thấy bơ vơ, cô độc, tuyệt vọng.
Con người loại trừ Thiên
Chúa, để rồi rơi vào sa đọa, chán chường.
Đức Giêsu đến như người
mục tử chăm sóc mọi mặt cho đoàn dân.
Cách nay hai ngàn năm,
Đức Giêsu đã than về chuyện ơn gọi.
Đồng lúa thì bao la mênh
mông, mà thợ gặt thì ít.
Ngài mời các môn đệ của
mình cầu nguyện nài xin với Thiên Chúa.
Đồng lúa là của Thiên
Chúa, thợ gặt cũng là của Thiên Chúa sai đến.
Nước Việt Nam chúng ta
cũng cần bao thợ gặt.
Có bao nhiêu tỉnh thành
làng mạc còn thiếu linh mục, thiếu nữ tu.
Số linh mục mới chịu chức
không đủ bù cho các vị về hưu và qua đời.
Làm sao để các bạn trẻ
thấy con người hôm nay và chạnh lòng thương?
Làm sao để họ muốn dấn
bước lo cho đám đông như Giêsu?
Cầu nguyện:
Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành,
đồng lúa đã chín vàng chờ
ngày gặt hái.
Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy
đến làm việc trong cánh
đồng bao la của Cha.
Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay
những ước mơ lớn lao,
những lý tưởng cao cả.
Xin cho họ
biết quên hạnh phúc và
tương lai của mình
để yêu tha nhân bằng trái
tim rộng mở.
Ước gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức,
cảm được cơn đói khát Lời
Chúa và tình thương,
thấy được những mất mát
của bao người đau khổ,
và chạm đến sự trống vắng
của tâm hồn lạc hướng.
Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ
để họ quảng đại đáp lại
tiếng gọi của Chúa Giêsu,
sống như Ngài đã sống
và tiếp tục làm những gì
Ngài đã làm trên trần
gian.
Cũng xin Cha
gìn giữ gia đình và giáo
xứ chúng con,
thanh lọc bầu khí của
trường học và xã hội,
để tất cả trở thành những
môi trường tốt
giúp các bạn trẻ dễ dàng
tìm gặp ý Cha. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG BẢY
Con Đường Tiến Tới
Thành Toàn
Sự quan phòng bao trùm
một cách đặc biệt những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống
như Ngài – tức con người. Con người nhận được “sự tự trị của những hữu thể thụ
tạo” trong ý nghĩa đầy đủ nhất theo diễn tả của Công Đồng Vatican II (MV 36).
Nhưng không chỉ con người mà thôi – vì còn phải kể đến các tạo vật có bản tính
tinh thần thuần túy nữa. Nhưng chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này sau – vấn đề
liên quan đến thế giới vô hình.
Trong thế giới hữu
hình, đối tượng đặc biệt của sự quan phòng thần linh là con người. Theo ngôn ngữ
của Công Đồng Vatican II, “con người là tạo vật duy nhất trong thế giới được
Thiên Chúa yêu thương vì chính nó” (MV 24). Vì thế, “con người không thể hoàn
thành chính mình nếu không chân thành trao hiến chính mình” (MV 24).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 11-7
Thánh Bênêđictô, viện
phụ
St 32, 22-32; Mt 9,
32-38.
Lời suy niệm: “Đức Giêsu thấy
đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không
người chăn dắt.”
Chúa Giêsu chạnh lòng
thương. Điều này được thể hiện trong các Sách Tin Mừng. “Ra khỏi thuyền, Đức
Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành
các bệnh nhân của họ.” (Mt 14,14); “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ
ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn” (Mt 15,32); “Đức Giêsu chạnh
lòng thương, sờ vào mắt họ; tức khắc, họ nhìn thấy được và đi theo Người” (Mt
20,34); “Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: Tôi muốn anh sạch
đi.” (Mc 1,41); “Chúa chạnh lòng thương và nói: Bà đừng khóc nữa! Rồi Người lại
gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: Này người thanh
niên tôi bảo anh: Hãy trổi dậy! Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói.” (Lc
7,13-15).
Lạy Chúa Giêsu. Chúa
luôn hiện diện với chúng con, Chúa thấy từng hoàn cảnh của chúng con. Xin Chúa
chạnh lòng thương mà cứu chữa chúng con, để chúng con được lành sạch và được sống,
sống với Chúa và với tha nhân.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-07: Thánh
BÊNÊDITÔ
Tu Viện Trưởng (480
- 547)
Thánh Bênêditô, tổ phụ
các dòng tu bên tây phương, sinh khoảng năm 480 tại Nursia. Hai nguồn chính về
cuộc đời thánh Bênêđitô là cuốn Dialogne (đối thoại) của thánh Grêgôriô Cả và
cuốn qui luật của chính thánh nhân. Cuốn Dialogne thâu thập các phép lạ được
coi là do thánh nhân thực hiện. Giá trị của các phép lạ này tùy theo thẩm quan
và theo cách thức phê phán của mỗi người, nhưng cung ứng cho chúng ta những sự
kiện quí giá. Cha mẹ Ngài có lẽ thuộc vào hàng quí tộc ở miền quê. Ngài lớn lên
tại gia đình. Năm 14 tuổi, Ngài được gửi tới Roma để bổ túc việc học hành. Các
độc giả ngày nay có thể ngạc nhiên khi thấy có chị vú nuôi Cyrilla của Ngài đi
theo.
Sự suy đồi của Roma
làm cho người thiếu niên nhà quê này khiếp sợ. Dầu có vú nuôi đi theo, thánh
nhân trốn khỏi kinh thành hai hay ba năm sau đó. Ngài biết rằng: Thiên Chúa muốn
gọi mình sống đời tu trì. Cùng với vài người đạo đức, Ngài lưu lại ít lâu ở
Enfide, cách Roma 35 dặm. Sau đó một mình lên đường, Ngài tìm sống đời ẩn dật
tu trì. Tại Subianô, Ngài gặp một ẩn sĩ tên là Rômanô, vị ẩn sĩ hỏi: - Bạn ơi,
bạn đi đâu vậy ?
- Tôi trốn thế gian và
đi tìm cô tịch.
Rômanô khen ngợi ý định
đạo đức của thánh nhân, khuyên Ngài hãy kiên trì và ban cho những lời khuyên nhủ
quí báu. Thầy cho Ngài một bộ áo nhà tu, là một tấm da cừu và chỉ cho Ngài một
cái hang. Nhận bộ áo nhà tu, Bênêditô lần mò tới cái hang ở giữa triền dốc
Montê Calvô. Ngài đã giam mình ở đó 3 năm, thinh lặng cầu nguyện và ăn chay hãm
mình. Thực phẩm Ngài dùng là rễ cây và ít mẩu bánh thầy Romanô gởi tới bằng một
cái thúng cột giây thả xuống.
Quỉ dữ tức giận vì các
nhân đức của thầy dòng trẻ tuổi. Chúng dùng nhiều chước cám dỗ để lôi kéo Ngài
bỏ sa mạc trở về thế gian. Ngài thường làm dấu thánh giá để xua đuổi các cơn
cám dỗ. Một lần kia bị cám dỗ nghịch với đức trong sạch, Ngài liền cởi áo và
lăn mình vào bụi gai đến chảy máu ra. Từ đó tư tưởng xấu hoàn toàn bị đè nén và
không còn khuấy khuất Ngài nữa.
Tuy nhiên, các mục đồng
đã khám phá ra Ngài và danh thơm nhân đức của Ngài đã lan rộng. Một tu viện gần
đó mời Ngài về làm bề trên. Nhưng khi muốn chỉnh đốn những lạm dụng và muốn áp
dụng một qui luật, Ngài đã bị một số thầy dòng bực tức khó chịu. Họ còn đi đến
quyết định hãm hại người khác nữa. Đến bữa ăn thánh Bênêditô làm dấu thánh giá
trên chén rượu như thói quen, chén liền vỡ tan. Ngài nói với họ: - Xin Chúa tha
thứ cho các anh. Tại sao các anh làm như vậy ? Tôi đã chẳng nói với các anh rằng:
chúng ta không thể sống chung được với nhau là gì ? Vậy các anh hãy đi tìm một
bề trên khác hợp ý các anh hơn.
Rồi thánh nhân tìm lại
cô tịch để sống thân mật một mình với Thiên Chúa. Dầu vậy danh tiếng của thánh
nhân lan rộng tới Roma. Ngài không thể sống cô độc một mình được nữa. Nhiều người
tìm đến xin làm môn đệ Ngài. Tiếp nhận họ, Ngài đã phải thiết lập 12 tu viện nhỏ.
Có những gia đình quí phái mang con đến gởi thánh nhân. Chúng ta phải kể đến
trong số này hai thiếu niên Placidê và Maurô là những người sau này đã trở nên
các vị thánh.
Nhân đức các phép lạ của
thày dòng cao cả này đã gây nên nỗi ghen tức và cả đến việc vu oan nữa. Thánh
Grêgôriô cho chúng ta biết rằng: vì bị một linh mục ghen ghét xua đuổi,
Bênêditô phải dời bỏ Subianô. Thi sĩ Marcô lại nói rằng: Ngài đã được Chúa gọi
đến Cassinô. Dầu sự thực có thế nào đi nữa, thì vào khoảng giữa năm 520 và 530,
thánh Bênêditô cùng với vài người bạn đã rời bỏ Subiacô tới Cassinô. Trên núi
Cassinô có một ngôi đền cổ và một cánh rừng dâng kính thần Apollô. Ngài rao giảng
Tin Mừng cho dân cư vùng này và phá rừng khai hoang. Sau khi triệt hạ ngôi đền
cổ, Ngài đã thiết lập hai nhà nguyện kính thánh Gioan tẩy giả và thánh Martinô.
Đó là nguồn gốc của tu viện nổi danh Montê Cassinô.
Thánh Bênêditô đã sống
tại đây cho tới hết đời. Cũng tại đây, Ngài đã trước tác một bộ luật dòng ảnh
hưởng rất lớn trong đời sống tu trì của Giáo hội. Theo luật sống này, một ngày
của tu sĩ được phân phối cho ba hoạt động chính là cầu nguyện, học hành và lao
động.
Mọi hoạt động của
thánh nhân đều nhằm thi ân. Người ta còn kể lại nhiều phép lạ Ngài đã thực hiện.
Chẳng hạn như Ngài chữa cho nhiều người phong hủi, trừ quỉ và làm cho nhiều người
chết sống lại, Ngài còn được ơn thấu suốt bí mật tâm hồn và bí mật về tương
lai. Chúng ta ghi lại giai thoại về cuộc tiếp xúc giữa thánh nhân với vua
Totila. Nhà vua muốn kiểm chứng tin đồn rằng: thánh nhân biết được những điều
bí mật. Ông cho biết mình sẽ đến thăm thánh nhân. Nhưng thay vì đích thân đến,
ông lại sai một viên chức tên là Riggon, ăn mặc như nhà vua và có đoàn tùy tùng
đông đảo. Thánh nhân vẫn ngồi khi thấy ông tới và nói với ông: - Con ơi ! Cởi
áo ra đi. Nó không phải là của con,
Đến luợt Tôtila, ông đến
thăm người của Chúa, ông quỳ mọp dưới chân thánh nhân, nhưng đã ngạc nhiên khi
nghe Ngài nói: - Hãy giảm bớt những bất công đi, bởi vì ông đã gây quá nhiều sự
dữ. Ong sẽ tiến vào Roma, cai trị trong chín năm. Năm thứ 10 ông sẽ từ trần.
Lời tiên báo của thánh
nhân đã được thể hiện đầy đủ. Ngài còn cho biết rằng tu viện Monte Cassinô sẽ bị
tàn phá. Lời tiên báo này cũng đã xảy ra. Năm 590, tu viện bị người Combarde cướp
phá. Năm 1943, bọn đồng minh tàn phá dữ dội tu viện.
Thánh nhân tiếp tục
làm nhiều phép lạ, do lòng bác ái thúc đẩy. Vào cuối đời, Ngài được thị kiến,
thấy địa cầu chói sáng và linh hồn của thánh Germain được các thiên thần đưa về
trời.
Ngài cũng đã thấy linh
hồn của em mình là thánh nữ Scolastica về trời như vậy. Bốn mươi ngày sau cái
chết của người em gái thánh nhân cho biết về cái chết của em mình. Sau khi đào
mộ cho mình, thứ bảy ngày 21 tháng 3 năm 543 Ngài từ trần như lời loan báo trước.
(daminhvn.net)
11 Tháng Bảy
Một Quy Luật Ðơn Sơ
Hôm nay Giáo hội
tôn kính nhớ thánh Bênêđictô, bổn mạng của toàn thể Châu Âu.
Vào cuối thế kỷ thứ
5, đế quốc La Mã bị lung lay vì cuộc xâm lăng của những người mà thế giới Kitô
tại Âu Châu gọi là dân man di.
Một người thanh
niên thuộc dòng dõi quý tộc tại miền trung nước Italia muốn trốn thoát khỏi cuộc
loạn nhiễu nhương ấy, cho nên đã leo lên ngọn núi Subiaco để dìm mình trong cuộc
sống ẩn dật. Chính giữa nơi thanh tịnh thoát tục ấy mà chàng đã nghe được tiếng
Chúa phán trong tâm hồn: có nhiều giá trị của đế quốc La Mã cần phải được bảo tồn.
Càng ra sức làm việc để đem lại sự thống nhất và văn minh cho các dân xâm lược ấy.
Lấy những thôi thúc
ấy làm lý tưởng cho cuộc sống, Bênêđictô, người thanh niên quý tộc ấy đã quy tụ
xung quanh mình một số người đồng chí hướng và thiết lập tu viện đầu tiên tại
Montecassino.
Chàng đã nói với
Mauro, Placido và những người môn đệ đầu tiên như sau: "Chúng ta giam mình
trong bốn bức tường kiên cố không phải là để xa cách những người khác, nhưng là
để tiếp nhận từ trên cao ánh sáng của Chúa và thông đạt cho thế giới, để học hỏi
một cách sâu xa hơn nền văn minh vừa Kitô giáo vừa nhân bản và làm cho nền văn
minh ấy chiếu sáng giữa những người anh em của chúng ta. Tôn chỉ của chúng ta
là thập giá và cái cày, bởi vì một dân tộc chỉ có thể phát sinh và lớn lên với
sự cầu nguyện, nghiên cứu học hỏi và lao động".
Những điểm chính
trong quy luật của chúng ta là: Hát bảy lần một ngày để ca tụng Chúa và làm cho
màn đêm tăm tối cũng được ấm cúng với lời ca tụng này. Thứ đến, mỗi ngày bỏ ra
nhiều giờ để lao động ngoài đồng áng, học hỏi những sự trên trời và dịch lại những
tác phẩm cổ điển. Sau cùng, phục vụ nhau như những người anh em của nhau, nhất
là tại bàn ăn, là nơi vừa nghe đọc sách vừa thưởng thức chút rượu.
Vị thánh đã đưa ra
chút quy luật đơn sơ trên đây đã được chọn làm bổn mạng của toàn thể Âu Châu, bởi
vì nền văn minh của Kitô giáo hiện nay, nền văn minh nhân bản của thế giới ngày
nay đã phát sinh từ chính lý tưởng cao quý ấy: sống chung trong yêu thương để
ca tụng Chúa và phục vụ con người.
Giữa cơn khủng hoảng của
đời sống tu trì như người ta đang chứng kiến hiện nay tại hầu hết các nước Tây
phương, người ta lại thấy một dấu hiệu đầy hy vọng: các tu viện sống đời chiêm
niệm vẫn tiếp tục thu hút thanh niên thiếu nữ. Giữa một thế giới dư dật, nhưng
trống rỗng, hơn bao giờ hết, người ta càng ngày càng cảm thấy có nhu cầu phải cầu
nguyện, phải sống kết hợp với Chúa.
Ðời sống tu trì, dù bất
cứ dưới hình thức nào đi nữa, cũng không là một lẩn trốn đầy sợ hãi trước thế
gian... Người tu sĩ đích thực xa lánh thế gian, chứ không xa lánh con người.
Người tu sĩ đích thực xa lánh sự sa đọa của thế gian, để rồi lại kiến tạo một
xã hội nhân bản hơn, dễ thở hơn, dễ sống hơn.
Ðó không chỉ là sứ mệnh
của người được Chúa chọn cho cuộc sống chiêm niệm và cầu nguyện, mà cũng là sứ
mệnh của mọi người Kitô. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi để thoát tục, để
đi ngược lại tinh thần của thế tục, để tiêu diệt nơi mình những sức mạnh của sự
dữ để ra sức kiến tạo một thế giới đáng sống hơn. Sống giữa thế giới, nhưng
không thuộc về thế gian: đó là thế đứng của người Kitô. Ơn gọi và sứ mệnh của họ
là kiến tạo Nước Chúa nghĩa là xây dựng những giá trị vĩnh cửu ngay trên chính
những cái chóng qua ở đời này.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét