Trang

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2015

13-09-2015 : (phần I) CHÚA NHẬT XXIV MÙA THƯỜNG NIÊN năm B

13/09/2015
Chúa Nhật 24 Quanh Năm Năm B
(phần I)


Bài Ðọc I: Is 50, 5-9a
"Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Thiên Chúa đã mở tai tôi mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi.
Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Ðấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 114, 1-2. 3-4. 5-6. 8-9
Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (c. 9).
Xướng: 1) Tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi cầu khẩn, vì Chúa đã lắng tai nghe lời tôi, trong ngày tôi kêu cầu Chúa. - Ðáp.
2) Thừng chão tử thần đã quấn lấy tôi, và màng lưới âm phủ đã chụp trên người tôi; tôi đã rơi vào cảnh lo âu khốn khó. Và tôi đã kêu cầu danh Chúa: "Ôi lạy Chúa, xin cứu vớt mạng sống con!" - Ðáp.
3) Chúa nhân từ và công minh, và Thiên Chúa của chúng ta rất từ bi. Chúa gìn giữ những người chất phác; tôi đau khổ và Người đã cứu thoát tôi. - Ðáp.
4) Bởi người đã cứu tôi khỏi tử thần, cho mắt tôi khỏi rơi lệ và chân tôi không quỵ ngã. Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Gc 2, 14-18
"Ðức tin không có việc làm là đức tin chết".
Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, nếu ai nói mình có đức tin, mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Ðức tin như thế có thể cứu được nó ư? Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: "Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm", mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?
Về đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm, là đức tin chết tận gốc rễ. Nhưng có người sẽ nói: "Anh, anh có đức tin; còn tôi, tôi có việc làm". Anh hãy tỏ cho tôi thấy đức tin không việc làm của anh, và tôi sẽ lấy việc làm mà chỉ cho anh thấy đức tin của tôi.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 8, 27-35
"Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Ðấng Kitô". Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả.
Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người".
Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Ðức Tin Có Việc Làm
Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy Ðức Yêsu chữa lành một người điếc và câm, để thực hiện lời Ysaia loan báo rằng đến thời cứu độ kẻ điếc sẽ nghe thấy và kẻ câm sẽ nói được. Hơn nữa phép lạ chữa lành kia còn ám chỉ muốn được ơn cứu độ người ta phải mở tai đón nhận Lời Chúa và phát biểu lời này ra trong đời sống.
Bài đọc I hôm nay nói ngay đến người tôi tớ sáng láng lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, không sợ gian lao khổ sở. Như vậy, giáo huấn của Hội Thánh trong ngày Chúa nhật hôm nay dường như muốn tiếp nối các bài học của Chúa nhật trước, và sẽ dạy sâu hơn về đời sống của các tôi tớ Chúa. Mà cách tốt nhất để làm công việc này là hay giương cao hình ảnh Người Tôi Tớ lý tưởng lên, để tất cả chúng ta cùng bắt chước. Thế nên Chúa nhật này thật đáng gọi là "Chúa nhật người tôi tớ".
Chúng ta sẽ xem hình ảnh người tôi tớ này ở trong Cựu Ước, rồi Tân Ước, trước khi kết luận chúng ta phải sống thế nào để trở thành tôi tớ Chúa.

1. Bài Ca Về Người Tôi Tớ
Cựu Ước gọi nhiều người là tôi tớ Chúa. Abraham, Môsê, Ðavít, các tiên tri đều là những tôi tớ xứng đáng. Toàn dân Chúa chọn cũng được gọi là tôi tớ của Người. Nhưng trong sách Ysaia có 4 bài ca được mệnh danh là các bài ca về Người Tôi Tớ. Tác giả không nêu tên người nào: cũng không dứt khoát coi người đó là một cá nhân hay là một tập thể. Ðoạn văn chúng ta nghe hôm nay là đoạn văn thứ ba.
Nó bắt đầu bằng những nét tả chính xác về người tôi tớ. Ðó là con người có đôi tai "môn đệ". Sáng sáng chú tâm nghe lời Chúa. Rồi ông quyết tâm đem ra thực hành, không sợ gì nguy khó. Phần lớn bài ca hôm nay nói đến những khổ đau mà ông phải chịu vì trung thành giữ Lời Chúa và nói Lời Chúa. Ông bị người ta đánh đập, giựt râu và khạc nhổ vào mặt. Khổ đau dường như cứ tăng dần. Nhưng ông vẫn giơ mặt ra cứng như đá và không hổ thẹn vì ông tin có Chúa hằng nâng đỡ ông.
Tác giả Ysaia muốn nói về ai đây? Dường như không phải về dân Chúa vì lời văn có vẻ chỉ hợp cho một cá nhân. Hơn nữa văn mạch cho phép nghĩ ở đây dân Chúa đóng vai trò hành hạ người tôi tớ thì đúng hơn. Nghĩa là đoạn văn này nói đến một người tôi tớ Chúa bị chính dân Chúa hành hạ. Người ấy là ai? Một người công chính vô danh bị đời bạc đãi? Hay lại là một trong số nhiều tiên tri đã bị đồng bào của mình hất hủi? Nhiều người đã nghĩ đến Yêrêmia, vì nhà tiên tri này quả thật đã bị bắt bớ. Tuy nhiên có lý do khiến chúng ta suy luận và khẳng định người tôi tớ được nói ở đây, không phải là một nhân vật đã sống trong quá khứ, hay đang lúc hiện tại cùng thời với tác giả bài ca này. Người ấy sẽ là một vị sẽ đến trong tương lai, bởi vì các bài ca về Người Tôi Tớ nằm trong khâu các lời sấm an ủi Israel, tức là đưa về hậu vận và nói đến thời Thiên Chúa sẽ ra tay cứu độ dân. Người tôi tớ chính là công cụ mà Người sẽ dùng để làm công việc cứu thế này. Do đó bài ca hôm nay nói về Ðấng cứu thế là Người Tôi Tớ lý tưởng của Thiên Chúa. Và có lẽ tác giả chỉ dựa vào cuộc đời đau khổ của một Yêrêmia để gợi lên hình ảnh Người Tôi Tớ lý tưởng này thôi. Thế nên phụng vụ hôm nay rất có lý khi đọc bài sách Ysaia này trước bài Tin Mừng Marcô hôm nay về việc Ðức Yêsu chịu đau khổ. Chúng ta ghi lấy tư tưởng: Người Tôi Tớ của Chúa phải can đảm đi qua gian khổ, để đi vào bài Tin Mừng.

2. Mạc Khải Về Cuộc Tử Nạn
Thánh Marcô kể: bấy giờ Ðức Yêsu đang đi với các môn đệ ở vùng Caisaria của Philip, tức là miền cực Bắc đất Dothái, nơi bắt nguồn của dòng sông Yorđan sẽ chảy xuống phía Nam. Người ta gọi nơi này là Caisaria của Philip, vì chính Hêrôđê Philip đã xây ở đây một thành mang tên Caisarê, tức là tên của hoàng đế Lamã. Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và mặc nhiên người ta cũng phải nghĩ đến thân phận của mình.
Có lẽ vì vậy mà Ðức Yêsu đã quay sang hỏi các môn đệ: "Theo như người ta nói, thì Ta là ai?". Họ không ngần ngại trả lời, vì dư luận về Người kể ra đã khá rõ rệt. Ai ai cũng nghĩ Người là bậc xuất chúng, ít nhất cũng như Yoan Tẩy giả, hoặc như Êlia, hay một vị tiên tri nào đó. Còn đối với chính họ thì sao? Họ là môn đệ của Người, luôn ở với Người và được Người chăm sóc. Họ phải có một cái nhìn về Người hơn những người khác. Thế nên Phêrô đã thay mặt anh em thưa Người rằng: "Ngài là Ðức Kitô".
Không thể có lời tuyên xưng nào đúng hơn nữa. Ðó là lời tuyên xưng của Hội Thánh sau khi tin mầu nhiệm phục sinh đã đưa Người lên làm Chúa. Phêrô hôm ấy nói được như vậy là nhờ ở Thánh Thần hoạt động trong lòng trí ông. Ông thốt ra lời rất đúng nhưng vượt quá tầm hiểu biết của ông như nhiều khi các tiên tri phát biểu những lời của Thiên Chúa mà họ chưa quán xuyến được tất cả nội dung phong phú.
Chính vì vậy mà Ðức Yêsu đã lập tức cấm môn đệ lập lại lời Phêrô vừa tuyên xưng. Họ không nên nói những điều họ chưa hiểu biết, kẻo có thể gây ra những sự hiểu lầm. Họ phải đợi đến khi chân tướng của Người đã lộ ra hết rồi hãy tuyên xưng Người bằng tước hiệu đúng hơn hết. Vì "giờ" của Người chưa đến. Người ta còn phải chờ đến giờ đó mới hiểu được Người. Và cái diện quan trọng nhất của Người trong giờ ấy sẽ là cuộc khổ nạn; thế nên hôm nay và từ nay, Người bắt đầu mạc khải cho môn đệ biết khía cạnh quan trọng này.
Người nói với họ: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ... và bị giết đi, và sau ba ngày sẽ sống lại". Người không nói theo kiểu nhìn về tương lai; nhưng coi như đang sống mầu nhiệm tử nạn và phục sinh này. Ðiều đó làm cho các môn đệ khó hiểu, và nhất là không thể chấp nhận được. Có lẽ nào Người lại để các niên trưởng phế thải và giết đi? Thay mặt anh em, Phêrô kéo Người ra và trách Người đã nói như vậy. Vì nhiệt thành, ông đã quá trớn. Là môn đệ, ông phải đi theo, chứ sao lại muốn dẫn đầu Người.
Thế nên Người bảo ông trở về cương vị. Và Người muốn cho tất cả các môn đệ hiểu bài học này, nên Người không nhìn vào một mình Phêrô, nhưng vào hết thảy bọn họ. Người bảo ý tưởng của họ là cảm nghĩ do Satan chứ không theo như ý Chúa. Satan đã có lần cám dỗ Người làm lớn khi bày ra trước mắt Người mọi uy quyền và phú quý của thế gian để xúi Người vồ vập lấy. Nhưng ý của Thiên Chúa Cha lại không phải như vậy. Những bài ca về người tôi tớ lý tưởng đang còn đó... Ðức Kitô sẽ phải chịu đau khổ và bị đóng đinh... và ai muốn theo Người để trở thành môn đệ của Người cũng phải vác lấy thập giá và đi theo Người đang vác thập giá lên Núi Sọ.
Thật ra không phải hết mọi môn đệ đều phải vác những thập giá cụ thể bằng gỗ nặng và phải đi đến những nơi xử hình. Nhưng mọi người, không trừ ai, đều phải từ bỏ mình và sẵn sàng chịu mọi sự khó vì Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay nói rõ như vậy, sau khi khẳng định Ðức Kitô phải đi vào con đường khổ nạn. Nó cho chúng ta thấy các bài ca về Người Tôi Tớ trong sách Ysaia đã muốn nói về ai. Chính Ðức Kitô là Người Tôi Tớ đau khổ này. Và mọi Kitô hữu cũng một phần nào là người tôi tớ ấy... Chúng ta chưa hiểu vì sao lại phải như vậy! Nhưng rõ ràng đó là ý muốn của Thiên Chúa và là kế hoạch cứu thế của Người. Người muốn cứu độ bằng đường thánh giá; ai muốn được ơn cứu độ của Người, phải bằng lòng đi vào con đường ấy. Nhiệm vụ của chúng ta hằng ngày là phải tự hỏi Thiên Chúa muốn cho tôi ngày hôm nay, trong giờ phút này vác thập giá nào đây để tôi được cứu độ và góp phần vào việc cứu thế? Bài thư Yacôbê không muốn trả lời một cách đầy đủ, nhưng cũng khá tổng quát và đồng thời cũng khá cụ thể để giúp chúng ta suy nghĩ và đem ra thực hành.

3. Hãy Liệu Cho Ðức Tin Có Việc Làm
Như lần trước đã nói, điều quan trọng là phải có quan điểm tốt. Vác thập giá đi theo Ðức Kitô không phải là làm việc khó này, chịu sự cực kia; nhưng trước hết là phải có phương hướng và luôn đi theo phương hướng đó. Mà phương hướng của cuộc đời tín hữu đã được quy định ngay từ đầu bởi chính niềm tin mà họ đã lãnh nhận. Ðức tin có những đòi hỏi của nó; nếu không, nó chỉ là một mớ, hay một hệ thống những ý tưởng trừu tượng, chứ không phải là sự sống đức tin Kitô giáo hơn mọi niềm tin khác, khi đưa người ta lại gần Ðức Kitô, sát nhập vào với Người, trở nên chi thể của Người để lãnh được sự sống ở nơi Người, hầu sống ở trong Người và để Người ở nơi mình. Ðức tin ấy là một sự sống. Và như mọi sự sống nó phải sinh hoạt, phải làm ra việc này việc khác... Nếu không, nó đã chết tiệt rồi, như lời thư Yacôbê hôm nay nói.
Như vậy, người có đức tin phải làm những việc của đức tin. Và chính khi làm những việc này, người ta phải vác thập giá và đi theo Chúa.
Tại sao vậy?
Thưa vì đức tin đưa người ta đi vào đường lối cứu thế và là đường lối thương người. Công việc của đức tin trở thành những công việc của đức ái. Thế nên thánh Yacôbê hôm nay cho chúng ta một thí dụ. Có người anh chị em đến với chúng ta, mình thân trần trụi và thiếu thốn lương thực. Nếu chúng ta chỉ bảo người ấy: "Hãy về đi, mặc áo cho ấm và ăn cho no" mà không giúp đỡ người ấy một tí phương tiện nào thì há chẳng phải chúng ta đã biết phương hướng phải giải quyết mà đã không làm hay sao? Và sở dĩ chúng ta đã không muốn làm, chính là vì công việc này sẽ gây phiền lụy cho chúng ta khiến chúng ta phải khổ. Chúng ta đã tránh vác thập giá đi theo Ðức Kitô vậy.
Do đó sẽ không ích gì cho chúng ta và cho ai nếu chúng ta đã hiểu rõ bài sách Ysaia và bài Tin Mừng để biết rằng Người Tôi Tớ Chúa phải chịu đau khổ, mà lại không thi hành lời thư Yacôbê để biến niềm tin của chúng ta vào Sách Thánh và vào Ðức Kitô nên đức tin sống động có việc làm. Và cũng chẳng sẽ ích gì nếu chúng ta chỉ tuyên xưng niềm tin ở đây, trong lúc này, khi đọc Kinh Tin Kính và các kinh lễ, mà không đem các lời đó ra thực hành trong đời sống. Chúng ta muốn là những người tôi tớ thật của Chúa thì hãy làm như Ðức Kitô dạy, là lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, cho dù có gặp khó khăn khổ sở; vì có như vậy mới là Tôi Tớ đau khổ của Chúa.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 24 Thường NiênNăm B
Bài đọc: Isa 50:5-9a; Jas 2:14-18; Mk 8:27-35.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đau khổ là con đường duy nhất dẫn tới vinh quang.

            Cô P đang mang thai và sắp đến ngày sinh nở, mẹ cô đã qua đời để lại cha cô và 3 người em. Cô phải thay mẹ chăm sóc các em; nhất là người em gái còn trẻ mắc chứng bệnh "lupus" hiểm nghèo. Khi gặp một linh mục công giáo đến an ủi, cô rơm rớm nước mắt và thắc mắc: Tại sao một Thiên Chúa có uy quyền làm mọi sự và thương yêu con người, lại bắt cô, em cô, và gia đình cô phải chịu nhiều đau khổ như thế? 
            Các Bài Đọc hôm nay có thể giúp trả lời thắc mắc của cô P: mặc dù Thiên Chúa có uy quyền làm cho mẹ cô P sống và chữa lành em cô khỏi bệnh; nhưng Ngài chọn con đường đau khổ để mọi người trong gia đình cô P được hưởng ơn cứu độ muôn đời. Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaiah tiên báo những gì sẽ xảy ra cho Người Tôi Trung của Thiên Chúa: Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ; nhưng sẽ vượt qua tất cả vì một niềm tin không lay chuyển vào Thiên Chúa. Chính vì những đau khổ Ngài chịu, mà ơn cứu độ được dâng tặng cho mọi người. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê khuyên các tín hữu: đức tin của họ vào Thiên Chúa phải được bày tỏ qua hành động. Nếu họ yêu thương Thiên Chúa, họ cũng phải giúp đỡ tha nhân bằng những hành động cụ thể. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Trong Phúc Âm, khi Phêrô can ngăn Chúa Giêsu đừng chấp nhận con đường đau khổ, Ngài mắng Phêrô: "Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."

 KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 

1/ Bài đọc I: Bài ca thứ ba về Người Tôi Trung của Thiên Chúa

1.1/ Người Tôi Trung phải chịu đau khổ: Tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước những gì sẽ xảy ra cho Đấng Thiên Sai và cho con người. Đấng Thiên Sai là Người Tôi Trung của Thiên Chúa sẽ giải thoát con người bằng cách chịu mọi cực hình và gian khổ: "Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.'' Những điều tiên đoán này đã xảy ra cho Đức Kitô khi Ngài được Thiên Chúa sai xuống trần để chuộc tội cho con người; nhất là trong Cuộc Thương Khó và cái chết đau khổ của Ngài trên Thập Giá.

1.2/ Niềm tin vững mạnh của Người Tôi Trung vào Thiên Chúa: Để vượt qua đau khổ, Người Tôi Trung cần có một niềm tin không lay chuyển vào Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài tới thế gian: "Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên. Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?"
            Trong những phải đương đầu với đau khổ như cô P, không ai có thể giúp cô được, ngoại trừ một mình Thiên Chúa. Ngài để đau khổ xảy ra cho cô, không phải vì Ngài không thương cô hay muốn cô chịu đau khổ cho bỏ ghét; trái lại, Ngài muốn cô và mọi người trong gia đình nhận ra một sự thật: họ không thể sống thiếu tình thương của Thiên Chúa. Trong giai đoạn hiện tại, họ phải chịu gian khổ; nhưng trong tương lai, họ nhận ra tình thương của Thiên Chúa, của cha mẹ, của những thành phần trong gia đình. Những điều này sẽ giúp họ trung thành với Thiên Chúa và với nhau hơn. Hậu quả là họ sẽ cùng nhau đoàn tụ trong Nước Trời.
            Nhưng giả sử nếu những điều này không xảy ra cho gia đình cô P, có thể cô P và những người trong gia đình quá bằng lòng với vật chất thế gian, mà không cần đến Thiên Chúa; điển hình là có vài phần tử trong gia đình cô đã không tham dự thánh lễ hàng tuần nữa! Đây là câu hỏi cho cô P phải suy nghĩ: Nếu mục đích của cuộc đời là được đoàn tụ với Thiên Chúa đời đời trên Thiên Đàng, điều nào đáng cho cô P mong ước hơn: chịu đau khổ tạm thời ở đời này hay chịu đau khổ và xa cách vĩnh viễn ở đời sau?

2/ Bài đọc II: Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết.

2.1/ Ngụy biện của con người: Nhiều con người ngày nay đang đánh lừa chính mình và người khác bằng ngụy thuyết: con người được công chính hóa nhờ đức tin, chứ không nhờ bất cứ việc lành nào con người làm (Rom 3:28, Gal 2:16). Thánh Phaolô quả thực có lý do để nói điều này vì con người được cứu chuộc nhờ giá máu của Đức Kitô; nhưng không phải vì đó, mà con người sẽ được cứu chuộc bằng bất cứ giá nào. Chính thánh Phaolô cũng đưa ra bao điều con người phải thực hành để được cứu độ. Chúng ta có thể liệt kê ít là 3 ví dụ trong Thư Rôma:
            (1) Trong Ngày Phán Xét: "Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm; những ai bền chí làm việc thiện mà tìm vinh quang, danh dự và phúc trường sinh bất tử, thì Thiên Chúa sẽ cho họ được sống đời đời" (Rom 2:6-7).
             (2) Hay nói về việc không được xét đoán, thánh Phaolô dạy: "mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa. Vậy chúng ta đừng xét đoán nhau nữa. Tốt hơn, anh em hãy xét sao để tránh gây cớ cho anh em mình phải vấp hay phải ngã" (Rom 14:12-13).
             (3) Hay nói về việc chuẩn bị cho Ngày Phán Xét, ngài khuyên: "Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương" (Rom 13:12-13).
            Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố thẳng thắn: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7:21). Thánh Giacôbê trong trình thuật hôm nay đưa ra một trường hợp cụ thể: "Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no," nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?"

2.2/ Đức tin phải biểu tỏ bằng hành động: Vấn đề ở chỗ không phải chọn có đức tin hay làm việc lành; nhưng ở chỗ có đức tin và làm việc lành, làm việc lành là dấu biểu tỏ người có đức tin. Vì thế, thánh Giacôbê kết luận: "đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết." Đức tin và làm việc lành như hai mặt của một đồng tiền; đã chọn đồng tiền thì phải làm cả hai. Mỗi người chúng ta đều đã có kinh nghiệm này: chúng ta không tin được những người chỉ yêu bằng môi miệng; nhưng nhìn vào những việc làm của họ, chúng ta có thể nhận ra họ yêu thương chân thành hay không. Hoàn cảnh đau khổ mà gia đình đang chịu sẽ giúp em cô P nhận ra tình thương của Thiên Chúa, của cô P, và của các thành phần trong gia đình. Sự cảm nhận này sẽ giúp em cô P tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và tình yêu của những người trong gia đình; chứ không sống ích kỷ như không có Thiên Chúa và không có ai trong cuộc đời. 

3/ Phúc Âm: Thầy là Đấng Thiên Sai.

3.1/ Phêrô tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: Cuộc Thương Khó đã gần kề, Chúa Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Caesarea Philippi. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Elijah, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." Mỗi ý kiến trên đây đều dựa vào một trong những đặc điểm của Chúa Giêsu như nói năng thẳng thắn như Gioan Tẩy Giả, có uy quyền làm phép lạ như tiên tri Elijah. Nhưng tất cả những ý kiến này không diễn tả đúng nguồn gốc của Chúa Giêsu.
            Người lại hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô." Đấng Kitô có nghĩa là Đấng được xức dầu hay Đấng Thiên Sai mà Cựu Ước thường xuyên đề cập tới. Ngài có nguồn gốc từ Thiên Chúa và được sai tới để giải thoát con người. Trong Marcô, Đức Giêsu thường cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người. Lý do, Ngài muốn họ hiểu biết đúng về Đấng Thiên Sai: Ngài không dùng uy quyền, nhưng chịu đau khổ để giải phóng con người.

3.2/ Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ: Sau lời tuyên xưng của Phêrô vào thiên tính của Chúa Giêsu, Người bắt đầu mặc khải cho các ông biết về cách thức cứu độ mà Đấng Thiên Sai phải trải qua: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại."
            (1) Thiên Chúa muốn dùng đau khổ để cứu độ con người: Dĩ nhiên, Thiên Chúa có uy quyền để cứu độ con người theo cách thức con người mong muốn; nhưng đó không phải là cách thức Ngài mong muốn, mà là qua con đường đau khổ. Nhiều người chất vấn tại sao Thiên Chúa làm như thế? Câu trả lời trước tiên là con người không khôn ngoan hơn Thiên Chúa: khi Thiên Chúa chọn cách nào, đó là cách thức tốt đẹp nhất cho con người. Nếu đầy tớ không thể chất vấn người chủ tại sao phải làm cách này mà không làm cách kia, con người cũng không có quyền chất vấn Thiên Chúa. Thứ hai, theo kinh nghiệm, con người chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa khi họ bị đau khổ; khi con người sung sướng, hạnh phúc, rất ít người nhớ tới và yêu thương Thiên Chúa. Sau cùng, con người yêu thương sâu xa những ai đã hiến mình vì họ; mỗi lần nhìn lên Thập Giá, con người cảm nhận tình thương vô biên Thiên Chúa dành cho họ.
            (2) Con người trốn tránh đau khổ: Phản ứng của Phêrô cũng giống như phản ứng của cô P ở trên, và cũng giống như truyền thống Do-thái tin một Đấng Thiên Sai uy quyền. Họ không chấp nhận một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ. Đó là lý do ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người.
            Nhưng khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phêrô: "Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Lời nói của Chúa Giêsu xác nhận tư tưởng của Thiên Chúa khác xa với tư tưởng của con người: thay vì phải chấp nhận thánh ý của Thiên Chúa; Phêrô muốn Chúa Giêsu làm theo ý của mình. Đó là lý do Chúa mắng ông là Satan, vì Satan luôn cản trở ý định của Thiên Chúa. Đó là lý do Chúa đuổi ông ra đàng sau, vì bổn phận của môn đệ là theo Thầy; chứ không bắt Thầy phải theo mình.
            Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy."
           
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            - Chúng ta không khôn ngoan hơn Thiên Chúa. Hãy chấp nhận những lời dạy dỗ khôn ngoan của Thiên Chúa, cho dù những dạy dỗ này hoàn toàn ngược với ý muốn của chúng ta.
            - Con đường đau khổ là con đường khôn ngoan Thiên Chúa dùng để cứu độ con người. Ngài muốn Con Một Ngài chịu đau khổ để cứu chuộc con người và Ngài cũng muốn dùng đau khổ để con người nhận ra: họ không thể sống thiếu Thiên Chúa và tin vào Đức Kitô.
            - Để trở thành môn đệ Đức Kitô, chúng ta phải từ bỏ ý riêng mình và vác thập giá theo Chúa. Một cuộc sống dễ dãi sẽ làm chúng ta xa lánh Chúa và không đạt được mục đích của cuộc đời. 
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


13/09/15 CHÚA NHẬT TUẦN 24 TN – B
Mc 8,27-35
BỎ MÌNH ĐỂ THEO ĐỨC KI-TÔ
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mc 8,34)
Suy niệm: Đức Ki-tô đòi hỏi các môn đệ theo Ngài phải từ bỏ chính mình. “Bỏ chính mình” có phải tự tử không? Hẳn là không! Các nhà hiền triết, các tôn giáo đều kêu gọi từ bỏ cái tôi kiêu căng, ích kỷ, tham sân si, và thậm chí bỏ cả tiền tài lẫn danh vọng nữa. Thế nhưng sự từ bỏ mà Chúa Giêsu kêu gọi không chỉ để hoàn thiện bản thân. Ngài kêu gọi chúng ta từ bỏ mọi sự là để có thể đi theo Ngài, đi theo con đường thập giá mà Ngài đã đi, để trở nên giống Ngài: sống hiền lành, khiêm nhường, khó nghèo, chịu sỉ nhục, ngược đãi, và chết để cứu chuộc nhân loại là những người Ngài yêu mến. Sự bỏ mình đó không huỷ hoại mà dẫn ta đến một cuộc sống dồi dào hơn: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Mời Bạn: Không tích chứa oán hờn, đố kỵ, tranh chấp, ghen ghét, thù hận… nhưng sống khiêm nhường hiền lành và vị tha chỉ vì bạn yêu Chúa và muốn nên giống Chúa và do đó bạn cũng yêu người khác bằng trái tim của Chúa.
Sống Lời Chúa: Quyết tâm cùng với Chúa Giê-su vác đến cùng thập giá của mình là từ bỏ thói hư tật xấu của mình, là đón nhận những sự khó chịu, trái ý do hoàn cảnh hoặc do người chung quanh gây ra.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ơn can đảm để thật sự từ bỏ những thói hư thật xấu làm chúng con không muốn vác thập giá theo Chúa. Đồng thời xin cho chúng con biết sống khó nghèo, khiêm nhường và hiền lành để phục vụ anh em làm sáng danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Amen.

Anh em bảo Thầy là ai? (13.9.2015 – Chúa nhật 24 Thường niên, Năm B)

Suy Niệm
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Ðức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ
sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14),
sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.
Hôm nay Ðức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi
sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài,
đã cầu nguyện và tham dự các bí tích…
“Còn anh, anh bảo Thầy là ai?”
Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời.
Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.
Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm,
kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Ðức Giêsu.
Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.
Ðời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng
để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Ðức Giêsu.
Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú.
Chúng ta chỉ mon men đến gần,
nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy.
Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.
Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Ðức Giêsu chỉ là bác thợ.
Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.
Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài
để đón nhận một Ðức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.
“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”.
Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.
Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô:
“Thầy là Ðức Kitô”,
và hơn Phêrô: “Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa”
Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi
mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.
Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi,
Ðức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ.
Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.
Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối,
tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?
Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật,
tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?
Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt,
tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
“Người ta bảo Thầy là ai?”
Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Ðức Giêsu.
Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.
Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài.
Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở,
nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.
Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Ðức Giêsu.
Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.
Ðức Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).
Chúng ta ao ước nói: “Ai thấy tôi là thấy Ðức Giêsu”.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng chiến thắng
thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG CHÍN
Chạm Đến Tận Nguồn Sự Sống
Đức Kitô là Đường bởi vì Người là Sự Thật. Chính Người là câu trả lời cuối cùng cho câu hỏi “Thiên Chúa là ai ?” Đây là lời chứng của Tông Đồ Gioan: “Không ai từng xem thấy Thiên Chúa. Nhưng người Con Một của Thiên Chúa, Đấng ở bên cạnh Chúa Cha, đã mạc khải về Ngài. ” (Ga 1,18)
Qua Mầu nhiệm Nhập thể, Đức Giêsu Kitô tỏ bày tình yêu, lòng quan tâm và thương xót của Thiên Chúa hằng sống. Và Người bày tỏ như thế trong tư cách là Con của Đức Maria – là Thiên Chúa làm người – bằng một cách thế mà loài người có thể hiểu được.
Chúng ta đạt đến Thiên Chúa qua sự thật về chính Thiên Chúa và qua sự thật liên quan đến tất cả những gì tồn tại ngoài Thiên Chúa: qua tạo vật, là đại vũ trụ; và qua con người, là tiểu vũ trụ. Chúng ta đạt đến Thiên Chúa qua sự thật được công bố bởi Đức Kitô và qua sự thật là chính Đức Kitô. Chúng ta đạt đến Thiên Chúa nơi Đức Kitô, Đấng không ngừng tuyên bố: “Ta là sự thật”.
Đạt đến Thiên Chúa qua sự thật là Đức Kitô, đó quả thật là đạt đến nguồn mạch của mọi sự sống. Đây là nguồn mạch sự sống vĩnh cửu vốn bắt đầu ngay trên trần gian này trong “sự mịt mù của đức tin”. Chúng ta chịu đựng sự mịt mù này cho đến khi chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa diện đối diện trong ánh sáng vinh hiển của chính Ngài.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 13-9
Chúa Nhật XXIV Thường Niên
Is 50, 5-9a; Gc 2, 14-18; Mc 8, 27-35.

LỜI SUY NIỆM: “Con Người phải chịu đau khô nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại.”
Sau khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, và Người xác nhận lời tuyên xưng của Phêrô là đúng. “Này anh Simôn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy. Đấng ngự trên trời.” (Mt 16,17). Với hạt giống đức tin này. Người không còn úp mở về Người. Người liền công khai loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người. Sự Thương Khó và Phục Sinh của Người, Người hoàn toàn biết trước; và Người tự nguyện hiến mình, để cứu nhân loại thoát khỏi  phải chết đời đời trong tội: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế và kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại.” (Mc 8,31).
Lạy Chúa Giêsu. Cuộc Thương Khó và sự Phục Sinh của Chúa, chỉ vì muốn cứu chúng con khỏi phải chết đời đời. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn suy niệm trong lòng, để nhờ ơn Chúa, chúng con được hoán cải mỗi ngày, sống đẹp lòng Chúa hơn.
Mạnh Phương

Gương Thánh Nhân
NGÀY 13-09 THÁNH GIOAN KIM KHẨU - GIÁM MỤC, TIẾN SĨ HỘI THÁNH. (347 - 407)

Thánh Gioan Kim Khẩu sinh tại Antiôchia nước Syria, năm 347, cha Ngài là một sĩ quan quân đội, đã qua đời ít lâu sau khi Ngài sinh ra. Mẹ Ngài goá bụa vào tuổi đôi mươi đã từ khước tái hôn để dành trọn tình mẫu tử vào việc giáo dục con cái. Vì vậy thánh nhân liên tiếp được hướng dẫn sống đời cầu nguyện thinh lặng. Gioan còn được mẹ ký thác cho Libaniô, nhà hùng biện thời đó, dạy cho thuật ăn nói. Thánh nhân nhanh chóng bắt kịp rồi qua mặt thầy về khoa này. Một ngày kia, khi đọc bài tập của Gioan, Libanio đã phải thốt lên : - "Phúc cho những hoàng đế nào được tán tụng như vậy".
Hai mươi tuổi, Gioan đã biện hộ trứơc tòa án với một tài năng đặc biệt khiến nhiều người thán phục. Gioan một thời gian đã để mình bị lôi cuốn theo nhiệt tình của dân chúng. Nhưng rồi Ngài đã sớm nhận ra mối nguy của danh vọng và dứt khoát giã từ pháp đình để tự hiến cho Thiên Chúa. Sau khi học thánh kinh, Ngài theo thánh Meletô (+381). Giám mục Antiochia, là đấng đã dạy dỗ, rửa tội và phong cho Ngài tác vụ đọc sách.
Năm 374, thánh Gioan ẩn mình trong miền núi Syria, thụ giáo với tư sĩ thánh thiện trong 4 năm. Sau đó Ngài ẩn mình trong một hang đá hai năm để cầu nguyện và học hỏi Kinh thánh. Ngã bệnh vì cuộc sống quá khắc khổ, Ngài trở lại Antiochia và được thánh Melatiô phong chức phó tế năm 318. Năm 386, Ngài thụ phong linh mục và bắt đầu giảng dạy, một phận vụ lúc ấy chỉ do các giám mục phụ trách. Suốt 38 năm, tài lợi khẩu của Ngài thật đăc biệt có sức lôi cuốn cả dân thành Antiochia.
Ngày 26 tháng 2 năm 398, thánh Gioan được tấn phong giám mục thành Constantinople. Ngài mau mắn sửa đổi lại tòa giám mục. Bán của cải, Ngài phân phát cho người nghèo khó và xây dựng một nhà thương, Ngài lo lắng nhổ tận gốc rễ những lạm dụng trong giáo đoàn. Với tất cả sự hùng biện, Ngài công kích những vô kỷ luật xa hoa, ngay tại triều đình. Bà vận động chống lại thánh nhân.
Ngài nói : - "Hãy nói với Hoàng Hậu rằng: Gioan Kim Khẩu chỉ sợ có một điều, không phải lưu đày tù tội, cũng không phải nghèo túng và phải chết đi nữa, mà chỉ sợ phạm tội thôi".
Và Ngài đã bị lưu đày nơi Cucuusus ở Armenia. Đức giám mục tại đó tiếp đón Ngài nồng hậu. Đức giáo hoàng Innocentê I, gởi đặc sứ tới Constantinople triệu tập một công đồng để dàn xếp nội vụ. Nhưng các thành viên bị tống giam và thánh Gioan Kim Khẩu còn bị lưu đầy đi xa hơn nữa. Lúc ấy Ngài đã già nua. Cuối cùng Ngài bị bất tỉnh và được đưa vào nguyện đường thánh Basiliô gần miền Cappadocia. Nơi đây sau khi chịu các phép bí tích cuối cùng,
Ngài qua đời ngày 14 tháng 9 năm 407. Năm 438 xác thánh nhân được long trọng rước về Constantinople. Vị tân hoàng đế và em gái ông đã hối hận vì tội lỗi của cha mẹ họ.
Kim Khẩu có nghĩa là miệng vàng. Tài lợi khẩu và việc rao giảng đã khiến cho thánh nhân xứng đáng mang danh hiệu này. Tên Ngài cũng dính liền với phụng vụ thánh Gioan Kim Khẩu, thịnh hành ở Đông phương.
Tuy nhiên thánh nhân nổi tiếng vì chính con người của Ngài hơn là tài giảng thuyết. Ngài là một khuôn mặt có ảnh hưởng lớn lao và sống động thời đó. Qua các bài giảng của Ngài, chúng ta thấy phản ảnh một con người nhẫn nại và đầy sức sống. Qua các tác phẩm và nhất là qua các thư từ của Ngài, ngày nay chúng ta có được cảm giác sống động thế nào là một con người đầy nhân bản.
(daminhvn.net)

3 Tháng Chín
Bộ Lông Chồn

Tại những khu rừng ở miền Bắc Âu, có một loại chồn rất đẹp. Vào mùa hạ, lông chồn màu nâu nhạt. Nhưng vào mùa đông, lông chồn bỗng đổi màu và mang sắc trắng như tuyết, trừ có đầu và đuôi chồn vẫn giữ nguyên màu đen. Có lẽ do một bản năng kỳ lạ nào đó, những con chồn này giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình rất cẩn thận. Chúng không bao giờ để thân thể dính bụi đất dơ bẩn.
Những người thợ săn Âu châu biết được đặc tính kỳ lạ này. Do đó, thay vì đặt bẫy để bắt chồn, họ đi tìm những khe đá hoặc gốc cây nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường lên. Sau đó, họ thả chó ra để bắt đầu săn đuổi. Những con chồn bị đuổi vội chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị hoen ố, chúng không chịu vào ẩn núp. Chúng đành chịu đương đầu với nguy hiểm và ngay cả sự chết, hơn là để thân thể hóa ra hoen ố...
Ðối với giống chồn đẹp đẽ trên đây, sự trong sạch còn quý hơn cả mạng sống: chúng sẵn sàng chiến đấu và chết hơn là để cho thân thể phải ra hoen ố.
Cuộc sống của người Kitô chúng ta cũng phải như thế. Ðược tái sinh trong Ðức Kitô Phục Sinh, mỗi người Kitô chúng ta được khoác lên chiếc áo trắng tinh tuyền. Chiếc áo trắng ấy, như lời khuyên của Giáo Hội trong ngày chúng ta chịu Phép Rửa, chúng ta phải mang nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước mặt Chúa...
Cuộc sống nào cũng có chiến đấu. Cạm bẫy giăng mắc đầy các lối đi của chúng ta. Người Kitô không vì một chút lợi lộc, một chút an toàn giả hiệu để làm hoen ố chiếc áo tâm hồn của mình.
Lẽ Sống

Nói và làm


Kể từ khi xuất hiện trong cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã trở nên một vấn đề thời sự nóng bỏng, làm cho người ta phải bàn tán xôn xao.
Dân làng Nadarét đã thầm nghĩ: Ngài chẳng phải là con bác phó mộc, Mẹ Ngài và anh em Ngài chẳng phải là những người đang sống giữa chúng ta đó sao? Bởi đâu mà Ngài lại làm được những việc lạ lùng như vậy? Hêrôđê cũng đã thắc mắc: Gioan thì trẫm đã chém đầu, còn người này là ai mà lại thực hiện được những việc kỳ diệu đến thế? Còn dân chúng, người thì bảo Ngài là tiên tri Elia, hay một tiên tri nào đó. Kẻ thì nói Ngài là Gioan Tiền Hô.
Trước những luồng dư luận khác biệt như vậy, Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ phải xác định lập trường của mình, nên đã lên tiếng hỏi: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô thay mặt cho nhóm 12 đã tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Và như thế, Phêrô đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói.
Liền sau đó, Chúa Giêsu tiên báo cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài. Và lần này, Phêrô đã lên tiếng can ngăn và đã bị Chúa quở trách nặng lời: Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì tư tưởng của ngươi chỉ là tư tưởng của loài người, chứ không phải là của Chúa. Và như vậy, mặc dù ông đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói, nhưng rốt cuộc ông đã không tuyên xưng bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.
Với chúng ta cũng vậy, hằng ngày chúng ta vốn thường làm dấu thánh giá, đọc kinh Tín Kính và kinh Sáng Danh, chúng ta tuyên xưng những mầu nhiệm chính trong đạo. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tuyên xưng bằng lời nói mà thôi. Còn việc làm và cuộc sống của chúng ta thì sao? Rất có thể lúc này chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, bằng miệng lưỡi, chứ chưa hề tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống. Bởi vì bản thân chúng ta còn chìm trong tội lỗi, con người chúng ta còn đang chối từ thập giá để chạy theo ý riêng.
Do đó, cần phải kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã tuyên xưng đức tin của mình như thế nào? Để giúp chúng ta trở nên môn đệ của Chúa cũng như tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống, Chúa Giêsu đã đưa ra hai điểm chính yếu:
Điểm thứ nhất, đó là hãy từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ tất cả những tư tưởng, lời nói và việc làm đi ngược với thánh ý Chúa, từ bỏ con người cũ với những tội lỗi để mặc lấy con người mới với tinh thần của Chúa.
Điểm thứ hai đó là hãy vác lấy thập giá mình. Nghĩa là hãy chấp nhận những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải, bởi vì chính những hy sinh gian khổ này, tuy âm thầm và nhỏ bé, sẽ kết thành cây thập giá đời thường, Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét