27/08/2017
Chúa Nhật 21 thường niên năm A
(phần I)
Bài Ðọc I: Is 22, 19-23
"Ta sẽ để chìa
khoá nhà Ðavít trên vai nó".
Trích sách Tiên tri
Isaia.
Ðây Chúa phán cùng
Sobna, quan cai đền thờ rằng: "Ta sẽ trục xuất ngươi ra khỏi địa vị ngươi,
và Ta sẽ cách chức ngươi; trong ngày đó, Ta sẽ gọi đầy tớ Ta là Êliaqim, con
trai Helcia. Ta sẽ lấy áo choàng của ngươi mà mặc cho nó, lấy đai lưng của
ngươi mà thắt cho nó, sẽ trao quyền ngươi vào tay nó, nó sẽ nên như cha các người
cư ngụ ở Giêrusalem và nhà Giuđa. Ta sẽ để chìa khoá nhà Ðavít trên vai nó: nó
sẽ mở cửa và không ai đóng lại được; nó đóng cửa lại và không ai mở ra được. Ta
sẽ đóng nó vào nơi kiên cố như đóng đinh, và nó sẽ trở nên ngai vinh quang nhà
cha nó".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 137, 1-2a. 2bc-3. 6 và 8bc
Ðáp: Lạy Chúa, lòng
nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa (8).
Xướng: 1) Lạy Chúa,
con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các
thiên thần, con đàn ca mừng Chúa; con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. -
Ðáp.
2) Và con sẽ ca tụng
uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa
đã nhậm lời con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. - Ðáp.
3) Quả thực Chúa cao cả
và thường nhìn kẻ khiêm cung, còn người kiêu ngạo thì Ngài ngó tự đàng xa. Lạy
Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời; xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa.
- Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 11,
33-36
"Mọi sự đều do
Người, nhờ Người và trong Người".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Ôi thẳm sâu thay sự
giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa: sự phán quyết của Người làm
sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được! Vì chưng, nào ai biết được
ý Chúa? Hoặc ai đã làm cố vấn cho Người? Hay ai đã cho Người trước để Người sẽ
trả lại sau? Vì mọi sự đều do Người, nhờ Người và trong Người: nguyện Người được
vinh quang đến muôn đời. Amen.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: không ai đến được với
Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 16, 13-20
"Con là Ðá, Thầy
sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến
địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con
Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo
là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu
nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô
thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu
trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt
hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy
bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa
địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì
con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất,
trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với
ai rằng Người là Ðức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt
đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ
bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại.
Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy
khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô
rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì
con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc
về loài người".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Mầu Nhiệm Hội
Thánh
Bài Tin Mừng hôm nay,
chúng ta đã được nghe đọc trong ngày lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Nó
có hai phần rõ rệt: những câu đầu tuyên xưng Ðức Yêsu là Kitô; còn những câu
sau tuyên bố Phêrô được đặt làm nền tảng xây lên Hội Thánh. Hai phần có thể
tách rời nhau, vì quả thật Marcô và Luca đã không đính phần sau vào phần trước.
Nhưng Matthêô đã có ý gom hai phần lại để nhấn mạnh sự liên hệ giữa việc Phêrô
tuyên xưng đức tin và việc ông được chọn để xây lên Hội Thánh, cũng như giữa Ðức
Kitô và con người được chọn để thay quyền Người dưới đất. Chúng ta hôm nay còn
đọc lại cả bài Tin Mừng này cùng với hai bài đọc trên để hiểu rõ Hội Thánh và cảm
tạ Thiên Chúa về Hội Thánh nhiều hơn.
A. Hội Thánh Là Mầu
Nhiệm Ðã Ðược Tiền Ðịnh Từ Ðời Ðời
Bài sách Isaia đã thuật
lại một câu truyện trong lịch sử Dân Chúa. Nhưng đó lại là câu truyện có tính
cách tiên tri, loan báo kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa. Và vì thế rất có hệ
đến chúng ta.
Vua Israel bấy giờ
dùng một vị đại thần hầu như là Nhiếp chính, mặc dầu cấp bậc chính thức chỉ là
giám hộ hay chủ hộ. Mọi việc trong triều đều do ông ta định đoạt. Nhưng ông lại
là kẻ thuộc hạng "mới làm ăn lên", tài cán không biết thế nào, nhưng
chắc chắn rất tham lam và ích kỷ. Chúa sai Isaia đến nói cho ông biết, Người sẽ
truất phế và cất chức ông. Và sau đó, Người sẽ đặt Êlyaqim lên thế vị.
Ðiều đáng để ý trong
câu truyện này là những lời sấm về Êlyaqim. Ðó là những lời tiên tri rất long
trọng, kể ngay từ những chữ đầu tiên. Chúa phán: "Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ
Ta là Êlyaqim". Vì hễ lần nào muốn tuyên sấm về một biến cố trọng đại
trong tương lai, Người cũng bắt đầu bằng hai chữ: "Ngày ấy". Nên những
gì sẽ xảy ra trong ngày ấy cũng đều có ý nghĩa tiên tri, tức là nằm trong kế hoạch
cứu chuộc mầu nhiệm của Chúa. Ở đây Chúa lại còn gọi Êlyaqim là tôi tớ, danh
xưng mà Người chỉ dành cho những kẻ được chọn một cách đặc biệt như Abraham,
Môsê và Ðavít, trước khi áp dụng một cách tuyệt đối và vĩnh viễn cho Ðấng Cứu
Thế.
Chúng ta thật phải lấy
làm lạ vì thấy Chúa săn sóc đến Êlyaqim một cách khác thường. Chính tay Người sẽ
mặc áo dài cho ông, thắt lưng cho ông và đặt quyền bính vào tay ông. Chúa ban
áo dài cho ai là muốn người đó được lãnh chức tư tế; và khi Người thắt lưng cho
họ là muốn cho quyền bính của người đó được chặt chẽ và vững vàng. Người còn đặt
chìa khóa nhà Ðavít trên vai Êlyaqim. Cử chỉ này chúng ta chỉ hiểu được khi nhớ
tới thời phong kiến và xa xưa hơn nữa. Mọi thị trấn và thành phố đều có tường
thành kiên cố vây quanh và các cửa ra vào đều hết sức quan trọng. Các cánh cửa
thành do đó đều chắc chắn, nặng nề và khóa bằng các then gỗ lớn, không thể cầm
bằng tay mà phải vác trên vai. Và vì thế khi đã đóng mở rồi thì chẳng ai ra vào
trái lệnh được nữa.
Sau cùng Chúa còn hứa
cắm Êlyaqim xuống như một cái đanh nơi đất cứng, để giống như một lều vải đã được
cột chặt vào đất, không ai nhổ lên được nữa... Triều đại của Êlyaqim không những
sẽ vững bền mà còn vẻ vang và được lòng dân (câu 21 và 23).
Nhưng lịch sử cho thấy
sự thật không được như vậy. Êlyaqim được lên chức giám hộ thật: nhưng rồi cái
đanh ấy cũng đã bị nhổ đi. Dân Chúa suy nghĩ lại về những lời sấm long trọng
kia. Người ta nhận ra rằng Êlyaqim chỉ là hình ảnh và là cớ để Chúa mạc khải kế
hoạch cứu độ sâu xa của Người. Ðấng mà Người nhắm kêu gọi và tuyển chọn sẽ
không là ai khác ngoài chính Ðức Yêsu Kitô; và cũng không phải chỉ là Ðức Kitô
lịch sử sinh sống ở Dothái mà là Chúa Yêsu Kitô viên mãn hằng ở cùng Hội Thánh.
Do đó bài sách Isaia
hôm nay nói về Ðức Yêsu và là Ðức Yêsu đang cai trị Hội Thánh. Bài sách ấy nói
về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và về Hội Thánh trong kế hoạch ấy. Chúng ta
hãy xem Hội Thánh đã được xây lên như thế nào để đáp ứng lời tiên tri trên.
B. Phêrô Là Ðá Xây Lên
Hội Thánh
Hôm ấy Ðức Yêsu đi
cùng môn đệ đến địa hạt Caisaria. Chi tiết nơi chốn này cũng đáng để ý hầu
chúng ta thấy rằng Hội Thánh của Chúa sẽ vượt ra khỏi ranh giới Dothái ngày xưa
và bao gồm tất cả dân ngoại.
Ðức Yêsu hỏi môn đồ:
dư luận người ta nghĩ Người là ai? Người muốn biết tâm tư của mọi người sau một
thời gian giảng đạo để chuyển sang một giai đoạn mới.
Môn đồ trả lời: kẻ bảo
là Yoan Tẩy giả; kẻ bảo là Êlya; kẻ khác lại nghĩ là Yêrêmya hay một tiên tri
nào khác. Thực ra môn đồ đã bắt đầu nói đến ý kiến của Hêrôđê vì ông này có mặc
cảm đã giết Yoan Tẩy giả nên thấy Ðức Yêsu dường như là hiện thân của vị tiền
hô. Rồi họ đã kể đến dư luận chung hơn, nghĩ Ðấng Thiên sai sẽ là Êlya trở lại.
Một mình Matthêô đưa ra ý kiến Ðức Yêsu là Yêrêmya vì có dư luận cho rằng Ðấng
Thiên sai cũng sẽ là nhà tiên tri bị bắt bớ. Nhưng nếu chẳng ý kiến nào trên
đây được ưu thế, thì đây là ý kiến chắc không thể sai được: Ðức Yêsu là một
trong các vị tiên tri thời danh kia. Ðó là dư luận chính thức của Dothái giáo
thời bấy giờ. Giới tư tế cho rằng thời tiên tri đã mãn. Vậy nếu Ðấng Thiên sai
sẽ đến là tiên tri, thì Người chỉ có thể là một trong các tiên tri "lớn"
trước đây trở lại.
Dù sao cách trả lời của
môn đồ cũng cho thấy mọi người đã công nhận uy thế của Ðức Yêsu. Người ta chưa
biết đúng Người là ai, nhưng họ đã tin Người là Ðấng được Thiên Chúa tuyển chọn
để làm một công việc rất lớn lao nào đây. Nếu dùng lại danh xưng trong bài đọc
1 nói về Êlyaqim, ta có thể bảo thiên hạ bấy giờ đều coi Ðức Yêsu là "người
tôi tớ của Thiên Chúa" rồi.
Còn tâm tư của chính
các môn đồ thì sao?
Phêrô "lên tiếng",
tức là đã nói thay cho cả đoàn rằng: "Thầy là Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Có thật Phêrô đã nói
như thế không? Vì trong Marcô và Luca, ông chỉ thưa: Thầy là Kitô. Còn những chữ
"Con Thiên Chúa hằng sống" là của riêng sách Tin Mừng Matthêô và dường
như là thành ngữ tuyên xưng đức tin của Hội Thánh sau ngày Ðức Yêsu hiển vinh.
Nếu thực sự như vậy thì càng chứng tỏ trong đoạn Tin Mừng này, Phêrô được coi
như gắn liền với Hội Thánh. Lời tuyên xưng của ông trở thành đức tin đã được
ban cho Hội Thánh. Hội Thánh đang nằm ở trong con người ông. Nói đúng hơn, Hội
Thánh đang được xây lên từ ông.
Quả vậy, ông vừa dứt lời
thì Ðức Yêsu đã mừng rỡ tuyên bố như đứng trước một mạc khải mới: "Con có
phúc, hỡi Simon con Yôna, vì không phải thịt máu mạc khải cho con biết điều ấy,
nhưng là Cha Ta Ðấng ngự trên trời". Nếu không phải "những yếu tố"
loài người nói lên điều tuyên xưng kia, thì Simon đã trở thành dụng cụ của Cha
trên trời rồi.
Chúa Cha muốn dùng
Simon vào việc nào đây? Ðức Yêsu sắp ra đi chịu chết cứu chuộc nhân loại , thì
hẳn Simon được thiên định hợp tác trong công cuộc này, một công cuộc còn phải nối
dài trong mọi thế hệ. Và như vậy lời tiên tri về Êlyaqim, như đã nói trên, cũng
phải được thực hiện nơi Simon qua Ðức Yêsu.
Thế nên Ðức Yêsu đã
phán tiếp: Simon, từ nay con sẽ gọi là Phêrô, là Thạch, là Ðá; con sẽ có một định
mệnh mới là trở nên Ðá kiên cố để Ta xây Hội Thánh của Ta trên Ðá này. Cửa hỏa
ngục, tức là sức mạnh của tử thần và tà thần muốn công phá cũng không làm gì được.
Vì như trên đã nói "Cửa thành" là nơi tung sức trong thành ra và cũng
là ngõ để kẻ thù tấn công vào. Nói cho đúng, Phêrô không phải là cửa thành vì
chính Ðức Yêsu mới là cửa vào đàn chiên; nhưng Hội Thánh xây trên Ðá Phêrô sẽ
phải chịu sức tấn công của cửa hỏa ngục. Và khi nói như vậy, chúng ta không được
hình dung Hội Thánh luôn luôn ở thế thủ. Chúa không nói Hội Thánh chịu tấn
công. Người khẳng định: cửa hỏa ngục không làm gì được Hội Thánh. Vì khi làm việc
rao giảng Phúc Âm và làm các Bí tích, Hội Thánh đâu có ở thế thủ. Nhưng hỏa ngục
vẫn không làm gì được. Người ta vẫn tin theo lời giảng dạy của Hội Thánh và đi
vào Nước Trời.
Như vậy Hội Thánh đã
thực hiện lời tiên tri về Êlyaqim: đó là cái đanh Chúa đã cắm xuống đất cứng
không thể nhổ lên được nữa. Và như Êlyaqim đã được trao chìa khóa thành, thì
Phêrô đã được trao chìa khóa Nước Trời. Mà chìa khóa ở đây như trên kia đã nói
không nhỏ bé nhẹ nhàng đâu, nhưng là then gỗ thật lớn phải vác; và khi đã đóng
mở thì chẳng ai làm ngược lại được nữa. Ở đây Ðức Yêsu còn đi xa hơn, coi công
việc của Phêrô là chính công việc của Thiên Chúa; Phêrô và Hội Thánh làm thế
nào ở dưới đất, trên trời cũng quyết định như vậy.
Thật ra để chỉ công việc
của Phêrô, Ðức Yêsu không nói là đóng mở, mà là trói mở. Nhưng trói mở là cột lại
và tháo ra, là cho vào và cấm vào; và như vậy cũng là đóng mở cửa Nước Trời. Và
nếu phải xác định rõ hơn công việc này, có lẽ chúng ta có thể dừng lại ý tưởng
của Ðức Kitô khi nói về Biệt phái. Người trách họ đã không để cho ngưòi ta vào
Nước Trời, vì "giáo lý" của họ. Như vậy, quyền đóng mở cửa Nước Trời
của Phêrô trước tiên nên được hiểu là quyền giáo huấn, dạy dỗ đức tin để người
ta được sống đời đời.
Do đó, chúng ta thấy lời
tiên tri về Êlyaqim trở nên lu mờ trước Lời Chúa phán với Phêrô, chứng tỏ Cựu Ước
chỉ là hình ảnh báo trước thực tại Tân Ước; và khi thực tại đến, hình ảnh không
còn giá trị như trước nữa. Vậy nếu Dân Chúa đã mừng rỡ hân hoan đón nhận lời
tiên tri về Êlyaqim như là lời cứu độ, thì chúng ta ngày nay càng phải hân hoan
mừng rỡ hơn nữa khi đọc Lời Hứa về Phêrô và Hội Thánh. Ðó là tâm tình mà bài
Thánh thư hôm nay muốn gợi lên.
C. Tạ Ơn Thiên Chúa Về
Mầu Nhiệm Hội Thánh
Phaolô muốn kết thúc
những chương suy nghĩ về số phận dân ngoại và nhất là số phận Israel. Người thấy
đó là kế hoạch Thiên Chúa đã trù liệu cho Hội Thánh. Cả dân ngoại, cả Israel đã
lầm lạc và lầm than trong tội bất vâng phục, để làm nổi bật tình thương nhưng
không và vô biên chan chứa trong Hội Thánh. Thế nên Thánh nhân kêu lên:
"Ôi! Thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan và thượng trí của Thiên
Chúa".
Ðó là tiếng nói của
tâm hồn dạt dào tình cảm mến, nhưng cũng là những tư tưởng thật đắn đo. Lịch sử
dân ngoại và lịch sử Israel là gì nếu chẳng phải là lịch sử cứu độ, lịch sử
Chúa trải tình thương vô biên quảng đại trên loài người tội lỗi? Dĩ nhiên ơn cứu
độ của Người nằm trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Nhưng mầu nhiệm này không phải là một
sự kiện xảy ra trong một lúc. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi như thế. Mầu
nhiệm Chúa Kitô đã chan chứa suốt thời Cựu Ước chi phối cả lời tiên tri về
Êlyaqim; mầu nhiệm ấy đang lan rộng trong Hội Thánh cho đến ngày nào đạt tới tầm
mức tuyệt vời của Thân thể Ðức Kitô.
Ðó là kế hoạch sâu thẳm
chỉ Thánh Thần mới dò được. Mọi sự giàu có phong phú đang chảy ra trong kế hoạch
này. Thật là kế hoạch khôn ngoan mà thượng trí Thiên Chúa đã nghĩ ra để chúng
ta được mọi ơn thiêng trong Ðức Kitô và nơi Hội Thánh. Và tất cả như vậy là vì
Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước, đã tự ý ban Ðức Kitô cho chúng ta, đã chọn
Phêrô một cách nhưng không để xây nên Hội Thánh. Mọi sự đều do Người, nhờ Người
và vì Người.
Do đó chúng ta phải tạ
ơn Người. Và biết ơn cụ thể nhất là đi vào trong kế hoạch thâm sâu của Người, tức
là vào sống trong mầu nhiệm Ðức Kitô và mầu nhiệm Hội Thánh.
Chính những mầu nhiệm ấy
sắp được cử hành trên bàn thờ bây giờ để khi tham dự, chúng ta được kết hợp với
Ðức Kitô là người tôi tớ mà Thiên Chúa đã sủng mộ và tuyển chọn một cách đặc biệt
để đưa chúng ta, tức là cả dân ngoại và Israel vào Hội Thánh xây trên Ðá Phêrô.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 21 Thường Niên, Năm A
Bài đọc: Isa
22:15, 19-23; Rom 11:33-36; Mt 16:13-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Quyền bính đến từ Thiên Chúa.
Chúng ta đang sống
trong một thời đại mà sự tôn trọng quyền bính bị khủng hỏang trầm trọng từ
trong gia đình đến xã hội và lan cả trong Hội Thánh. Lý do của cuộc khủng hỏang
là khuynh hướng tự do quá trớn cho rằng mọi người đều bình đẳng, không ai có
quyền bảo ai làm gì cả nếu họ không muốn. Trong gia đình, từ chỗ cha mẹ đặt đâu
con ngồi đó đến chỗ con đặt đâu cha mẹ ngồi đó. Nơi các giáo xứ, từ chỗ cha xứ
bảo sao nghe làm vậy đến chỗ giáo dân làm áp lực để Đức Giám-mục phải thuyên
chuyển cha xứ đi nơi khác. Ngay cả trong Giáo Hội, từ chỗ phải tuyệt đối vâng lời
Đức Giáo Hoàng vì Ngài là đại diện của Chúa ở trần gian đến chỗ chỉ trích ngài
già nua, lỗi thời, và khinh thường mọi giáo huấn đến từ ngài.
Các Bài đọc hôm nay
giúp chúng ta nhận biết nguồn gốc và sự quan trọng của quyền bính, và sẽ giúp
chúng ta biết tôn trọng và nghe lời các nhà lãnh đạo hơn. Trong bài đọc I, ngôn
sứ Isaiah muốn làm nổi bật quyền bính đến từ Thiên Chúa. Ngài không muốn quyền
bính ở trong tay quan Tể Tướng Shebna nữa, nên Ngài trao quyền bính vào tay
Eliakim con của Hilkiah. Trong bài đọc II, thánh Phaolô phải ngạc nhiên khi suy
niệm về sự giàu có, sự khôn ngoan, và sự thấu hiểu của Thiên Chúa. Không một ai
có thể hiểu nổi những quyết định và những đường lối của Ngài. Bổn phận của con
người không phải là chất vấn Thiên Chúa, nhưng biết khiêm nhường vâng theo những
thánh chỉ của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thiết lập Giáo Hội của Ngài trên
Tảng Đá Phêrô và trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông qua biểu tượng chìa
khóa Nước Trời. Ngài cũng long trọng hứa: “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Quyền bính đến từ Thiên Chúa.
1.1/ Quyền bính đến từ
Thiên Chúa: Ngài có quyền trao ban và có quyền
cất đi, không ai có thể chống cự lại khi Ngài cất đi. Quyền hành bị lấy đi và
trao vào tay người khác khi người đương cầm quyền khinh thường Thiên Chúa hay
không chu toàn sứ vụ của mình.
Chúa phán với tiên tri
Isaiah: “Hãy đi gặp viên quan ấy là Shebna, tể tướng triều đình, và nói: Đức
Chúa phán: "Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị.
Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là Eliakim, con của Hilkiah: Áo thụng của ngươi,
Ta sẽ lấy mặc cho nó, cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó, quyền bính của
ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó, nó sẽ là cha đối với cư dân Jerusalem và với nhà
Judah.” Lý do Thiên Chúa truất phế Shebna có lẽ vì lối sống xa hoa của ông hay
vì thái độ cấu kết với ngoại bang (Ai-cập) mà không chịu hành động theo sự hướng
dẫn của Ngài qua các ngôn sứ. Thiên Chúa không chỉ có quyền bính trên dân của
Ngài, nhưng còn có toàn quyền trên tất cả những nhà lãnh đạo của mọi dân tộc.
Ví dụ, Vua Cyrus, hoàng đế Ba-tư. Thiên Chúa dùng Nhà Vua như khí cụ để phóng
thích cho dân tộc Do-thái về hồi hương.
1.2/ Khi Chúa ban quyền,
Ngài cũng ban khôn ngoan và sức mạnh của Ngài cho người cầm quyền. Chìa khóa là biểu tượng của quyền hành. Khi Chúa trao
chìa khóa cho ai là Ngài đặt trọn vẹn tin tưởng và trao quyền hành cho người đó
thay Chúa để điều khiển. “Chìa khoá nhà David, Ta sẽ đặt trên vai nó. Nó mở ra
thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho nó vững
chắc như đinh đóng cột, nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó.”
Người lãnh nhận quyền
bính từ Thiên Chúa là để phục vụ Dân Chúa, để trở thành “cha đối với cư dân
Jerusalem và với nhà Judah;” chứ không phải để bắt người khác phục vụ, hay ức
hiếp dân lành.
2/ Bài đọc II: Không ai có thể hiểu sự khôn ngoan và đường lối của Thiên
Chúa.
2.1/ Con người thường
đánh giá trị theo những tiêu chuẩn bên ngoài: Con
người thường có khuynh hướng đánh giá trị dựa vào những tiêu chuẩn thấy được:
khỏe mạnh, trẻ trung, sắc đẹp, lanh lợi, lịch thiệp, kiến thức, giàu có… Nhưng
biết bao người đã lầm to sau khi đã dựa vào những tiêu chuẩn này để chọn lựa vì
không ai học được chữ “ngờ!” Những hình thức bên ngòai chỉ là những lớp sơn hào
nhoáng che giấu những mưu toan nham hiểm bên trong đang chờ cơ hội để bộc phát.
2.2/ Thiên Chúa thấu rõ
những ý định trong tâm hồn con người: Nếu
thái độ “suy bụng ta ra bụng người” trên không thể áp dụng vào con người, càng
không thể áp dụng cho Thiên Chúa. Vì, “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của
Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối
của Người, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm
cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau? Vì muôn vật
đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người.”
Trong lịch sử của
Do-thái cũng như của nhân lọai, biết bao nhiêu lần con người đã đánh giá trị
sai về các biến cố đã xảy ra trong lịch sử! Lý do đơn giản là vì họ đã dùng những
tiêu chuẩn của con người thay vì của Thiên Chúa; họ quá chú trọng đến hình thức
bên ngòai trong khi Thiên Chúa nhìn thấu suốt bên trong; họ chỉ có thể biết những
gì đang xảy ra hiện tại trong khi quá khứ, hiện tại, và tương lai là một trước
Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Quyền điều khiển Giáo Hội được trao cho Phêrô.
3.1/ Hai cách nhìn khác
nhau: cách nhìn của người thường và cách
nhìn của các môn đệ về “Con người của Chúa Giêsu.” Cuộc đối thọai giữa Chúa
Giêsu và các môn đệ dẫn chứng hai cách nhìn này: Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận
thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người
là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là
ông Elijah, có người lại cho là ông Jeremiah hay một trong các vị ngôn sứ."
Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Simon
Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống."
Phêrô là người đầu
tiên nhận ra và tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa vì ông không nhìn theo
dáng vẻ bên ngoài như các người đương thời, nhưng ông nhìn tận bên trong theo mặc
khải của Thiên Chúa. Cũng vậy, khi người Công-giáo nhìn vào Đức Giáo Hoàng và cấu
trúc của Giáo-hội, chúng ta không nhìn ngài như một người lãnh đạo bình thường
và cấu trúc đó như bao cấu trúc khác; nhưng là đại diện của Thiên Chúa và cấu
trúc được Thiên Chúa soi sáng.
3.2/ Trên Đá Tảng này Thầy
sẽ xây Giáo Hội: Các nhà chú giải tranh luận
“Ai là Đá trong câu này?” Đối với người Do-Thái: Đá tảng chỉ áp dụng cho Thiên
Chúa mà thôi (Ps 18:2, 31; Dt 32:4, 31; I Sam 2:2, II Sam 22:2). Thánh Augustin
đồng ý lập luận này. Người khác cho rằng “Đá tảng” là “Sự Thật,” Phêrô là người
đầu tiên khám phá và tuyên xưng Sự Thật này. Người khác cho “Đá tảng” là chính
niềm tin của Phêrô vào Chúa, và chính niềm tin này mà “quyền lực tử thần sẽ
không thắng nổi.” Mỗi câu trả lời đều cho chúng ta một lối nhìn về Phêrô: Ông
là người được chọn bởi Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa là Đá tảng, người cũng sẽ làm
cho ông thành Đá tảng mà trên đó Gíao Hội được xây dựng. Đá tảng cũng là Sự Thật
và niềm tin của Phêrô vào Chúa mà không một quyền lực nào có thể lấn át được.
3.3/ Tranh luận về quyền
của Thánh Phêrô và các Đức Gíao Hòang kế vị ngài: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh
cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều
gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Không biết bao nhiêu giáo hội và con
người qua các thời đại đã tranh luận về câu Phúc Âm này và quyền bính tuyệt đối
của Đức Gíao Hòang. Nhiều người đã công nhận đây là lý do chính ngăn cản các
giáo hội trong sự hiệp nhất chứ không phải khác biệt về đạo lý. Nhiều giáo hội
sợ một khi đã đồng ý trở về với Giáo Hội là họ phải phục tùng quyền bính của Đức
Giáo Hoàng.
* Tranh luận về ơn
“không thể sai lầm” khi tuyên xưng trọng thể những tín điều thuộc lãnh vực đức
tin và luân lý. Công đồng Vatican II, trong Hiến-chế “Ecclesiae Christi,”
chương iv, đã xác định như sau: “Chúng tôi truyền dạy và xác định đó là một tín
điều do Thiên Chúa mặc khải khi Đức Giáo Hòang tuyên xưng ex cathedra,
nghĩa là khi ngài dùng chức vụ mục tử và tiến sĩ của tất cả các Kitô hữu, bởi
quyền tối thượng kế vị các Tông Đồ của ngài, khi ngài định nghĩa là một tín điều
liên quan đến đức tin hay luân lý phải được chấp thuận bởi Giáo Hội phổ quát,
vì sự trợ giúp từ Thiên Chúa đã được hứa cho ngài qua Thánh Phêrô, vì được sở hữu
của ơn không thể sai lầm mà Đấng Cứu Chuộc đã mong muốn Giáo Hội của Ngài được
trang bị trong việc định nghĩa là tín điều những gì thuộc đức tin và luân lý,
và vì thế, những định nghĩa như thế bởi Đức Giáo Hòang và không bởi sự đồng ý của
Gíao Hội không thể sửa đổi.”
* Nhiều người đã phủ
nhận quyền bính và “ơn không thể sai lầm” của Đức Giáo Hoàng trong câu Phúc Âm
này, nhưng một bằng chứng mà họ không phủ nhận được là quyền bính của Đức Giáo
Hoàng và Giáo Hội vẫn tồn tại hơn 2000 năm qua. Hai bằng chứng hùng hồn cho thấy
đâu là sự phiên dịch đúng của Phúc Âm hôm nay.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Vì yêu thương con
người, Thiên Chúa đã chuẩn bị kế họach để con người luôn có những nhà lãnh đạo
cần thiết trong mọi trạng huống của cuộc đời.
- Chúng ta cần tuân phục
cha mẹ, thầy cô, các nhà lãnh đạo trong tôn giáo cũng như ngòai xã hội để bảo vệ
trật tự chung trong gia đình, xã hội, và Giáo Hội.
- Người lãnh đạo được
trao quyền bởi Thiên Chúa để phục vụ và mưu ích chung cho mọi người chứ không
phải để hống hách và vun xới cho bản thân. Họ phải chịu trách nhiệm trước mặt
Chúa về những người Chúa trao.
- Người Công Giáo phải
nhìn mọi sự dưới con mắt đức tin. Họ phải tuyệt đối tin tưởng và vâng lời Đức
Giáo Hoàng.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
27/08/2017
CHÚA NHẬT TUẦN 21 TN – A
Mt 16,13-20
QUYỀN BÍNH ĐỂ PHỤC VỤ
“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất anh ràng
buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy.” (Mt 16,19)
Suy niệm: Tranh luận và tranh chấp về quyền bính là chuyện xảy ra
như cơm bữa trong đời sống con người. Do tranh chấp nên chiến tranh bùng nổ, hận
thù có cơ hội được khơi lên. Nếu con người, cách riêng các nhà lãnh đạo, ý thức
quyền bính là để phục vụ, để xây dựng cộng đoàn, xã hội, chắc chắn thế giới sẽ
có một bộ mặt khác, đời sống sẽ êm đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Khi trao chìa khóa
Nước Trời cho Phê-rô, Chúa Giê-su cũng muốn ông sống theo tinh thần đó của Tin
Mừng: “Một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc
22,32). Người ta đã trách Giáo Hội Công Giáo đề cao quyền tháo cởi, quyền chìa
khóa của đức giáo hoàng. Thực ra, trong thành tâm thiện chí và trong ý hướng tốt
lành của các đấng kế vị Thánh Phê-rô, khẩu hiệu “Tôi tớ của mọi tôi tớ” vẫn
luôn là ngọn đuốc soi đường cho các vị giáo hoàng.
Mời Bạn: Khi tin vào giáo hội phẩm trật như Giáo hội Công giáo, bạn không thể
không đứng vào hàng ngũ có trên có dưới, có trước có sau. Điều hệ trọng là chỗ
đứng ấy giúp bạn thực thi lời Chúa dạy về cung cách phục vụ thế nào.
Sống Lời Chúa: Bạn là “thường dân” hãy vui mừng vì Chúa mặc khải Nước Trời cho những
kẻ bé mọn; bạn là người lãnh đạo hãy là người phục vụ: “ai muốn làm đầu
anh em thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt 20,27).
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã đặt các người kế vị thánh Phê-rô để hướng
dẫn Giáo hội. Xin ban cho Đức giáo hoàng chúng con nhiều sinh lực của Thánh Thần,
và “nguyện xin người luôn sống vui yên hàn.” Amen.
(5 phút lời Chúa)
TRÊN TẢNG ĐÁ NÀY (27.8.2017 – Chúa nhật 21 Thường niên, Năm A)
Ước gì mỗi người chúng ta ở lại và yêu mến Hội Thánh, cải tổ và canh tân Hội Thánh bằng việc canh tân chính bản thân mình.
Suy niệm:
Trong cộng đoàn Hội
Thánh,
Simon là khuôn mặt nổi
bật trong nhóm Mười Hai.
Ông thuộc nhóm những môn
đệ đầu tiên theo Ðức Giêsu,
và là một trong ba môn đệ
thân tín nhất.
Ông có mặt lúc Chúa hiển
dung và trong Vườn Dầu.
Ông thường là phát ngôn
viên của cả nhóm (x. Mt 19,27).
Ðức Giêsu phục sinh đã
hiện ra cho ông trước tiên (1Cr 15,5),
và giao cho ông chăn dắt
đoàn chiên của Ngài (Ga 21,15-17).
Simon có bản tính bộc
trực, hăng hái.
Vì quá tin vào sức mình,
ông đã sa ngã, chối Chúa.
Bất chấp những yếu đuối
và giới hạn của Simon,
Ðức Giêsu vẫn chọn ông
đứng đầu nhóm Mười Hai,
và làm nền tảng cho Hội
Thánh của Ngài.
Ngài đặt cho Simon một
tên mới là Phêrô,
tiếng Aram gọi là Kêpha,
nghĩa là Tảng Ðá.
Tên mới này phản ánh sứ
mạng Chúa giao cho ông.
Phêrô được tuyên bố là
người có phúc,
vì ông đã được Cha trên
trời cho biết Ðức Giêsu là ai.
Ông đã tin tưởng đón nhận
mạc khải ấy.
“Thầy là Ðấng Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống.”
Ðó là lời tuyên xưng đức
tin của Phêrô.
Nhưng ông không chỉ tuyên
xưng đức tin của mình,
ông còn tuyên xưng tình
yêu nữa:
“Lạy Thầy, Thầy biết con
yêu mến Thầy.”
Với niềm tin-yêu vào Ðức
Giêsu,
Phêrô sẵn sàng chia sẻ sứ
mạng Mục Tử của Ngài,
sẵn sàng hiến mình vì
đoàn chiên.
Quả thực, Phêrô đã giang
tay chịu chết như Thầy Giêsu,
đã theo Thầy và đến nơi
mình không muốn đến.
Chúng ta ngỡ ngàng trước
sự tin tưởng của Ðức Giêsu.
Ngài cho Phêrô được chia
sẻ trách nhiệm với Ngài.
dù ông chỉ là một ngư phủ
bình thường, ít học.
Chỉ mình Ðức Giêsu mới là
Nền Tảng (x. 1Pr 2,4-5),
nhưng Phêrô cũng được làm
nền cho Hội Thánh.
Chỉ mình Ðức Giêsu nắm
giữ chìa khóa (x. Kh 3,7),
nhưng Phêrô cũng được
trao chìa khóa Nước Trời.
Nếu Phêrô có quyền giáo
huấn,
quyền thánh hoá và quản
trị Hội Thánh,
thì chỉ nhằm mục đích là
phục vụ Dân Chúa.
Hội Thánh đã gặp biết bao
khó khăn trong dòng lịch sử.
Không phải chỉ là những
cuộc bách hại đẫm máu,
mà còn là những chia rẽ,
tranh chấp nội bộ,
những sa sút trầm trọng
vì chạy theo thế gian.
Hôm nay, Hội Thánh cũng
gặp khó khăn không ít,
khi nhiều người bỏ nhà
thờ, bỏ đức tin,
khi ơn gọi giảm sút ở
nhiều nơi,
khi Ðức Thánh Cha bị công
kích?
Ước gì mỗi người chúng ta
ở lại và yêu mến Hội Thánh,
cải tổ và canh tân Hội
Thánh
bằng việc canh tân chính
bản thân mình.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại
sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học
và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu
tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong
manh,
để ai nấy ngất ngây trước
quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự
:
gia đình, sự nghiệp,
người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở
đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên
đường,
hạnh phúc vì biết mình
đang đi sau Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
27 THÁNG TÁM
Ánh Sáng Soi Dẫn Sự
Sống
Của Giáo Hội Hôm
Nay
Bản Báo Cáo Chung Kết
(tài liệu đúc kết kỳ Thượng Hội Đồng bất thường này) diễn tả hùng hồn mối quan
tâm của tập thể các giám mục và nỗ lực chung của toàn thể Giáo Hội nhằm muốn
trân trọng hơn đối với Công Đồng Vatican II. Ở đây chúng ta nhìn các vấn đề của
Giáo Hội hậu Công Đồng với một cái nhìn mới, với một tinh thần nhận định khách
quan và với nhãn giới ưu tư mục vụ. Chúng ta khảo sát kỹ lưỡng tình hình của
mình sau hai mươi năm, với tất cả những thay đổi và những cải thiện quan trọng
đã xảy ra trong đời sống Giáo Hội. Trong cuộc khảo sát này, chúng ta nhìn thấy
cả những khó khăn và những thành công.
Bản Báo Cáo Chung Kết
này – được xem xét kỹ – đã trao cho chúng ta những đề nghị thích hợp để thay đổi
và đã soi sáng cho những vấn đề khẩn cấp trong đời sống của Giáo Hội hiện nay.
Có những nhấn mạnh đặc biệt về tiếng gọi nên thánh phổ quát. Chúng ta thấy rằng
sự nên thánh này phải phát nguồn từ chính đời sống và ơn gọi của Giáo Hội. Trước
hết, nó phải được cắm rễ trong sự đáp trả của Giáo Hội đối với Lời Chúa và đối
với tiếng gọi phổ quát Phúc Aâm hóa bằng việc chia sẻ Tin Mừng. Hết thảy mọi
Kitôhữu đều được mời gọi tiến tới trong tiếng gọi nên thánh khẩn thiết này, được
hướng dẫn bởi quyền giáo huấn của các giám mục và công việc không ngừng của các
nhà thần học của Giáo Hội.
Thứ hai, phụng vụ phải
dẫn chúng ta vào trong một kinh nghiệm đích thực về sự thiêng thánh và thái độ
tôn kính sự hiện diện của Thiên Chúa. Thực tại Giáo Hội trong phụng vụ phải được
diễn tả như một sự hiệp thông với Đức Kitô và Thân Thể mầu nhiệm của Ngài.
Thứ ba, chúng ta nhận
thấy nhu cầu phải đẩy mạnh những lãnh vực được Công Đồng đề cập đến. Chúng ta
nhận thấy cần phải đối thoại và phát triển mối hiệp nhất giữa các Giáo Hội Đông
phương và Tây phương. Chúng ta cần phải lưu tâm đến những đóng góp quan trọng của
các hội đồng giám mục. Chúng ta phải tiếp tục làm cho Giáo Hội liên đới với những
nhu cầu và những vấn đề của con người hiện đại. Chúng ta phải tăng cường sự hiểu
biết và cảm thông đối với các tôn giáo ngoài Kitô giáo và đối với các anh chị
em vô thần. Chúng ta phải luôn luôn thăng tiến quyền lợi của người nghèo và những
người bị áp bức, và bảo vệ nhân phẩm của mọi con người bằng cách tuân thủ các
giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Công Đồng Vatican II là di sản của chúng ta, di
sản của Giáo Hội.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 27- 8
Chúa Nhật XXI Thường niên
Is 22, 19-23; Rm 11, 33-36; Mt 16, 13-20.
Lời suy niệm: “Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê. Người hỏi các môn đệ rằng: Người ta nói Con Người là ai?”
Sau bao ngày các môn đệ của Chúa Giêsu, đã nghe những lời mạc khải về Nước Trời, đã nhìn thấy những việc Người làm, đã được ở cùng Người; đã được Người sai đi. Giờ đây Chúa Giêsu chính thức hỏi các ông về nhận định của đám đông dân chúng. Các ông đã trình thuật về những dư luận của người dân. Chúa Giêsu chưa thỏa mãn, nên Người đã hỏi ngay các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Lạy Chúa Giêsu. Ngay hôm nay Chúa cũng đang hỏi chúng con: “Thầy là ai?”. Xin cho chúng con ơn yêu thích và ham mê học hỏi giáo lý và suy niệm Lời Chúa, để chúng con mạnh dạn tuyên xưng đức tin của chúng con trước mặt Chúa và người đời.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
27 Tháng Tám
Thánh Monica
(322?-387)
Thánh Monica
(322?-387)
Hoàn cảnh cuộc đời
Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu
nhiều cay đắng và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất
cứ cám dỗ nào. Mặc dù ngài là một Kitô Hữu, cha mẹ ngài đã gả cho một người ngoại
giáo, ông Patricius, là người sống trong cùng tỉnh Tagaste ở Bắc Phi Châu.
Patricius là người tốt nhưng ông vô cùng nóng nẩy và phóng túng. Ngoài ra Thánh
Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng hay gắt gỏng. Ông Patricius thường rầy la
vợ vì bà hay thương người. Nhưng sự cầu nguyện và gương mẫu đời sống của Thánh
Monica sau cùng đã chinh phục được người chồng cũng như mẹ chồng, ngài đã đưa họ
trở về với đức tin Kitô Giáo. Ông Patricius chết năm 371, sau khi rửa tội được
một năm để lại người vợ goá và ba con nhỏ.
Người con cả,
Augustine Hippo, nổi tiếng nhất (sau này là thánh). Vào lúc cha chết, Augustine
mới 17 tuổi và là sinh viên trường hùng biện ở Carthage. Thánh Monica thật đau
buồn khi thấy con mình đi theo tà thuyết Manikê và sống cuộc đời phóng đãng. Có
những lúc Thánh Monica không cho con được ăn ngủ ở trong nhà. Và rồi một đêm
kia, ngài được thị kiến và được đảm bảo là Augustine sẽ trở về với đức tin. Từ
đó trở đi ngài sống gần với con hơn để ăn chay và cầu nguyện cho con. Quả vậy,
ngài ở gần đến nỗi Augustine cũng phải bực mình.
Khi 29 tuổi, Augustine
quyết định đi Rôma để dạy về hùng biện. Một tối kia, Augustine nói với mẹ là
anh ra bến tầu để từ giã bạn bè. Nhưng, anh lại lên tầu đi Rôma. Thánh Monica
thật đau lòng khi biết mình bị lừa, nhưng ngài nhất định đi theo. Vừa đến Rôma
thì ngài lại biết là Augustine đã đi Milan. Mặc dù việc di chuyển khó khăn,
Thánh Monica vẫn nhất định bám sát.
Ở đây, Augustine bị ảnh
hưởng bởi một giám mục, Ðức Ambrôsiô, là vị linh hướng sau này của Thánh
Monica. Augustine chấp nhận mọi lời khuyên của đức giám mục và tập được đức
khiêm tốn đến độ ngài có thể từ bỏ được nhiều tật xấu. Thánh Monica trở thành
người lãnh đạo của nhóm phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi ở Tagaste.
Ngài tiếp tục cầu nguyện
cho Augustine trong những năm anh theo học với đức giám mục. Vào Phục Sinh năm
387, Ðức Ambrôsiô rửa tội cho Augustine và một vài người bạn của anh. Không lâu
sau đó, cả nhóm đi Phi Châu. Lúc ấy, Thánh Monica biết cuộc đời ngài sắp chấm dứt,
ngài nói với Augustine, "Con ơi, không có gì trên trần gian này làm mẹ vui
lòng cả. Mẹ không biết có gì còn phải thi hành và tại sao mẹ lại ở đây, vì mọi
hy vọng của mẹ ở trần gian này đều đã được hoàn tất." Sau đó không lâu
ngài bị bệnh và chịu đau đớn trong chín ngày trước khi từ trần.
Tất cả những gì chúng
ta biết về Thánh Monica là trong tác phẩm Tự Thú của Thánh Augustine.
Lời Bàn
Trong xã hội ngày nay,
mọi thứ đều sẵn sàng, từ mì ăn liền, cà phê uống liền, đến việc tiêu xài liền
(instant-credit) khiến chúng ta không còn kiên nhẫn. Tương tự như thế, chúng ta
cũng muốn lời cầu xin của chúng ta được đáp trả ngay lập tức. Thánh Monica là
gương mẫu của sự kiên nhẫn. Những năm trường cầu nguyện, cộng với đức tính kiên
cường và kỷ luật, sau cùng đã đưa đến sự trở lại của người chồng nóng nẩy, người
mẹ chồng ưa gắt gỏng và người con thông minh nhưng bướng bỉnh, là Augustine.
Lời Trích
Khi Thánh Monica từ Bắc
Phi Châu sang Milan, ngài nghĩ ra những thói quen đạo đức mới cho ngài và cho
những người thời ấy, tỉ như ăn chay ngày thứ Bảy, là điều không phổ thông ở
Milan. Ngài hỏi Thánh Ambrôsiô là nên giữ những thói quen nào. Câu trả lời nổi
tiếng của Thánh Ambrôsiô là: "Khi cha ở đây, cha không giữ chay
ngày thứ Bảy, nhưng khi ở Rôma thì cha sẽ giữ chay; hãy làm theo những phong tục
và huấn thị của Giáo Hội như đã được ban bố đặc biệt cho địa phương mà con đang
sống."
Trích từ NguoiTinHuu.com
27 Tháng Tám
Ăn Cắp Lửa Trời
Thần thoại Hy Lạp có kể lại câu chuyện của thần Prométhée
ăn cắp lửu trời để sáng tạo con người.
Theo óc tưởng tượng của người Hy Lạp, Thiên Triều do thần
Zeus cai trị gồm có hai loại thần: các đại thần và tiểu thần. Tiểu thần là các
vị thần đã bị nhóm các vị thần trung thành với Ngọc Hoàng Zeus đánh đổ... Trong
số các tiểu thần thất sủng ấy, Prométhée là vị thần duy nhất vẫn còn được Ngọc
Hoàng Zeus tín nhiệm nên ban cho quyền tạo dựng con người và súc vật trên mặt đất.
Ngày nọ, Prométhée và em của mình đã thí nghiệm khảt năng
sáng tạo của họ. Họ dùng mọi yếu tố trên trần gian để nhào nặn nên con người...
Thế nhưng, giống người mà họ tạo nên vẫn chết cứng bởi vì còn thiếu lửa. Nhưng
lửa thì chỉ có các vị đại thần trên thiên triều mới nắm giữ. Thế là Prométhée
đã lén đến lò rèn của thần Hephetus để đánh cắp lửa thiêng. Lửa ăn cắp từ thiên
triều đx lan tràn khắp mặt đất làm cho con người được sưởi ấm và hân hoan.
Ngọc Hoàng Zeus đã hay biết mọi chuyện. Ông nổi giận lôi
đình và cho sấm sét đến lay chuyển cả mặt đất... Vì tội ăn cắp lửa trời, nên
Prométhée đã bị Zeus cho trói vào một ngọn núi cao, mỗi ngày diều hâu đến mổ
vào gan của ông.
Huyền thoại Prométhée
trên đây như muốn nói lên sự khao khát vô tận và khả năng khoa học gần như
không giới hạn của con người... Khả năng đó là một thể hiện của chính hình ảnh
Thiên Chúa khắc ghi vào con người... Khả năng sáng tạo đó cũng nói lên phẩm giá
siêu việt của con người... Khả năng sáng tạo đó, Thiên Chúa phú bẩm cho con người
là để phục vụ phẩm giá con người hay để hủy hoại nó? Ðó là câu hỏi đang được đặt
ra cho con người của thời đại chúng ta.
Có nhiều người chủ
trương rằng do tiến hóa, con người bởi loài khỉ mà ra. Ðứng trên phương diện
khoa học thì giả thuyết đó không phải là một điều tưởng tượng... Tuy nhiên, một
thách đố có thể đặt ra cho con người là: liệu có thể có một tiến trình ngược lại
theo đó con người có trở thành khỉ không?
Cách đây không lâu,
ông Chiarelli, một giáo sư nhân chủng học tại đại học Firenze bên Italia đã đề
nghị cho khỉ cái được thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của người nam. Giống
sinh vật do sự lai giống này sinh ra sẽ là một con vật nửa người nửa khỉ. Mục
đích được tạo dựng của giống sinh vật này là để dùng vào các công tác tạp dịch
hoặc để lấy các cơ phận của nó ghép vào các bệnh nhân.
Vấn đề được đặt ra là:
giống sinh vật nửa người nửa khỉ này nếu dùng được ngôn ngữ của con người, nó sẽ
xưng hô thế nào với người cho tinh trùng từ đó nó được thụ thai? Dù muốn dù
không, không ai có thể chối bỏ được phụ tính của người đàn ông cho tinh trùng.
Nói một cách nôm na, giống sinh vật nửa người nửa khỉ này là con của ông, nó có
quyền gọi ông là cha... Vậy thì, có người cha nào muốn dùng con mình vào những
cuộc thử nghiệm không? Có người cha nào muốn biết con của mình thành một con
thú hay không?
Ðặt câu hỏi như thế
không phải là xa vời, bởi vì dưới ánh mặt trời này, khi con người chối bỏ lẫn
nhau, khi con người không còn biết nhìn nhận phẩm giá siêu việt của người khác,
thì chuyện gì xem ra cũng có thể xảy đến... Hitler đã giết hại 6 triệu người Do
Thái, Polpot đã tiêu diệt gần 2 triệu đồng bào ruột thịt của mình. Cả hai đều
xây dựng trên một lý thuyết: con người chỉ là một con vật!
Câu chuyện khoa học
trên đây có quá xa vời với chúng ta không? Dù trong nghiên cứu khoa học, trong
các hoạt động chính trị hay trong các giao tế hằng ngày: vấn đề vẫn giống nhau.
Mỗi khi con người chối bỏ phẩm giá của người khác là lúc con người cũng muốn biến
người đó thành một loài khỉ và dĩ nhiên theo một thứ luận lý rất chặt chẽ, con
người cũng tự nhận mình là khỉ.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét