Tưởng Niệm Linh Mục Xuân Ly Băng
1926- 2017
TƯỞNG NIỆM XUÂN LY BĂNG
LỜI NGỎ CHO ĐÊM THƠ
LỜI NGỎ CHO ĐÊM THƠ
• Tên thật: Gioan Baotixita Lê
Xuân Hoa,
• sinh ngày 23-4-1926, tại làng Phú Trung, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
• Rửa tội năm 1926 tại họ Hiệu Lân, xứ Xuân Phong, giáo phận Vinh
• theo học Tiểu Chủng Viện Xã Đoài (1938-1949), Đại Chủng Viện Xuân Bích, Hà Nội (1953) Sàigòn (1954), Đại Chủng Viện Lê Bảo Tịnh (1955-1959).
• Thụ phong linh mục ngày 19-7-1959.
• Dạy Việt văn tại các Tiểu Chủng Viện Chân Phước Tự (Thủ Đức) và Sao Biển (Nha Trang) từ 1959-1965.
• Chính xứ Vinh Hưng, Vinh Thuỷ, Phan Thiết (1965).
• Quản Hạt Bình Tuy (1972).
• Đại Diện Giám Mục (1975)
• Tổng Đại Diện Giáo Phận Phan Thiết 1987.
• Giám chức danh dự do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban tặng ngày 25-01-1998.
• Được Chúa gọi về lúc 22g10, Thứ Tư ngày 19 tháng 7 năm 2017 tại nhà Hưu dưỡng Giáo phận Phan Thiết, hưởng thọ 92 tuổi, 58 năm linh mục.
Đã xuất bản: Thơ kinh, Hương kinh, Trầm tư, Nỗi niềm, Bài ca thương khó, Dụ ngôn Phúc âm, Như trầm hương, Kinh trong thời gian, Khúc hát ân tình, Một vùng châu lệ, Kinh sầu trên quê hương.
Năm 2008, sau hai năm phụ trách trang Đồng Xanh Thơ trên Mạng Lưới Dũng Lạc, anh Cao Huy Hoàng đã thực hiện cuộc họp mặt lịch sử của văn thơ Công Giáo, tại Tòa Giám mục Phan Thiết, ngày 20-01-2008, với khoảng 60 tham dự viên, trong đó một nửa là các cộng tác viên của Đồng Xanh Thơ. Một trong những lý do khiến cuộc họp mặt diễn ra tại Tòa Giám mục Phan Thiết dịp ấy chính là vì nhà thơ lão thành Xuân Ly Băng đang sống ở đó.
Dưới đây là bài chia sẻ “Cùng sống cuộc sống đức tin văn hóa” của Đức ông Nhà thơ kết thúc ngày họp mặt và tiếp nối là “lời ngỏ cho đêm thơ”, nhân đêm thơ Xuân Ly Băng tại Tòa Giám mục Phan Thiết, 22/3/2008. Chúng ta cùng đọc lại một vài bài thơ để tưởng nhớ Đức Ông (Trăng Thập Tự).
CÙNG SỐNG CUỘC SỐNG ĐỨC TIN VĂN HÓA
Ba thuyết trình viên đã khẳng định cho thơ ca Công Giáo Việt Nam những nền móng quan trọng: Lê Đình Bảng đặt một nền móng lịch sử, Trăng Thập Tự nêu rõ nền móng tâm linh và Nguyễn Thiên Cung một nền móng thần học.
Góp phần đúc kết và tiếp nối những điều ấy, tôi xin chia sẻ thêm đôi điều về kinh nghiệm thơ.
Người ta thường bảo ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ thầm kín, ngôn ngữ của trực giác, không dễ gì lấy triết lý mà hiểu được, vì ngôn ngữ thơ trước hết là ngôn ngữ của trái tim. “Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không hiểu được” (Pascal). Chẳng hạn hình ảnh cô gái mù với ly cà phê trắng Vũ Thuỷ. Ngay cả thi sĩ, làm thơ rồi, có khi chẳng hiểu hết thơ của mình, đang lúc nhà phê bình có thể tìm hiểu và nhận ra được. Cho nên không thể soi mói thơ bằng các hệ thống lý luận triết học hay thần học.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà thơ là cái gì dễ dãi. Người ta có nói, mỗi tài năng đều gồm 1% do bẩm sinh và 99% do đào luyện. Một phần trăm của thiên tài không thể thiếu. Nếu thiếu, dù có làm cả trăm bài văn vần cũng chẳng ra thơ. Thế nhưng chỉ một phần trăm ấy thôi chưa đủ, cần phải dụng công, phải khổ luyện.
Nhà thơ Giả Đảo có ghi lại một kinh nghiệm:
Nhị cú tam niên đắc
Ngâm thành song lệ lưu,
Được Trăng Thập Tự dịch là:
Ba năm tìm được hai câu,
Ngâm lên nhỏ lụy tuôn châu đôi dòng.
Người Pháp có nói: “Phải luyện tay nghề hai mươi lần, tác phẩm của bạn mới ra hồn” (Vingt fois sur le métier, reprenez votre ouvrage).
Làm thơ là sáng tạo. Khi Xuân Diệu viết: “Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm”, Tản Đà đòi lôi ra chém vì Xuân Diệu dám bảo mặt trời đi ngủ. Thế nhưng làm thơ là phải vậy, phải sáng tạo.
Cùng một mặt trăng nhưng với óc tưởng tượng, mỗi tác giả nhìn một khác: Trăng cười, trăng khóc, trăng rỉ máu, trăng có thể là người thiếu nữ nằm lả lơi cợt nhả mà trăng cũng có thể là Đức Mẹ.
Ngôn ngữ thơ phải sinh động, biết cười, biết khóc, biết nhảy múa. Phải biết chọn từ, đảo ngữ. Phải có nhịp điệu và nhạc điệu theo luật bằng trắc của âm thanh.
Bài thơ tả cục phân mà hay thì vẫn là thơ; còn tả cô công chúa tuyệt trần mà không hay thì cũng chẳng phải là thơ. Bài thơ ví được như một bầu trời. Bài thơ dở, đọc lên như bầu trời im lìm bất động. Bài thơ hay thì nhiều câu, nhiều chữ rực lên như trăng sao chớp nháy. Bầu trời thơ Nguyễn Du góc nào cũng chớp nháy, câu nào, chữ nào cũng hay.
Người làm thơ cần đọc thơ của nhiều tác giả, đọc những tác phẩm giá trị, để thấy những nét tân kỳ và độc sáng trong hình ảnh và ngôn ngữ.
Cần học thêm những phong cách mới của thơ Pháp, thơ Anh, thơ chữ Hán, để làm giàu cho hồn thơ. Cần đọc những sách chuyên môn về thơ để trau giồi kiến thức và kỹ năng thơ.
Cần giao lưu nhiều với các tác giả thơ, nhạc, hoạ… để làm cho tâm hồn luôn tươi mới, tránh khỏi bị “cô lậu quả văn”, nghĩa là “hẹp hòi, tầm thường, không đẹp”.
Nhất là phải đọc, nghiền ngẫm và thuộc lòng Thánh Kinh, cách riêng là các Thánh vịnh, sách Diễm ca, Tin mừng Gioan.
Bước vào chức linh mục, thấy mình được gọi rao giảng Tin Mừng bằng thơ ca, tôi đã chăm chú học làm nghệ thuật, nghiền ngẫm quyển “Lý thuyết về văn chương và các nghệ thuật” bằng tiếng Pháp (không còn nhớ tên sách và tên tác giả). Tôi đã đọc rất nhiều thơ, từ Kiều, Chinh Phụ, Cung Oán, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương cho đến Tản Đà rồi các nhà thơ mới. Có những bài thơ tôi thuộc nằm lòng. Gặp sách chuyên môn về văn chương là tôi đọc. Có những quyển tầm thường nhưng vẫn gặt hái được đôi điều, đôi dòng đáng nhớ. Cũng phải học lại tiếng Việt. Tôi vẫn thường xuyên tra cứu Hán Việt Từ Điển của Nguyễn Văn Khôn.
Người làm thơ phải đau khổ. Alfred de Musset có nói: “Cứ đánh vào tim tôi, thiên tài sẽ trào vọt”. Hàn Mạc Tử: “Không rên siết là thơ vô nghĩa lý!” Một tác giả khác: “Mà câu tuyệt vọng là câu tuyệt vời”. Một tác giả thơ Đường: “Đản thị thi nhân đa bạc mệnh” (Thôi Hiệu hay Lý Bạch?)
Đừng tự ti mặc cảm. Cứ viết, cứ đăng báo, cứ in, trong sự khôn ngoan dè dặt.
Cuối cùng, cần hai chữ thành thực và khiêm nhường, đừng tự tôn vinh mình. Thời gian sẽ sàng lọc và đào thải những gì không phải là thơ.
Chúc anh chị em về ăn tết vui.
LỜI NGỎ CHO ĐÊM THƠ
Không kể những bậc kỳ tài, người trọng tuổi không nên nói nhiều và cũng không thể nói nhiều. Nhưng cũng không nên vì thế mà không nói (cũng có nghĩa là không viết) Đức Khổng Tử có lời dạy: Khi còn sống muốn nói gì với con cháu thì nói đi, kẻo chết rồi muốn nói cũng không nói được nữa.
Tôi đã trên 80 tuổi, một đời làm Linh mục, một đời làm thơ, biết nói gì - dù rất ngắn gọn - để lưu lại cho lớp hậu sinh rất khả uý. Lớp người này rất đáng trân trọng vì đặc biệt họ yêu thơ, họ sáng tác thơ. Hơn nữa, họ là những người làm “nghệ thuật” dưới bóng cây Thánh giá và Ánh Sáng Phục Sinh của Đức Kitô.
Tôi nhớ hồi 1959, sau lãnh chức Linh mục, về dạy học tại Chủng viện Chân Phước Tự, Thủ Đức, có mấy chủng sinh hỏi tôi sáng tác thơ từ ngọn nguồn nào. Nhân đó, tôi viết một bài đăng trong nội san Chủng viện, tôi chỉ nhớ mang máng là Nguồn thơ lấy từ Thánh Kinh và tứ thơ lấy từ lời Cầu Nguyện. Lời ấy, cách đây nửa thế kỷ liệu còn thích hợp nhắc lại ở đây để tặng lớp hậu sinh yêu thơ và sáng tác thơ nữa không?
Vườn thơ Thánh Kinh rộng mênh mông như trời biển, kỳ diệu và phong phú vô cùng, chứa đựng toàn Chân Thiện Mỹ. “ Thủ nhi bất cấm, dụng nhi bất tận.”
Phan Thiết, ngày 22/3/2008
MỐI TƯƠNG QUAN VỚI CHÚA
H. Xin Cha cho biết tình yêu của Cha đối với Thiên Chúa đã qua những bước phát triển nào? Có những thăng trầm nào? Đâu là điều xuyên suốt?
Đ. Điều này đơn giản thôi. Tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa tương đối bình lặng, không có vấn đề nào đáng kể. Có thể nói là liên tục. Chỉ có một thời gian hơi sóng gió là các năm 1946-1949, chủng viện đóng cửa, tôi phải sống ở ngoài. Tuy nhiên tôi vẫn hoạt động tông đồ, ham thể thao, thể dục, lại thích đàn, sáo, đánh cờ, vv… Chính những sở thích ấy đã thu hút tôi, giữ cho tình yêu tôi luôn được trung thành với Chúa, không bị cạnh tranh vì tình yêu nhân thế. Cho nên, có thể nói, Chúa đã giữ cho tình yêu của tôi đối với Ngài được êm đềm, không bị khủng hoảng.
H. Còn mối tương quan của Cha đối với Chúa thì đã phát triển thế nào?
Đ. Khi tôi còn nhỏ, tình yêu đối với Chúa nặng phần tình cảm bình thường, nhưng càng lớn lên, tình yêu càng đi vào chiều sâu. Càng về sau, nhờ học hỏi, đọc sách, nhất là đọc và suy gẫm Kinh Thánh, đức tin và tình yêu tôi ngày càng đổi mới và sâu đậm. Tôi đã không có cơ may trải qua những đêm tối tâm hồn như Thánh Nữ Têrêxa Avila hoặc Thánh Gioan Thánh Giá. Nơi tôi, mọi sự có vẻ diễn tiến cách tự nhiên, bình thường. Tôi chỉ gặp Chúa cách đơn giản trong vạn vật, trong thiên nhiên, qua con người, cỏ cây, bông hoa, tiếng gió, ánh mặt trời, vv… Vâng, đó là một ân huệ Thiên Chúa ban cho tôi mà tôi luôn luôn cảm tạ.
H. Sau 29 năm đời linh mục, đoạn Tin Mừng nào ăn sâu vào lòng Cha nhất?
Đ. Đánh động nhất là những câu Tin Mừng mà Chúa đòi mình phải kết hợp sâu xa với Chúa: “Thầy là cây nho, các con là cành”, “Các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con”, “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”, “Ai yêu mến Thầy và giữ lời Thầy, Thầy sẽ tỏ mình cho người ấy”. Tôi đã thấy rõ Chúa đã tỏ mình cho tôi qua các biến cố trong cuộc sống. Chúa luôn luôn yêu thương tôi và hiện diện với tôi.
H. Điều gì nơi Chúa Giêsu thu hút Cha nhất?
Đ. Ở tuổi 62 của tôi hiện nay, Đức Giêsu không phải là huyền thoại, không phải là một tình cảm bên ngoài. Đức Giêsu là một thực tại, vừa thần linh vừa lịch sử, là sự sống của mỗi Kitô hữu, cho nên mọi sự nơi Chúa, từ con mắt, trái tim, cuộc sống, lời nói và tóm lại là cả cuộc sống của Chúa đều thu hút tôi. Có điều là làm sao để diễn tả tất cả những điều ấy thành thơ. Cách đây mấy tuần, có người hỏi tôi: “Chưa thấy Cha khai thác đề tài bí tích Thánh Thể?” Câu hỏi khiến tôi suy nghĩ nhiều. Quả thật, để làm thơ về bí tích Thánh Thể rất khó. Cũng như, làm thơ về Hội Thánh không dễ chút nào. Vì làm sao để Hội Thánh trở thành một hình ảnh gợi cảm? Cũng như làm sao để chút bánh chút rượu đã trở nên Mình Máu Chúa có thể biến thành lời thơ? Quả là khó! Điều đó đòi sự sống mình phải có cường độ thật cao, nghệ thuật thật lớn,… Tôi hy vọng những năm cuối đời hiện nay sẽ thực hiện đôi phần.
H. “Là thi sĩ nghĩa là ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Xuân Diệu đã viết câu ấy theo suy nghĩ của ông, nhưng nếu đọc theo ngôn ngữ Kinh Thánh, ta cũng có thể thấy ở đó tình cờ hội đủ các biểu tượng Kitô giáo liên hệ đến hồn thơ Kitô hữu: Gió khiến liên tưởng đến Thánh Thần, Trăng nhắc đến Đức Trinh Nữ, Mây nhắc đến sự hiện diện của Thiên Chúa, như mây phủ trên khám Giao Ước. Xin Cha cho biết thêm kinh nghiệm bản thân trong việc chiêm niệm qua thiên nhiên.
Đ. Trong câu hỏi đã hàm chứa câu trả lời, nhưng tôi muốn lưu ý để khỏi dừng lại ở bề mặt. Ta thấy Thiên Chúa, nhưng thấy thế nào, có rõ nét không? Thấy rồi có cảm mến, con tim có rung động không? Làm sao để đem Chúa từ trong ánh trăng, từ gió vào trong khối óc, trái tim, rồi từ đó trào ra nơi ngọn bút? Tôi còn nhớ một câu thơ Đức: “Gió đập vào cửa sổ và nói với tôi về Thiên Chúa Tình Yêu”.
H. Cha làm nhiều thơ về Đức Mẹ. Xin cho biết tại sao? Điều gì nơi Đức Mẹ gây cảm hứng nhiều nhất? Lòng yêu mến Đức Mẹ bắt nguồn từ đâu?
Đ. Nói về Mẹ Maria là nói đến cả một trời yêu, vì Maria có nghĩa là biển, có nghĩa là cay đắng. Lòng yêu mến Đức Mẹ cũng do bẩm sinh, có thể do đức tin của người mẹ và huyết thống của gia đình. Rất có thể từ khi còn trong bụng mẹ, tôi đã cảm được lòng yêu mến Đức Mẹ. Trong bài Nhớ Xưa, tôi đã nói đến điều đó. Còn hỏi điều gì nơi Đức Mẹ gây cảm hứng nhiều nhất, thì phải nói rằng toàn thể Đức Mẹ đều gây cảm hứng dạt dào cho tôi, từ khuôn mặt, ánh mắt, đến tấm lòng từ mẫu…
(Trích phỏng vấn của Trăng Thập Tự ngày 25-8-1988)
THƠ XUÂN LY BĂNG
TRONG TIẾNG CHUÔNG CHIỀU
“Car tu nous a fais pour Toi et notre
coeur est sans repos jusqu`à tant
qu`il repose en Toi”
(St.Augustin)
“Con người chưa được vô biên
Là còn thổn thức ưu phiền tháng năm”
(Xuân ly băng)
Chiều lắng phủ không gian buồn ý chết,
Mây thê lương chở lệ về phương mô?
Gió lạnh lùng run rẩy lá cành khô
Chim từng chiếc qua sương chiều lặng lẽ. ..
Không gian ơi! chiều nay tan thành lệ
Chảy trong lòng người viễn khách cô đơn.
Nhớ nhung chi khi trời xuống hoàng hôn
Để buồn ngấm uất hồn, ai nức nở. ..
Người bâng khuâng khi trời chiều tắt thở,
Bỗng chuông vàng trong xóm giáo ngân nga.
Tiếng êm êm dìu dịu nhẹ lan ra
Qua gió chiều lên hương buồn ly biệt
Tiếng tôn giáo cùng người, ôi tha thiết!
Viễn khách ơi!
Viễn khách ơi!
Chiều nay cảm thấy lạnh rồi phải không?
Ý đời rét buốt mênh mông
Đường đời cô quạnh trong không gian buồn!
Tình đời đen bạc mười phương
Men đời không dậy trong sương gió đời!
Viễn khách ơi!
Viễn khách ơi!
Giờ đây cảm thấy lạnh rồi phải không?
Này nghe tiếng nhạc chuông trong
Lời AI VĨNH VIỄN nói cùng THỜI GIAN:
Tìm chi hoa nội trăng ngàn
Tìm chi hạnh phúc dương gian mà tìm?
Con người chưa được VÔ BIÊN
Là còn thổn thức ưu phiền tháng năm.
Này người viễn khách bâng khuâng
Đường lên ánh sáng đã gần không xa!
SUY NGHĨ CÚI ĐẦU
Trái tim con nhỏ bé,
Tình yêu Chúa bao la,
Lòng Chúa như trời bể,
Đời con giọt mưa sa. ..
Chúa là trời ánh sáng,
Con ngọn đèn hắt hiu,
Chúa quang minh vô hạn,
Con một tia nắng chiều. ..
Chúa chính là hiện hữu,
Không có thủy có chung,
Đời con một chút xíu,
Như giọt nước miệng thùng. ..
Chúa chính là tồn tại
Tuyệt đối và vô biên
Kỳ dư là tương đối
Chuyển dịch và biến thiên
Đá vàng, ai hỏi tuổi?
Núi sông tự bao giờ?
Nhìn sao mỗi đêm tối,
Thân con thật bé thơ. ..
Rồi ra biến dịch hết:
Biển cả thành nương dâu.
Sinh ly và tử biệt
Con suy nghĩ cúi đầu. ..
Xin nhận con, lạy Chúa,
Vào thế giới Vĩnh Hằng
Thanh bình trăm muôn thuở,
Là Vương Quốc Thánh Tâm.
BÀI CA TÌNH ÁI
Trong ánh dương vàng mỗi buổi mai,
Khi đám sương lam phủ ngọn đồi,
Và lúc trên cành chim đua hót,
Lòng con mến Chúa lắm, Chúa ôi!
Dưới ánh trăng vàng dệt nhớ thương,
Đất trời say đắm mộng sầu vương,
Chúa ơi, con mến trong đêm vắng
Tình Chúa mênh mang suốt canh trường…
Vườn nhà những độ hoa đâm bông,
Hương ngát trời mai, sắc thắm hồng,
Trong cánh bướm vàng bay nhỏ nhẻ,
Hương tình mến Chúa thoảng trên không…
Những buổi giao mùa, gió lê thê,
Thổi sầu oán hận khắp sơn khê,
Lạy Chúa con nghe trong tiếng gió
Lời ca tình ái khóc tỉ tê…
Tháp cũ chiều hôm nhả tiếng đồng,
Ngân nga dìu dịu vút trên không.
Chuông ơi, ta gửi lời yêu mến
Theo gió bay về tận thiên cung…
Mỗi lần con ngắm trời mây gió,
Lạy Chúa, làm sao hồn đê mê!
Ôi hình ảnh Chúa sao sáng tỏ
Trong núi rừng và khắp cả sơn khê!
CHUÔNG CHIỀU
Chiều tàn trên bến cô liêu
Đò ngang thưa chuyến, quán chiều vắng tanh
Gió đưa hiu hắt trên cành
Đồng không sương bủa buồn tanh chim về
Hồn chiều lên ý não nề
Buồn ơi! xa vắng đê mê là buồn
Bỗng nghe một tiếng chuông buông
Xa xôi tự tháp thánh đường nào đây!
Vang lên cao vút tầng mây
Rồi ngân nhè nhẹ như ngây ngất lòng
Tiếng êm nhạc gió rừng thông
Ru như tiếng trúc dịu trong chiều vàng
Rồi tan trong gió mênh mang
Những âm thanh đã nhịp nhàng trong tôi
Bắc cầu nối ý xa khơi
Hồn tôi với lại nước trời xa xăm
CỦI MỤC
Khi vớt lên một cành củi mục
Và bắt về chiếc lá vàng trôi
Ta sẽ nghe tiếng hồn ai thổn thức
Lệ trào tuôn than khóc ngậm ngùi
Phải chăng xưa một cành đào diễm lệ
Chỗ vương môn mơn trớn vạn bàn tay
Phải chăng xưa một bông hồng áo não
Che mặt người hoa, đẹp chốn lầu Tây
Chiếc lá trôi chẳng phải là ngọc diệp
Đã từng nghe chuyện tài tử giai nhân
Đã từng ghi những lời tình thống thiết
Chỗ sang giàu của những Mạnh thường quân
Nhưng than ôi gió thời gian quét sạch
Hồn thảo thu man mác bóng tà dương
Khiến bao nhiêu cành vàng cùng lá ngọc
Dạt về đâu trên mặt đất vô thường
Hình hài có biến, hồn không tan
Khắp mặt đất này đi lang thang
Vương vào cây cỏ vào sông nước
Khiến tiếng chèo khuya nghe tiếng bẽ bàng
Và người nghệ sĩ những chiều hôm
Ngắm bóng non xa bỗng thấy buồn
Trời không mưa gió không tiễn biệt
Mà thấy trong lòng giọt lệ tuôn
Thôi đừng khóc nữa lá cành ôi
Có khóc đời cũng thế mà thôi
Vì trong thời gian có vĩnh cửu
Trong ly rượu nồng có mùi ngải cứu
Vị đắng đót sẽ còn lại muôn năm
Là lộc trời để nhắc nhở xa xăm.
LÂU ĐÀI ĐÊM TỐI
Trước ngưỡng cửa lâu đài đêm tối
Lá hoa buồn khép vội bờ mi
Côn trùng rỉ rả âm i
Trời cao đã mọc một vì sao hôm
Gửi vào Chúa tâm hồn tín thác
Đêm linh hồn man mác tình yêu
Có bình minh sáng thật nhiều
Có hiu hiu gió mỗi chiều mơn man
Gửi vào Chúa muôn vàn giọt lệ
Đêm linh hồn xiết kể hân hoan
Du dương tiếng sáo tiếng đàn
Giữa cô liêu ấy chứa chan ân tình
Gửi về Chúa hoa cành hương thảo
Đêm linh hồn sáng đạo tình duyên
Có rừng thánh, có suối tiên
Có chiên con đứng dịu hiền trong mơ…
Đêm thời gian không mờ đêm thánh
Đèn Ba Ngôi chiếu sáng thần linh
Xuân về trên dãy trường sinh
Muôn vàn trinh nữ cầm cành huệ tươi.
VÀO SA MẠC
Thời gian vào sa mạc
Sỏi đá hóa tâm tình
Hoa cỏ mặc tâm linh
Mây trời ca tình tự
Mưa rơi toàn ân tứ
Gió thổi rặt tình yêu
Từ sáng tới ban chiều
Không gian đầy thánh sủng
Ai bước vào thung lũng
Ai leo lên núi đồi
Đều gặp thấy Ngôi Lời
Và Chúa Cha hằng hữu
Với tình yêu vĩnh cửu
Của Ngôi Ba Thánh Thần
Cả một trời thiên ân
Một đại dương ánh sáng
Một nguồn suối hy vọng
Một biển sóng vĩnh hằng
Đang vây phủ toàn thân
Của người vào cô tịch
Miễn là chịu tiêu diệt
Con người cũ A-dam
Và mặc lấy huy hoàng
Vinh quang con người mới.
HÁI HOA TÌNH YÊU
Đi vào miền cô tịch
Hái bông hoa tình yêu
Lượm những viên ngọc bích
Có khắc tên người yêu
Người yêu trên mây trời
Dù ta không thấy rõ
Người yêu trong ngọn gió
Dù chẳng động cành cây
Người yêu trong tiếng chim
Dù chim bay về núi
Em chẳng phải đi tìm
Hơi người còn nóng hổi
Người yêu trong hoa rơi
Người yêu trong lá đổ
Người yêu dưới chân trời
Người yêu trong cửa sổ
Hãy vào miền cô tịch
Hái bông hoa tình yêu
Mặc tình em thỏa thích
Chỉ có yêu và yêu.
ĐÀN VỌNG CỐ HƯƠNG
Đàn lòng kết bởi muôn dây
Nhưng dây hạnh phúc còn gầy đàn ơi
Đêm đêm hướng mắt lên trời
Ôm đàn ta khóc mãi đời trích tiên
Đàn ta sầu thảm ưu phiền
Nghẹn ngào nức nở nhớ miền Trời xa
Trời xa mới chính quê ta
Muôn muôn hạnh phúc bao la phỉ nguyền
Suối thơ rừng nhạc vô biên
Trăng thanh bình tỏa sáng miền ái ân
Muôn hoa cỏ lạ vô ngần
Sắc hương ngào ngạt tuyệt trần thanh cao
Lưu ly đàn khóc nghẹn ngào
Sầu nơi dương thế ngày nào mới vơi
Kiếp đày ải chốn xa vời
Chìm trong bể khổ lệ đời mênh mang
Ai xin tôi một cung đàn
Đàn tôi viễn xứ muôn vàn chua cay
Vì đàn kết bởi muôn dây
Nhưng dây hạnh phúc còn gầy đàn ơi
Đêm đêm khóc nước trên trời.
MỘT MẢNG CHIỀU
Mẹ cho con một mảng chiều
Có mây giăng tím chở nhiều nhớ nhung
Có đàn sáo lượn bên sông
Lưng trâu có chú mục đồng thổi tiêu
Hoàng hôn lá rụng thật nhiều
Khói lam tỏa nhạt xóm nghèo bơ vơ
Mẹ cho con một trời thơ
Trong chuông nhật một nhà thờ xa xa.
VÀO THU
Bông dưng sầu ứ không gian
Thuyền mây trôi xám gió vàng hắt hiu!
Đồng quê đọng nước tiêu điều
Ba con cò trắng tiếng kêu não nùng!
Hơi buồn bao tỏa núi sông
Cỏ cây mây nước mênh mông là buồn!
Ai về khuất nẻo cô thôn
Suối tre chảy lá chuông buồn ngân nga!
Trời, mây, nước với mình ta
Nghe chuông nhắc lễ Đức Bà sang thu!
SAY NOEL
Đêm nay Noel về
Hồn hỡi lắng tai nghe
Đàn muôn cung réo rắt
Dồn dập khắp sơn khê
Đêm nay Hài Đồng đến
Đem hoan lạc trời cao
Đêm nay thơ kính mến
Sẽ say ngã lao đao
Ôi Noel đêm trời nhiệm mầu
Rượu nồng ta không nếm
Sao lòng trí ngất ngư?
Ta say muôn ánh nến
Ngời rạng vạn hào quang
Ta say tiếng chuông vàng
Trong gió trời hổn hển
Từng trận đổ vang vang…
Ta say muôn lời kính
Thơm như hoa thiên đình
Êm như dòng suối nhạc
Đẹp như lệ đồng trinh
Ôi Noel! Đêm trời nhiệm mầu
Nhạc an hòa, thơ kính mến
Hương phượng thờ đang ngào ngạt dâng lên
Ban cho lòng người đau khổ trần gian
Hiểu ý nghĩa Noel miền cao cả.
TRÁI THÁNH KINH
Buồn lòng không, hỡi người trinh nữ
Chờ đón tân lang trễ một giờ
(Mt 25, 1-3)
Ai có đêm nay nghe tiếng khóc
Năm người trinh nữ đứng bơ vơ
Sương trời ướt cả mùi son phấn
Lỡ chuyện trăm năm chậm một giờ
Ai có đêm nay nghe tiếng khóc
Giá buốt một trời gió mênh mông
Năm người trinh nữ buồn run rẩy
Xiêm áo không che nỗi lạnh lùng
Ai có đêm nay nghe tiếng khóc
Sượng sùng trinh nữ đứng cô đơn
Lá rụng cành gầy cơn gió lốc
Tan tành giấc mộng tối tân hôn
Ai có đêm nay nghe tiếng khóc
Mịt mù canh vắng dếgiun than
Năm người trinh nữ buồn lai láng
Văng vẳng từ xa có tiếng đàn
Văng vẳng từ xa có tiếng đàn
Ôi còn đâu nữa bóng tân lang
Năm người trinh nữ sầu tuyệt vọng
Cửa đóng then cài… bước lang thang
Cửa đóng then cài… bước lang thang
Ôm đèn không đỏ dạ mang mang
Đường khuya trở gót lòng hiu quạnh
Dầu mỡ than ôi, chuyện đá vàng
Dầu mỡ than ôi, chuyện đá vàng
Biết chăng chẳng biết chàng hỡi chàng
Ai vào phòng tiệc xin nhắn gởi
Có kẻ ngoài này đứng khóc than.
BAO GIỜ CHO HẾT THU
Có một mùa thu, thu rất thu
Mưa gió….hanh hao đẫm sa mù
Mẹ hỡi chính là mùa thu ấy
Khi mẹ lìa đời, con khóc hu
Con thấy cô đơn lạnh cuộc đời
Ra vào vắng mẹ lệ ròng rơi
Mùa thu từ đó ôi sầu thảm
Như tiếng vạc kêu cuối chân trời
Rồi cũng mùa thu con ly hương
Lá vàng theo gió bay bốn phương
Mây sầu giăng mắc lòng lãng tử
Chiếc én chân trời phận thảm thương….
Mẹ hỡi bao giờ cho hết thu?
Hết gió, hết mưa, hết sa mù?
Để dòng thơ con thôi sầu thảm
Con tóc bạc rồi, mẹ ở mô?
Mẹ trách con rằng: hỏi vẩn vơ
Mẹ ở trên trời chứ ở mô
Con ơi, hãy nhìn về phương ấy
Rồi hãy cầu nguyện để làm thơ:
TRONG TIẾNG CHUÔNG
Lặng nghe chuông đổ mỗi chiều
Lá vàng tuôn rụng hắt hiu vườn nhà
Tiếng chuông trong gió ngân nga
Âm thanh rút ngắn đời ta dần dần
Rồi đây chuông vẫn còn ngân
Thân em khuất dạng khỏi sân khấu đời
Tìm về với Chúa em ơi!
Linh mục Xuân Ly Băng
• sinh ngày 23-4-1926, tại làng Phú Trung, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
• Rửa tội năm 1926 tại họ Hiệu Lân, xứ Xuân Phong, giáo phận Vinh
• theo học Tiểu Chủng Viện Xã Đoài (1938-1949), Đại Chủng Viện Xuân Bích, Hà Nội (1953) Sàigòn (1954), Đại Chủng Viện Lê Bảo Tịnh (1955-1959).
• Thụ phong linh mục ngày 19-7-1959.
• Dạy Việt văn tại các Tiểu Chủng Viện Chân Phước Tự (Thủ Đức) và Sao Biển (Nha Trang) từ 1959-1965.
• Chính xứ Vinh Hưng, Vinh Thuỷ, Phan Thiết (1965).
• Quản Hạt Bình Tuy (1972).
• Đại Diện Giám Mục (1975)
• Tổng Đại Diện Giáo Phận Phan Thiết 1987.
• Giám chức danh dự do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban tặng ngày 25-01-1998.
• Được Chúa gọi về lúc 22g10, Thứ Tư ngày 19 tháng 7 năm 2017 tại nhà Hưu dưỡng Giáo phận Phan Thiết, hưởng thọ 92 tuổi, 58 năm linh mục.
Đã xuất bản: Thơ kinh, Hương kinh, Trầm tư, Nỗi niềm, Bài ca thương khó, Dụ ngôn Phúc âm, Như trầm hương, Kinh trong thời gian, Khúc hát ân tình, Một vùng châu lệ, Kinh sầu trên quê hương.
Năm 2008, sau hai năm phụ trách trang Đồng Xanh Thơ trên Mạng Lưới Dũng Lạc, anh Cao Huy Hoàng đã thực hiện cuộc họp mặt lịch sử của văn thơ Công Giáo, tại Tòa Giám mục Phan Thiết, ngày 20-01-2008, với khoảng 60 tham dự viên, trong đó một nửa là các cộng tác viên của Đồng Xanh Thơ. Một trong những lý do khiến cuộc họp mặt diễn ra tại Tòa Giám mục Phan Thiết dịp ấy chính là vì nhà thơ lão thành Xuân Ly Băng đang sống ở đó.
Dưới đây là bài chia sẻ “Cùng sống cuộc sống đức tin văn hóa” của Đức ông Nhà thơ kết thúc ngày họp mặt và tiếp nối là “lời ngỏ cho đêm thơ”, nhân đêm thơ Xuân Ly Băng tại Tòa Giám mục Phan Thiết, 22/3/2008. Chúng ta cùng đọc lại một vài bài thơ để tưởng nhớ Đức Ông (Trăng Thập Tự).
CÙNG SỐNG CUỘC SỐNG ĐỨC TIN VĂN HÓA
Ba thuyết trình viên đã khẳng định cho thơ ca Công Giáo Việt Nam những nền móng quan trọng: Lê Đình Bảng đặt một nền móng lịch sử, Trăng Thập Tự nêu rõ nền móng tâm linh và Nguyễn Thiên Cung một nền móng thần học.
Góp phần đúc kết và tiếp nối những điều ấy, tôi xin chia sẻ thêm đôi điều về kinh nghiệm thơ.
Người ta thường bảo ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ thầm kín, ngôn ngữ của trực giác, không dễ gì lấy triết lý mà hiểu được, vì ngôn ngữ thơ trước hết là ngôn ngữ của trái tim. “Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không hiểu được” (Pascal). Chẳng hạn hình ảnh cô gái mù với ly cà phê trắng Vũ Thuỷ. Ngay cả thi sĩ, làm thơ rồi, có khi chẳng hiểu hết thơ của mình, đang lúc nhà phê bình có thể tìm hiểu và nhận ra được. Cho nên không thể soi mói thơ bằng các hệ thống lý luận triết học hay thần học.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà thơ là cái gì dễ dãi. Người ta có nói, mỗi tài năng đều gồm 1% do bẩm sinh và 99% do đào luyện. Một phần trăm của thiên tài không thể thiếu. Nếu thiếu, dù có làm cả trăm bài văn vần cũng chẳng ra thơ. Thế nhưng chỉ một phần trăm ấy thôi chưa đủ, cần phải dụng công, phải khổ luyện.
Nhà thơ Giả Đảo có ghi lại một kinh nghiệm:
Nhị cú tam niên đắc
Ngâm thành song lệ lưu,
Được Trăng Thập Tự dịch là:
Ba năm tìm được hai câu,
Ngâm lên nhỏ lụy tuôn châu đôi dòng.
Người Pháp có nói: “Phải luyện tay nghề hai mươi lần, tác phẩm của bạn mới ra hồn” (Vingt fois sur le métier, reprenez votre ouvrage).
Làm thơ là sáng tạo. Khi Xuân Diệu viết: “Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm”, Tản Đà đòi lôi ra chém vì Xuân Diệu dám bảo mặt trời đi ngủ. Thế nhưng làm thơ là phải vậy, phải sáng tạo.
Cùng một mặt trăng nhưng với óc tưởng tượng, mỗi tác giả nhìn một khác: Trăng cười, trăng khóc, trăng rỉ máu, trăng có thể là người thiếu nữ nằm lả lơi cợt nhả mà trăng cũng có thể là Đức Mẹ.
Ngôn ngữ thơ phải sinh động, biết cười, biết khóc, biết nhảy múa. Phải biết chọn từ, đảo ngữ. Phải có nhịp điệu và nhạc điệu theo luật bằng trắc của âm thanh.
Bài thơ tả cục phân mà hay thì vẫn là thơ; còn tả cô công chúa tuyệt trần mà không hay thì cũng chẳng phải là thơ. Bài thơ ví được như một bầu trời. Bài thơ dở, đọc lên như bầu trời im lìm bất động. Bài thơ hay thì nhiều câu, nhiều chữ rực lên như trăng sao chớp nháy. Bầu trời thơ Nguyễn Du góc nào cũng chớp nháy, câu nào, chữ nào cũng hay.
Người làm thơ cần đọc thơ của nhiều tác giả, đọc những tác phẩm giá trị, để thấy những nét tân kỳ và độc sáng trong hình ảnh và ngôn ngữ.
Cần học thêm những phong cách mới của thơ Pháp, thơ Anh, thơ chữ Hán, để làm giàu cho hồn thơ. Cần đọc những sách chuyên môn về thơ để trau giồi kiến thức và kỹ năng thơ.
Cần giao lưu nhiều với các tác giả thơ, nhạc, hoạ… để làm cho tâm hồn luôn tươi mới, tránh khỏi bị “cô lậu quả văn”, nghĩa là “hẹp hòi, tầm thường, không đẹp”.
Nhất là phải đọc, nghiền ngẫm và thuộc lòng Thánh Kinh, cách riêng là các Thánh vịnh, sách Diễm ca, Tin mừng Gioan.
Bước vào chức linh mục, thấy mình được gọi rao giảng Tin Mừng bằng thơ ca, tôi đã chăm chú học làm nghệ thuật, nghiền ngẫm quyển “Lý thuyết về văn chương và các nghệ thuật” bằng tiếng Pháp (không còn nhớ tên sách và tên tác giả). Tôi đã đọc rất nhiều thơ, từ Kiều, Chinh Phụ, Cung Oán, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương cho đến Tản Đà rồi các nhà thơ mới. Có những bài thơ tôi thuộc nằm lòng. Gặp sách chuyên môn về văn chương là tôi đọc. Có những quyển tầm thường nhưng vẫn gặt hái được đôi điều, đôi dòng đáng nhớ. Cũng phải học lại tiếng Việt. Tôi vẫn thường xuyên tra cứu Hán Việt Từ Điển của Nguyễn Văn Khôn.
Người làm thơ phải đau khổ. Alfred de Musset có nói: “Cứ đánh vào tim tôi, thiên tài sẽ trào vọt”. Hàn Mạc Tử: “Không rên siết là thơ vô nghĩa lý!” Một tác giả khác: “Mà câu tuyệt vọng là câu tuyệt vời”. Một tác giả thơ Đường: “Đản thị thi nhân đa bạc mệnh” (Thôi Hiệu hay Lý Bạch?)
Đừng tự ti mặc cảm. Cứ viết, cứ đăng báo, cứ in, trong sự khôn ngoan dè dặt.
Cuối cùng, cần hai chữ thành thực và khiêm nhường, đừng tự tôn vinh mình. Thời gian sẽ sàng lọc và đào thải những gì không phải là thơ.
Chúc anh chị em về ăn tết vui.
LỜI NGỎ CHO ĐÊM THƠ
Không kể những bậc kỳ tài, người trọng tuổi không nên nói nhiều và cũng không thể nói nhiều. Nhưng cũng không nên vì thế mà không nói (cũng có nghĩa là không viết) Đức Khổng Tử có lời dạy: Khi còn sống muốn nói gì với con cháu thì nói đi, kẻo chết rồi muốn nói cũng không nói được nữa.
Tôi đã trên 80 tuổi, một đời làm Linh mục, một đời làm thơ, biết nói gì - dù rất ngắn gọn - để lưu lại cho lớp hậu sinh rất khả uý. Lớp người này rất đáng trân trọng vì đặc biệt họ yêu thơ, họ sáng tác thơ. Hơn nữa, họ là những người làm “nghệ thuật” dưới bóng cây Thánh giá và Ánh Sáng Phục Sinh của Đức Kitô.
Tôi nhớ hồi 1959, sau lãnh chức Linh mục, về dạy học tại Chủng viện Chân Phước Tự, Thủ Đức, có mấy chủng sinh hỏi tôi sáng tác thơ từ ngọn nguồn nào. Nhân đó, tôi viết một bài đăng trong nội san Chủng viện, tôi chỉ nhớ mang máng là Nguồn thơ lấy từ Thánh Kinh và tứ thơ lấy từ lời Cầu Nguyện. Lời ấy, cách đây nửa thế kỷ liệu còn thích hợp nhắc lại ở đây để tặng lớp hậu sinh yêu thơ và sáng tác thơ nữa không?
Vườn thơ Thánh Kinh rộng mênh mông như trời biển, kỳ diệu và phong phú vô cùng, chứa đựng toàn Chân Thiện Mỹ. “ Thủ nhi bất cấm, dụng nhi bất tận.”
Phan Thiết, ngày 22/3/2008
MỐI TƯƠNG QUAN VỚI CHÚA
H. Xin Cha cho biết tình yêu của Cha đối với Thiên Chúa đã qua những bước phát triển nào? Có những thăng trầm nào? Đâu là điều xuyên suốt?
Đ. Điều này đơn giản thôi. Tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa tương đối bình lặng, không có vấn đề nào đáng kể. Có thể nói là liên tục. Chỉ có một thời gian hơi sóng gió là các năm 1946-1949, chủng viện đóng cửa, tôi phải sống ở ngoài. Tuy nhiên tôi vẫn hoạt động tông đồ, ham thể thao, thể dục, lại thích đàn, sáo, đánh cờ, vv… Chính những sở thích ấy đã thu hút tôi, giữ cho tình yêu tôi luôn được trung thành với Chúa, không bị cạnh tranh vì tình yêu nhân thế. Cho nên, có thể nói, Chúa đã giữ cho tình yêu của tôi đối với Ngài được êm đềm, không bị khủng hoảng.
H. Còn mối tương quan của Cha đối với Chúa thì đã phát triển thế nào?
Đ. Khi tôi còn nhỏ, tình yêu đối với Chúa nặng phần tình cảm bình thường, nhưng càng lớn lên, tình yêu càng đi vào chiều sâu. Càng về sau, nhờ học hỏi, đọc sách, nhất là đọc và suy gẫm Kinh Thánh, đức tin và tình yêu tôi ngày càng đổi mới và sâu đậm. Tôi đã không có cơ may trải qua những đêm tối tâm hồn như Thánh Nữ Têrêxa Avila hoặc Thánh Gioan Thánh Giá. Nơi tôi, mọi sự có vẻ diễn tiến cách tự nhiên, bình thường. Tôi chỉ gặp Chúa cách đơn giản trong vạn vật, trong thiên nhiên, qua con người, cỏ cây, bông hoa, tiếng gió, ánh mặt trời, vv… Vâng, đó là một ân huệ Thiên Chúa ban cho tôi mà tôi luôn luôn cảm tạ.
H. Sau 29 năm đời linh mục, đoạn Tin Mừng nào ăn sâu vào lòng Cha nhất?
Đ. Đánh động nhất là những câu Tin Mừng mà Chúa đòi mình phải kết hợp sâu xa với Chúa: “Thầy là cây nho, các con là cành”, “Các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con”, “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”, “Ai yêu mến Thầy và giữ lời Thầy, Thầy sẽ tỏ mình cho người ấy”. Tôi đã thấy rõ Chúa đã tỏ mình cho tôi qua các biến cố trong cuộc sống. Chúa luôn luôn yêu thương tôi và hiện diện với tôi.
H. Điều gì nơi Chúa Giêsu thu hút Cha nhất?
Đ. Ở tuổi 62 của tôi hiện nay, Đức Giêsu không phải là huyền thoại, không phải là một tình cảm bên ngoài. Đức Giêsu là một thực tại, vừa thần linh vừa lịch sử, là sự sống của mỗi Kitô hữu, cho nên mọi sự nơi Chúa, từ con mắt, trái tim, cuộc sống, lời nói và tóm lại là cả cuộc sống của Chúa đều thu hút tôi. Có điều là làm sao để diễn tả tất cả những điều ấy thành thơ. Cách đây mấy tuần, có người hỏi tôi: “Chưa thấy Cha khai thác đề tài bí tích Thánh Thể?” Câu hỏi khiến tôi suy nghĩ nhiều. Quả thật, để làm thơ về bí tích Thánh Thể rất khó. Cũng như, làm thơ về Hội Thánh không dễ chút nào. Vì làm sao để Hội Thánh trở thành một hình ảnh gợi cảm? Cũng như làm sao để chút bánh chút rượu đã trở nên Mình Máu Chúa có thể biến thành lời thơ? Quả là khó! Điều đó đòi sự sống mình phải có cường độ thật cao, nghệ thuật thật lớn,… Tôi hy vọng những năm cuối đời hiện nay sẽ thực hiện đôi phần.
H. “Là thi sĩ nghĩa là ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Xuân Diệu đã viết câu ấy theo suy nghĩ của ông, nhưng nếu đọc theo ngôn ngữ Kinh Thánh, ta cũng có thể thấy ở đó tình cờ hội đủ các biểu tượng Kitô giáo liên hệ đến hồn thơ Kitô hữu: Gió khiến liên tưởng đến Thánh Thần, Trăng nhắc đến Đức Trinh Nữ, Mây nhắc đến sự hiện diện của Thiên Chúa, như mây phủ trên khám Giao Ước. Xin Cha cho biết thêm kinh nghiệm bản thân trong việc chiêm niệm qua thiên nhiên.
Đ. Trong câu hỏi đã hàm chứa câu trả lời, nhưng tôi muốn lưu ý để khỏi dừng lại ở bề mặt. Ta thấy Thiên Chúa, nhưng thấy thế nào, có rõ nét không? Thấy rồi có cảm mến, con tim có rung động không? Làm sao để đem Chúa từ trong ánh trăng, từ gió vào trong khối óc, trái tim, rồi từ đó trào ra nơi ngọn bút? Tôi còn nhớ một câu thơ Đức: “Gió đập vào cửa sổ và nói với tôi về Thiên Chúa Tình Yêu”.
H. Cha làm nhiều thơ về Đức Mẹ. Xin cho biết tại sao? Điều gì nơi Đức Mẹ gây cảm hứng nhiều nhất? Lòng yêu mến Đức Mẹ bắt nguồn từ đâu?
Đ. Nói về Mẹ Maria là nói đến cả một trời yêu, vì Maria có nghĩa là biển, có nghĩa là cay đắng. Lòng yêu mến Đức Mẹ cũng do bẩm sinh, có thể do đức tin của người mẹ và huyết thống của gia đình. Rất có thể từ khi còn trong bụng mẹ, tôi đã cảm được lòng yêu mến Đức Mẹ. Trong bài Nhớ Xưa, tôi đã nói đến điều đó. Còn hỏi điều gì nơi Đức Mẹ gây cảm hứng nhiều nhất, thì phải nói rằng toàn thể Đức Mẹ đều gây cảm hứng dạt dào cho tôi, từ khuôn mặt, ánh mắt, đến tấm lòng từ mẫu…
(Trích phỏng vấn của Trăng Thập Tự ngày 25-8-1988)
THƠ XUÂN LY BĂNG
TRONG TIẾNG CHUÔNG CHIỀU
“Car tu nous a fais pour Toi et notre
coeur est sans repos jusqu`à tant
qu`il repose en Toi”
(St.Augustin)
“Con người chưa được vô biên
Là còn thổn thức ưu phiền tháng năm”
(Xuân ly băng)
Chiều lắng phủ không gian buồn ý chết,
Mây thê lương chở lệ về phương mô?
Gió lạnh lùng run rẩy lá cành khô
Chim từng chiếc qua sương chiều lặng lẽ. ..
Không gian ơi! chiều nay tan thành lệ
Chảy trong lòng người viễn khách cô đơn.
Nhớ nhung chi khi trời xuống hoàng hôn
Để buồn ngấm uất hồn, ai nức nở. ..
Người bâng khuâng khi trời chiều tắt thở,
Bỗng chuông vàng trong xóm giáo ngân nga.
Tiếng êm êm dìu dịu nhẹ lan ra
Qua gió chiều lên hương buồn ly biệt
Tiếng tôn giáo cùng người, ôi tha thiết!
Viễn khách ơi!
Viễn khách ơi!
Chiều nay cảm thấy lạnh rồi phải không?
Ý đời rét buốt mênh mông
Đường đời cô quạnh trong không gian buồn!
Tình đời đen bạc mười phương
Men đời không dậy trong sương gió đời!
Viễn khách ơi!
Viễn khách ơi!
Giờ đây cảm thấy lạnh rồi phải không?
Này nghe tiếng nhạc chuông trong
Lời AI VĨNH VIỄN nói cùng THỜI GIAN:
Tìm chi hoa nội trăng ngàn
Tìm chi hạnh phúc dương gian mà tìm?
Con người chưa được VÔ BIÊN
Là còn thổn thức ưu phiền tháng năm.
Này người viễn khách bâng khuâng
Đường lên ánh sáng đã gần không xa!
SUY NGHĨ CÚI ĐẦU
Trái tim con nhỏ bé,
Tình yêu Chúa bao la,
Lòng Chúa như trời bể,
Đời con giọt mưa sa. ..
Chúa là trời ánh sáng,
Con ngọn đèn hắt hiu,
Chúa quang minh vô hạn,
Con một tia nắng chiều. ..
Chúa chính là hiện hữu,
Không có thủy có chung,
Đời con một chút xíu,
Như giọt nước miệng thùng. ..
Chúa chính là tồn tại
Tuyệt đối và vô biên
Kỳ dư là tương đối
Chuyển dịch và biến thiên
Đá vàng, ai hỏi tuổi?
Núi sông tự bao giờ?
Nhìn sao mỗi đêm tối,
Thân con thật bé thơ. ..
Rồi ra biến dịch hết:
Biển cả thành nương dâu.
Sinh ly và tử biệt
Con suy nghĩ cúi đầu. ..
Xin nhận con, lạy Chúa,
Vào thế giới Vĩnh Hằng
Thanh bình trăm muôn thuở,
Là Vương Quốc Thánh Tâm.
BÀI CA TÌNH ÁI
Trong ánh dương vàng mỗi buổi mai,
Khi đám sương lam phủ ngọn đồi,
Và lúc trên cành chim đua hót,
Lòng con mến Chúa lắm, Chúa ôi!
Dưới ánh trăng vàng dệt nhớ thương,
Đất trời say đắm mộng sầu vương,
Chúa ơi, con mến trong đêm vắng
Tình Chúa mênh mang suốt canh trường…
Vườn nhà những độ hoa đâm bông,
Hương ngát trời mai, sắc thắm hồng,
Trong cánh bướm vàng bay nhỏ nhẻ,
Hương tình mến Chúa thoảng trên không…
Những buổi giao mùa, gió lê thê,
Thổi sầu oán hận khắp sơn khê,
Lạy Chúa con nghe trong tiếng gió
Lời ca tình ái khóc tỉ tê…
Tháp cũ chiều hôm nhả tiếng đồng,
Ngân nga dìu dịu vút trên không.
Chuông ơi, ta gửi lời yêu mến
Theo gió bay về tận thiên cung…
Mỗi lần con ngắm trời mây gió,
Lạy Chúa, làm sao hồn đê mê!
Ôi hình ảnh Chúa sao sáng tỏ
Trong núi rừng và khắp cả sơn khê!
CHUÔNG CHIỀU
Chiều tàn trên bến cô liêu
Đò ngang thưa chuyến, quán chiều vắng tanh
Gió đưa hiu hắt trên cành
Đồng không sương bủa buồn tanh chim về
Hồn chiều lên ý não nề
Buồn ơi! xa vắng đê mê là buồn
Bỗng nghe một tiếng chuông buông
Xa xôi tự tháp thánh đường nào đây!
Vang lên cao vút tầng mây
Rồi ngân nhè nhẹ như ngây ngất lòng
Tiếng êm nhạc gió rừng thông
Ru như tiếng trúc dịu trong chiều vàng
Rồi tan trong gió mênh mang
Những âm thanh đã nhịp nhàng trong tôi
Bắc cầu nối ý xa khơi
Hồn tôi với lại nước trời xa xăm
CỦI MỤC
Khi vớt lên một cành củi mục
Và bắt về chiếc lá vàng trôi
Ta sẽ nghe tiếng hồn ai thổn thức
Lệ trào tuôn than khóc ngậm ngùi
Phải chăng xưa một cành đào diễm lệ
Chỗ vương môn mơn trớn vạn bàn tay
Phải chăng xưa một bông hồng áo não
Che mặt người hoa, đẹp chốn lầu Tây
Chiếc lá trôi chẳng phải là ngọc diệp
Đã từng nghe chuyện tài tử giai nhân
Đã từng ghi những lời tình thống thiết
Chỗ sang giàu của những Mạnh thường quân
Nhưng than ôi gió thời gian quét sạch
Hồn thảo thu man mác bóng tà dương
Khiến bao nhiêu cành vàng cùng lá ngọc
Dạt về đâu trên mặt đất vô thường
Hình hài có biến, hồn không tan
Khắp mặt đất này đi lang thang
Vương vào cây cỏ vào sông nước
Khiến tiếng chèo khuya nghe tiếng bẽ bàng
Và người nghệ sĩ những chiều hôm
Ngắm bóng non xa bỗng thấy buồn
Trời không mưa gió không tiễn biệt
Mà thấy trong lòng giọt lệ tuôn
Thôi đừng khóc nữa lá cành ôi
Có khóc đời cũng thế mà thôi
Vì trong thời gian có vĩnh cửu
Trong ly rượu nồng có mùi ngải cứu
Vị đắng đót sẽ còn lại muôn năm
Là lộc trời để nhắc nhở xa xăm.
LÂU ĐÀI ĐÊM TỐI
Trước ngưỡng cửa lâu đài đêm tối
Lá hoa buồn khép vội bờ mi
Côn trùng rỉ rả âm i
Trời cao đã mọc một vì sao hôm
Gửi vào Chúa tâm hồn tín thác
Đêm linh hồn man mác tình yêu
Có bình minh sáng thật nhiều
Có hiu hiu gió mỗi chiều mơn man
Gửi vào Chúa muôn vàn giọt lệ
Đêm linh hồn xiết kể hân hoan
Du dương tiếng sáo tiếng đàn
Giữa cô liêu ấy chứa chan ân tình
Gửi về Chúa hoa cành hương thảo
Đêm linh hồn sáng đạo tình duyên
Có rừng thánh, có suối tiên
Có chiên con đứng dịu hiền trong mơ…
Đêm thời gian không mờ đêm thánh
Đèn Ba Ngôi chiếu sáng thần linh
Xuân về trên dãy trường sinh
Muôn vàn trinh nữ cầm cành huệ tươi.
VÀO SA MẠC
Thời gian vào sa mạc
Sỏi đá hóa tâm tình
Hoa cỏ mặc tâm linh
Mây trời ca tình tự
Mưa rơi toàn ân tứ
Gió thổi rặt tình yêu
Từ sáng tới ban chiều
Không gian đầy thánh sủng
Ai bước vào thung lũng
Ai leo lên núi đồi
Đều gặp thấy Ngôi Lời
Và Chúa Cha hằng hữu
Với tình yêu vĩnh cửu
Của Ngôi Ba Thánh Thần
Cả một trời thiên ân
Một đại dương ánh sáng
Một nguồn suối hy vọng
Một biển sóng vĩnh hằng
Đang vây phủ toàn thân
Của người vào cô tịch
Miễn là chịu tiêu diệt
Con người cũ A-dam
Và mặc lấy huy hoàng
Vinh quang con người mới.
HÁI HOA TÌNH YÊU
Đi vào miền cô tịch
Hái bông hoa tình yêu
Lượm những viên ngọc bích
Có khắc tên người yêu
Người yêu trên mây trời
Dù ta không thấy rõ
Người yêu trong ngọn gió
Dù chẳng động cành cây
Người yêu trong tiếng chim
Dù chim bay về núi
Em chẳng phải đi tìm
Hơi người còn nóng hổi
Người yêu trong hoa rơi
Người yêu trong lá đổ
Người yêu dưới chân trời
Người yêu trong cửa sổ
Hãy vào miền cô tịch
Hái bông hoa tình yêu
Mặc tình em thỏa thích
Chỉ có yêu và yêu.
ĐÀN VỌNG CỐ HƯƠNG
Đàn lòng kết bởi muôn dây
Nhưng dây hạnh phúc còn gầy đàn ơi
Đêm đêm hướng mắt lên trời
Ôm đàn ta khóc mãi đời trích tiên
Đàn ta sầu thảm ưu phiền
Nghẹn ngào nức nở nhớ miền Trời xa
Trời xa mới chính quê ta
Muôn muôn hạnh phúc bao la phỉ nguyền
Suối thơ rừng nhạc vô biên
Trăng thanh bình tỏa sáng miền ái ân
Muôn hoa cỏ lạ vô ngần
Sắc hương ngào ngạt tuyệt trần thanh cao
Lưu ly đàn khóc nghẹn ngào
Sầu nơi dương thế ngày nào mới vơi
Kiếp đày ải chốn xa vời
Chìm trong bể khổ lệ đời mênh mang
Ai xin tôi một cung đàn
Đàn tôi viễn xứ muôn vàn chua cay
Vì đàn kết bởi muôn dây
Nhưng dây hạnh phúc còn gầy đàn ơi
Đêm đêm khóc nước trên trời.
MỘT MẢNG CHIỀU
Mẹ cho con một mảng chiều
Có mây giăng tím chở nhiều nhớ nhung
Có đàn sáo lượn bên sông
Lưng trâu có chú mục đồng thổi tiêu
Hoàng hôn lá rụng thật nhiều
Khói lam tỏa nhạt xóm nghèo bơ vơ
Mẹ cho con một trời thơ
Trong chuông nhật một nhà thờ xa xa.
VÀO THU
Bông dưng sầu ứ không gian
Thuyền mây trôi xám gió vàng hắt hiu!
Đồng quê đọng nước tiêu điều
Ba con cò trắng tiếng kêu não nùng!
Hơi buồn bao tỏa núi sông
Cỏ cây mây nước mênh mông là buồn!
Ai về khuất nẻo cô thôn
Suối tre chảy lá chuông buồn ngân nga!
Trời, mây, nước với mình ta
Nghe chuông nhắc lễ Đức Bà sang thu!
SAY NOEL
Đêm nay Noel về
Hồn hỡi lắng tai nghe
Đàn muôn cung réo rắt
Dồn dập khắp sơn khê
Đêm nay Hài Đồng đến
Đem hoan lạc trời cao
Đêm nay thơ kính mến
Sẽ say ngã lao đao
Ôi Noel đêm trời nhiệm mầu
Rượu nồng ta không nếm
Sao lòng trí ngất ngư?
Ta say muôn ánh nến
Ngời rạng vạn hào quang
Ta say tiếng chuông vàng
Trong gió trời hổn hển
Từng trận đổ vang vang…
Ta say muôn lời kính
Thơm như hoa thiên đình
Êm như dòng suối nhạc
Đẹp như lệ đồng trinh
Ôi Noel! Đêm trời nhiệm mầu
Nhạc an hòa, thơ kính mến
Hương phượng thờ đang ngào ngạt dâng lên
Ban cho lòng người đau khổ trần gian
Hiểu ý nghĩa Noel miền cao cả.
TRÁI THÁNH KINH
Buồn lòng không, hỡi người trinh nữ
Chờ đón tân lang trễ một giờ
(Mt 25, 1-3)
Ai có đêm nay nghe tiếng khóc
Năm người trinh nữ đứng bơ vơ
Sương trời ướt cả mùi son phấn
Lỡ chuyện trăm năm chậm một giờ
Ai có đêm nay nghe tiếng khóc
Giá buốt một trời gió mênh mông
Năm người trinh nữ buồn run rẩy
Xiêm áo không che nỗi lạnh lùng
Ai có đêm nay nghe tiếng khóc
Sượng sùng trinh nữ đứng cô đơn
Lá rụng cành gầy cơn gió lốc
Tan tành giấc mộng tối tân hôn
Ai có đêm nay nghe tiếng khóc
Mịt mù canh vắng dếgiun than
Năm người trinh nữ buồn lai láng
Văng vẳng từ xa có tiếng đàn
Văng vẳng từ xa có tiếng đàn
Ôi còn đâu nữa bóng tân lang
Năm người trinh nữ sầu tuyệt vọng
Cửa đóng then cài… bước lang thang
Cửa đóng then cài… bước lang thang
Ôm đèn không đỏ dạ mang mang
Đường khuya trở gót lòng hiu quạnh
Dầu mỡ than ôi, chuyện đá vàng
Dầu mỡ than ôi, chuyện đá vàng
Biết chăng chẳng biết chàng hỡi chàng
Ai vào phòng tiệc xin nhắn gởi
Có kẻ ngoài này đứng khóc than.
BAO GIỜ CHO HẾT THU
Có một mùa thu, thu rất thu
Mưa gió….hanh hao đẫm sa mù
Mẹ hỡi chính là mùa thu ấy
Khi mẹ lìa đời, con khóc hu
Con thấy cô đơn lạnh cuộc đời
Ra vào vắng mẹ lệ ròng rơi
Mùa thu từ đó ôi sầu thảm
Như tiếng vạc kêu cuối chân trời
Rồi cũng mùa thu con ly hương
Lá vàng theo gió bay bốn phương
Mây sầu giăng mắc lòng lãng tử
Chiếc én chân trời phận thảm thương….
Mẹ hỡi bao giờ cho hết thu?
Hết gió, hết mưa, hết sa mù?
Để dòng thơ con thôi sầu thảm
Con tóc bạc rồi, mẹ ở mô?
Mẹ trách con rằng: hỏi vẩn vơ
Mẹ ở trên trời chứ ở mô
Con ơi, hãy nhìn về phương ấy
Rồi hãy cầu nguyện để làm thơ:
TRONG TIẾNG CHUÔNG
Lặng nghe chuông đổ mỗi chiều
Lá vàng tuôn rụng hắt hiu vườn nhà
Tiếng chuông trong gió ngân nga
Âm thanh rút ngắn đời ta dần dần
Rồi đây chuông vẫn còn ngân
Thân em khuất dạng khỏi sân khấu đời
Tìm về với Chúa em ơi!
Linh mục Xuân Ly Băng
Lm. Võ Tá Khánh7/20/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét