Thánh vịnh 90,3-17
Trong hình thái thánh vịnh 90 là một lời than van công cộng
trình bầy là điều kiện bấp bênh khốn khó của mọi kiếp người nói chung. Tuy có
nhiều lý do để than van con người cựu ước ý thức được sự bất an trong cuộc sống
của nó, và không cảm thấy bị hư mất. Nó tìm thấy các lý do có giá trị giúp hy vọng
và có được niềm an ủi nơi sự toàn thiện của Thiên Chúa và sự sẵn sàng tha thứ của
Ngài. Niềm tin của nó bảo đảm rằng nhờ ơn thánh Chúa sự nhục nhã có thể biến
thành chiến thắng, buồn khổ có thể biến thành niềm vui. Việc gán thánh vịnh cho
ông Môshê như viết trong tựa đề có lẽ đã được gợi ý bởi vài yếu tố của sách
Sáng Thế, các chươg 1-3, hay sách Đệ Nhị Luật, các chương 32-33, hiện diện
trong thánh vịnh. Tuy nhiên thời gian sáng tác chắc hẳn thuộc thời hậu lưu đầy.
Văn thể là lời than van công cộng với việc sử dụng các đề
tài thánh thi và khôn ngoan. Thánh vịnh gồm phần dẫn nhập, các câu 1-2; lời
than van trình bầy trường hợp, các câu 3-12; lời cầu, các câu 13-15; và phần kết
luận, các câu 16-17.
Các câu 3-12 là phần đầu của thánh vịnh 90 trình bầy trường
hợp của tác giả, dưới hình thức của một suy niệm khổ đau nhưng không tuyệt vọng
liên quan tới sự hư nát của cuộc sống con người, nhưng nhất là lý do của nó,
nghĩa là tội lỗi của nó khiến cho Thiên Chúa thịnh nộ. Cả tín hữu Israel đến
trình diện với Thiên Chúa của mình cũng mang các dấu vết không thể nhầm lẫn được
của tiến trình héo tàn không thể tránh được và của con đường dẫn đến chỗ tàn lụi,
giống như mọi con người tội lỗi phải chết. Nhưng ở đây tín hữu có một phương dược
khác: ông có thể hướng tới Chúa, là Đấng ban cho ông sự khôn ngoan sẽ mở tâm
trí ông cho việc hiểu biết lý do bí ẩn của các sự dữ phải chịu, là sự thịnh nộ
của Thiên Chúa, và mở tâm trí ông cho con đường phải theo để có được sự
trợ giúp của Ngài là một lòng thống hối trao ban ơn cứu rỗi.
” Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi, Ngài phán bảo:
"Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi! " Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa
hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi! Ngài cuốn đi, chúng chỉ
là giấc mộng, như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về
ủ rũ tàn phai chẳng còn. Ngài thịnh nộ, chúng con phải mạng vong, nổi trận lôi
đình: thấy mà khủng khiếp! Tội chúng con, Chúa bày ra trước mặt Ngài, lỗi thầm
kín, Thánh Nhan đều soi tỏ. Chúa nổi xung, đời chúng con tàn tạ,
kiếp sống thoảng qua: một tiếng thở dài. Tính tuổi thọ,
trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian
lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi. Cơn giận Ngài, ai lường
được sức mạnh, trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên? Xin dạy chúng con đếm
tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.”
“Chúa khiến con người trở về đất bụi”: kiểu nói này nêu bật
cái trái ngược với sự vĩnh cửu của Thiên Chúa, và của giá trị gấp ngàn lần ngày
của Thiên Chúa đối với ngày của con người. Tác giả gợi lại lời phán xử Thiên
Chúa đã đưa ra cho nhân loại sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội bất tuân lệnh
Chúa như viết trong chương 3 sách Sáng Thế: “Với con người, Chúa phán: "Vì
ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: "Ngươi
đừng ăn nó", nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi
ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh
gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới
có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra.
Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất." (St 3,17-19). Qua đó con người
kinh thánh thừa nhận sự giòn mỏng mau qua bẩm sinh của con người, và sự khác biệt
nòng cốt giữa bản tính con người phải chết và bản tính bất tử của Thiên Chúa và
sự kiện thê thảm con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, lại
đã đánh mất đi sự bất tử của mình, vì tội lỗi đã phạm. Số phận là bụi đất của
con người cũng được ông Abraham hoàn toàn ý thức khi ông thưa chuyện với Thiên
Chúa và mặc cả với Ngài để cứu dân thành Sodoma và Gomora: “Ông Áp-ra-ham lại
nói: "Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với
Chúa” (St 18,27). Ông Gióp thì than với Chúa: “Người quăng tôi vào đống bùn
nhơ, khiến tôi trở nên như tro như bụi.” (G 30,19).
“Phải, dưới mắt Chúa ngàn năm như thể ngày hôm qua đã qua
đi, hay một canh ban đêm”: Thời gian của Thiên Chúa không giống thời gian của
con người đó cũng là điều được khẳng định trong thánh vịnh 84: “Một ngày tại
khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày. Thà con ở cổng đền Thiên Chúa vẫn
còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84,11). Tác giả thư thứ II thánh
Phêrô cũng khẳng định: “Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa
một ngày” (2 Pr 3,8).
“Như cỏ đồng trổi mọc ban mai”: là hình ảnh diễn tả rất sống
động sự mỏng manh mau qua của kiếp người, rất thường được nói tới trong các
thánh vịnh. Chẳng hạn tác giả thánh vịnh 102 khẳng định: “Ngày tháng đời con:
chiều tà bóng ngả, tấm thân này: cỏ úa vàng khô.” (Tv 102,12). Còn tác giả
thánh vịnh 103 thì nói: “Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi, tươi thắm như cỏ nội
hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình.”
(Tv 103,15-16).
“Vâng chúng con bị tàn phá bởi cơn thịnh nộ của Ngài”: ở đây
chúng ta tìm lại được tư tưởng nền tảng của toàn tôn giáo cựu uớc đó là lý do của
mọi sự dữ mà toàn nhân loại, cũng như Israel quốc gia được tuyển chọn và các cá
nhân phải gánh chịu, phải được tìm trong cơn thịnh nộ trừng phạt của Thiên Chúa
chống lại các tội lỗi rõ ràng cũng như kín ẩn. Tuy nhiên, cần ghi nhận một điều
đó là khi tín hữu cựu ước nhấn mạnh trên tương quan giữa lý do mà ông thấy giữa
các khốn khó ông phải chịu và cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, ông không làm thế vì
một quan niệm lệch lạc về Thiên Chúa, làm như thể ông vui thích giới thiệu
Thiên Chúa tàn ác đối với con người tội lỗi. Trái lại, ông nhắc tới tương quan
đó chỉ vì biết rằng chỉ khi khiêm tốn thừa nhận lỗi lầm của mình, ông mới có thể
kêu lên lòng lành vô biên của Chúa mình, và như vậy tin tưởng nơi sự can thiệp
giải thoát của Ngài.
“Các năm của con kết thúc như một hơi thở”: đó cũng là nhận
xét của tác giả thánh vịnh 39:” Chúa trị tội nhằm sửa dạy con người, điều họ
tha thiết, Ngài làm tiêu tan như mối đục, thật con người chỉ như hơi thở.” (Tv
39,12).
“Các năm đời chúng con” dịch sát chữ là “các ngày của các
năm của chúng con”. Có một văn bản Ai cập viết rằng: “60 năm là lộ trình
cuộc sống thần Thot đã xác định cho người đạo đức”. Ở đây tác giả cho cuộc đời
những người khỏe mạnh nhất kéo dài 70, 80 năm, nhưng chỉ toàn là gian lao khốn
khổ. Tổ phụ Giacóp cha của quan Giuse trả lời Pharao Ai Cập: “"Cuộc đời
phiêu bạt của tôi mới được một trăm ba mươi năm, đó là những năm tháng ngắn ngủi
và khổ cực, không được như cuộc đời của cha ông tôi, những người cũng sống
phiêu bạt”, như kể trong chương 47 sách Sáng Thế.
Sức mạnh cơn giận của Thiên Chúa, lý do sự lôi đình của Ngài
con người ai mà nhận ra được? Vì vậy trên bình diện đức tin và việc thực hành
tôn giáo biết nhận ra và thừa nhận bàn tay đánh phạt của Thiên Chúa là một bí mật
mà đa số con người không thể hiểu. Do đó, việc đánh giá đúng đắn mọi sự, đặc biệt
là các khía cạnh tiêu cực của cuộc sống là môt ơn cần phải nài xin Thiên Chúa
ban cho. Qua đó tâm trí con người sẽ đạt được sự khôn ngoan. Chỉ có sự khôn
ngoan mới có thể giúp con người trong điều kiện cam go và buồn thảm cuả nó.
Các câu 13-16 của thánh vịnh 90 là lời than van của cộng
đoàn cầu nguyện, nài xin Thiên Chúa xót thương làm một phép lạ xoá bỏ quá khứ
cũng như hiện tại đầy hổ nhục của họ, và thay thế vào đó bằng một tương lai
tràn đầy các ân huệ của Ngài.
“Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ? Xin chạnh lòng
thương xót những tôi tớ Ngài đây.” Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say
tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca. Xin ban tặng chúng con niềm hoan hỷ,
bù lại những tháng năm Ngài đã bắt nếm nhục nuốt sầu.” ”Ước gì chúng con là tôi
tớ Chúa được thấy công trình Ngài thực hiện, và con cháu chúng con được thấy
vinh hiển Ngài.”
“Từ buổi sáng xin cho chúng con được no say tình Chúa:” Ban
sáng là thời gian đặc biệt thuận tiện để Thiên Chúa chấp nhận lời cầu của tín hữu,
như viết trong thánh vịnh 5: “Lạy Đức Vua là Thiên Chúa con thờ, xin Ngài nghe
tiếng con đang cầu cứu. Vâng, lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con van vỉ, ngay từ
sớm, Ngài đã nghe tiếng con. Ngay từ sớm, con tỏ bày ước nguyện, rồi chăm chú đợi
trông.” (Tv 5,3-4). Hay như trong thánh vịnh 59: “Lạy Chúa, sức mạnh Ngài, con
xin mừng hát, tình thương Ngài, sớm sớm nguyện tung hô, bởi con được Chúa nên đồn
nên luỹ, chốn con nương mình trong buổi gian truân.” (Tv 59,17). Ở đây chúng ta
có sự chắc chắn được nhận lời và lời hứa tạ ơn: việc tạ ơn sẽ đi theo những
người được ân huệ suốt cuộc đời họ, như viết trong thánh vịnh 79:” Phần chúng
con là dân của Ngài, đoàn chiên Ngài chăn dắt, chúng con sẽ tạ ơn Ngài mãi mãi
và dâng lời ca tụng đến muôn thuở muôn đời.” (Tv 79,13)
và dâng lời ca tụng đến muôn thuở muôn đời.” (Tv 79,13)
“Bù cho những ngày Ngài đã khiến chúng con khổ sầu”. Ngôn sứ
Isaia an ủi dân Israel như sau: “Anh em đã lãnh gấp đôi phần tủi nhục
đã chuốc vào thân sự nhục nhằn phỉ báng; bù vào đó, anh em sẽ được lãnh gấp đôi phần gia nghiệp trên đất chúng, và sẽ được niềm vui vĩnh cửu.” (Is 61,7)
đã chuốc vào thân sự nhục nhằn phỉ báng; bù vào đó, anh em sẽ được lãnh gấp đôi phần gia nghiệp trên đất chúng, và sẽ được niềm vui vĩnh cửu.” (Is 61,7)
Câu 17 kết thúc thánh vịnh 90 xin Thiên Chúa cho dân được
tuyển chọn thấy trong tương lai tất cả lòng nhân hậu của Ngài bằng cách nâng đỡ
họ trong mọi việc làm.
“Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là
Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc
tay chúng con làm.”
Đây cũng là tâm tình của tác giả thánh vịnh 89: “Tình thương
Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành
tín của Ngài.” (Tv 89,2)
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét