Học hỏi Phúc âm Chúa nhật lễ Lá năm C - 2025
CÂU HỎI
1. Đọc Lc 22,39-46. Đối với
Đức Giêsu cầu nguyện có khó không? Tại sao khó ? Các môn đệ có cầu nguyện không
? Hậu quả của việc không cầu nguyện là gì?
2. Đọc Lc 22,47-53. Cho thấy
Đức Giêsu là Đấng đầy lòng thương xót khi Ngài bị bắt trong Vườn Dầu.
3. Đọc Lc 22,54-62. Tại
sao khi Chúa Giêsu nhìn Phê-rô thì ông khóc thảm thiết? Theo bạn, ánh mắt ấy có
gì đặc biệt?
4. Đọc Lc 23,1-7. Những lời
tố cáo Đức Giêsu của các nhà lãnh đạo Do-thái giáo trước mặt Philatô có đúng
không?
5. Đọc Lc 23,8-12. Bạn
nghĩ gì về thái độ im lặng của Đức Giêsu trước Hêrôđê? Tại sao Ngài im lặng?
6. Đọc Lc 23,1-25. Philatô
tuyên bố Đức Giêsu vô tội mấy lần? Tại sao Philatô lại không dám tha Đức
Giê-su?
7. Đọc Lc 23,35-43. Cho biết
ba cơn cám dỗ đến với Đức Giêsu trên thánh giá. Bởi đâu Đức Giêsu thắng được ba
cơn cám dỗ này?
8. Đọc Lc 23,39-43. Bạn
nghĩ gì về anh trộm lành?
9. Đọc Lc 23,44-48. Đâu là
những điều xảy ra khi Đức Giêsu sắp lìa đời? Đâu là hoa trái do cái chết của Đức
Giêsu mang lại?
CÂU HỎI SUY NIỆM: Bạn thấy mình giống nhân vật
nào trong bài Thương Khó này? Đâu là những nét giống nhau giữa bạn với nhân vật
đó?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Như đoạn Tin Mừng trên đây
(Lc 22,39-46) cho thấy, có khi cầu nguyện thật là khó với Đức Giêsu. Vì cầu
nguyện giúp Ngài thấy ý của Cha và cũng thấy ý của mình. Chính vì thế giờ cầu
nguyện cũng là giờ chiến đấu gay gắt (Lc 22,44). Có sự giằng co giữa ý Con với
ý Cha (Lc 22,42). Như chúng ta, Đức Giêsu cũng sợ chết khi còn quá trẻ, sợ khổ
đau và nhục nhã. Ngài đã thắng được cám dỗ này bằng cầu nguyện khẩn thiết và cuối
cùng Ngài đã đón nhận ý Cha. Hai lần Ngài kêu mời các môn đệ cầu nguyện để khỏi
sa cơn cám dỗ (Lc 22,40.46). Họ đã không cầu nguyện và đã sa ngã.
2. Khi bị bắt trong Vườn Dầu (Lc
22,47-53), Đức Giêsu tỏ ra khoan dung với nụ hôn phản bội của Giuđa, đã can
ngăn các môn đệ không được dùng gươm gây bạo động, và đã chữa lành tai của người
đầy tớ bị chém. Sau cùng Ngài đã chấp nhận để cho người ta bắt.
3. Phêrô đã chối Thầy ba lần:
hai lần chối việc mình “ở với Thầy,” và chối việc mình thuộc về nhóm môn đệ của
Thầy (các câu 56-60). Khi Thầy Giêsu quay lại nhìn ông thì ông khóc lóc thảm
thiết (câu 62). Có thể có nhiều lý do khiến Phêrô khóc. Ông khóc vì ánh mắt của
Thầy Giêsu làm ông “sực nhớ lời Chúa đã nói với ông,” lời tiên báo ông sẽ chối
Thầy ba lần trước khi gà gáy (Lc 22,34). Ông khóc vì ông biết mình đã chối Thầy
rồi, dù cách đây không lâu, ông đã tự tin và nói mình “sẵn sàng vào tù hay phải
chết với Chúa” (Lc 22,33). Có thể Phêrô khóc vì đọc được nhiều ý nghĩa khác nơi
ánh mắt của Thầy Giêsu: ánh mắt thức tỉnh ông khỏi cơn mê muội, ánh mắt buồn
đau trách móc vì tội của ông, ánh mắt yêu thương tha thứ, ánh mắt cảm thông với
yếu đuối của ông…
4. Lc 23,1-7. Các vị lãnh đạo
Do-thái giáo trong Thượng Hội Đồng đã điệu Đức Giêsu đến với tổng trấn Philatô
và tố cáo Ngài nhiều điều: sách động dân chúng, ngăn cản dân chúng nộp thuế,
xưng mình là đấng Kitô, là vua (Lc 23,2), và xúi dân nổi loạn (Lc 23,5). Nói chung
họ tố cáo Đức Giêsu với tòa án ngoài đời về những tội chính trị. Chắc chắn Đức
Giêsu đã không ngăn cản dân nộp thuế hay kích động dân nổi loạn để tôn mình lên
làm Vua người Do-thái. Ngài không hề là mối đe dọa cho đế chế Rôma. Tuy nhiên,
Ngài có thể đã mặc nhiên nhận mình là Đấng Kitô trước Thượng Hội Đồng (Lc
22,66-71), và đã không trách các môn đệ khi họ tôn Ngài là Vua (Lc 19,37-40).
Quả thật Ngài là Vua (x. Lc 1,32-33) và là Đấng Kitô, nhưng không theo lối hiểu
chính trị (x. Lc 23,35-38). Chính vì thế khi Philatô hỏi : “Ông có phải là Vua
dân Do-thái không?” Ngài không chối, cũng không nhận, mà chỉ trả lời : “Chính
ngài nói đó.”
5. Đức Giêsu đã không trả lời
vua Hêrôđê, cũng không làm phép lạ nào cho vua xem như vua hằng mong ước (Lc
23,8-9). Đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh. Bởi lẽ nếu Ngài chiều ý Hêrôđê, biểu
diễn vài phép lạ nhằm thỏa mãn sự tò mò của ông, ông ta có thể tha Ngài. Nhưng
bây giờ Ngài đã biết ý Cha, và muốn đi đến cùng con đường đau khổ Cha muốn Ngài
đi.
6. Philatô “không tìm thấy lý do
nào nơi người này” để kết tội hay kết án tử hình. Ông tuyên bố Đức Giêsu vô tội
ba lần (Lc 23,4.14.22). Dầu vậy ông không dám tha Đức Giêsu, vì ông chịu áp lực
rất lớn từ dân chúng (Lc 23,5.18.21.23). Vào thời điểm này, rất đông người
Do-thái đổ về Giêrusalem để ăn lễ Vượt Qua, lễ mừng dân Chúa được giải phóng khỏi
Ai-cập. Philatô sợ dân chúng làm loạn nên ông đành chiều theo ý họ.
7. Khi chịu treo trên thánh giá,
Đức Giêsu gặp ba cơn cám dỗ : từ phía các thủ lãnh (Lc 23,35), từ lính tráng
(Lc 23,36-37) và từ một trong hai tên gian phi (Lc 23,39). Cả ba cơn cám dỗ này
đều có lời thách đố: “hãy cứu lấy mình đi” nghĩa là hãy xuống khỏi thập giá đi.
Đức Giêsu đã ở lại trên thập giá vì Ngài biết mình đang làm theo ý Cha.
8. “Anh trộm lành” nhận tội
của mình và chấp nhận hình phạt, đồng thời nhìn nhận Đức Giêsu vô tội (Lc
23,40-41). Anh dám tin người tử tội bị đóng đinh này sẽ là Vua của một Nước, và
anh hy vọng được Ngài nhớ đến khi Ngài vào trong Nước của Ngài (Lc 23,42-43).
9. Đức Giêsu chết trên thánh giá
lúc 3 giờ chiều, giữa bóng tối vây phủ. Ngài chết với lời phó thác cho Cha trên
môi. Hoa trái đầu tiên là lời tuyên xưng đức tin của viên đại đội trưởng và sự
ăn năn của dân chúng (Lc 23,47-48).
Lm. An-tôn Nguyễn Cao Siêu S.J.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét