17/09/2015
Thứ Năm sau Chúa Nhật
24 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 4, 12-16
"Con
hãy thận trọng giữ mình và giữ lấy giáo lý: như thế con sẽ cứu lấy chính mình
con và những kẻ nghe lời con".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con
thân mến, chớ có ai khinh dể con vì con còn trẻ: nhưng con hãy nêu gương sáng
cho các tín hữu, trong lời nói, cách ăn nết ở, trong đức bác ái, đức tin và đức
thanh khiết. Cho tới khi cha đến, con hãy chăm chú đọc sách, khuyên bảo và dạy
giáo lý. Con chớ quên lãng ân sủng trong con, là ơn đã ban cho con bởi lời tiên
tri cùng với việc đặt tay của bậc Lão thành. Con hãy suy ngắm những sự đó, hãy
để tâm đến các việc ấy, để mọi người đều thấy rõ con đã tiến tới. Con hãy thận
trọng giữ mình và giữ lấy giáo lý: hãy kiên trì trong những việc ấy. Vì khi con
làm như vậy, con sẽ cứu lấy chính mình con và những kẻ nghe lời con.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 110, 7-8. 9. 10
Ðáp: Vĩ đại thay
công cuộc của Chúa (c. 2a).
Xướng:
1) Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của người
đều đáng cậy tin. Những giới răn đó được lập ra cho đến muôn ngàn đời, được ban
hành một cách chân thành và đoan chính. - Ðáp.
2)
Chúa đã gởi tặng ơn giải phóng cho dân Người, đã thiết lập lời minh ước tới
muôn đời, danh Người thực là thánh thiện và khả úy! - Ðáp.
3)
Ðầu sự khôn ngoan là tôn sợ Chúa, bao nhiêu người thờ Chúa đều hành động cách
khôn ngoan. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại tới muôn đời. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 118, 135
Alleluia,
alleluia! - Xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những
thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 7, 36-50
"Tội
bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào
nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong
thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một
bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở,
nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy
thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri
thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ:
là một đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi
Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ
nói".
"Một
người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi.
Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó,
người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được
tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng".
Và
quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ?
Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt
rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ
lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này
đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được
tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".
Rồi
Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng
bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?"
Và Người nói với người đàn bà: "Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình
an".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Lòng
Sám Hối
Tin
Mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa; phiên tòa này không có luật sư biện hộ,
không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.
Có
được bình an trong tâm hồn là điều quí giá nhất Chúa Giêsu mang lại cho con người.
Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám
hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Lời đầu tiên
của Ngài khi bắt đầu sứ vụ công khai là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng".
Ngài đến là để khơi dậy lòng sám hối của con người; Ngài đến là để hòa giải tội
nhân với Thiên Chúa. Cái chết của Ngài trên Thập giá không phải là cái chết của
nhà cách mạng hay chính trị gia, mà thiết yếu là để đền bù tội lỗi con người.
Người
phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những
lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bà đã thể hiện một cách
chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Chúa Giêsu đã nói lên ý nghĩa
hành động của người phụ nữ này như sau: "Bà đã được tha nhiều, vì bà đã
yêu mến nhiều". Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi
thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.
Lịch
sử Giáo Hội được tô điểm bằng lòng sám hối thể hiện qua tình mến. Cuộc đời của
bất cứ vị thánh nào cũng đều bắt đầu bằng lòng sám hối, nghĩa là ý thức sâu xa
về tội lỗi của mình. Nhưng sám hối không chỉ là ý thức về tội lỗi của mình. Có
lẽ không ai ý thức được hành động phản bội của mình cho bằng Yuđa, nhưng ý thức
ấy chưa hẳn là sám hối. Phêrô cũng đã chối Thầy, nhưng nơi ngài lòng sám hối
không chỉ dừng lại ở ý thức tội lỗi, nhưng đã biến thành tình yêu thương; Phêrô
đã nói lên lòng sám hối bằng ba lần thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa biết
con yêu mến Chúa".
Người
ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức
tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về
tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa,
và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ
khoan nhượng của con người chỉ xuất phát từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ
mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối:
càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để
tha thứ và yêu thương.
Nguyện
xin Chúa nung nấu tâm tình sám hối đích thực nơi chúng ta và ban cho chúng ta
niềm an bình nội tâm, để chúng ta cũng biết chia sẻ niềm an bình ấy với mọi người
bằng cảm thông, tha thứ, và những thể hiện của bác ái.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Năm Tuần 24 TN1
Bài
đọc:
I Tim 4:12-16; Lk 7:36-50
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy
biết sống xứng đáng với ơn gọi của mình.
Trong
Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên Timothy hãy sống xứng đáng với ơn gọi làm
Giám-quản mà Thiên Chúa và Hội-thánh đã trao phó: phải làm cho mọi người tin cậy
mình trong lời nói cũng như trong hành động; xây dựng mọi sự trên nền tảng Lời
Chúa; và luôn ý thức về sứ vụ mình phải chu toàn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cư
xử như một người Mục Tử Nhân Lành: Ngài tha thứ và ban bình an cho chị phụ nữ nổi
tiếng tội lỗi, và kiên nhẫn sửa sai người Biệt-phái chỉ biết xét đoán cách hời
hợt bên ngoài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Các đức tính quan trọng của nhà lãnh đạo Công Giáo
1.1/
Nhà lãnh đạo là người chín chắn: Khi chọn nhà lãnh đạo, con người có khuynh hướng chọn
những người lớn tuổi, đã chín chắn, và có nhiều kinh nghiệm. Trường hợp của
Timothy là trường hợp ngoại lệ: làm Giám-quản khi tuổi vẫn còn trẻ. Vì thế,
Phaolô khuyên: "Chớ gì đừng có ai coi thường anh vì anh còn trẻ." Để
tránh bị khinh thường, Timothy cần tập luyện để trở thành người đáng tin cậy
trong:
(1)
Lời nói: Phải biết cẩn thận trong lời nói và làm sao để các tín hữu tin những
gì mình nói. Cần tránh nói một đàng làm một nẻo; đừng vội hứa, khi đã hứa phải
giữ lời; đừng nói những chuyện nhảm nhí, tục tĩu, vô bổ. Nói có sách, mách có
chứng; đừng nói mà không có bằng chứng kèm theo. Nói tóm, phải nói sự thật.
(2)
Cách cư xử: Phải biết cách cư xử đúng với mọi người: kính trên, nhường dưới; cẩn
thận trong việc tiếp xúc với phụ nữ.
(3)
Đức ái, đức tin và lòng trong sạch: Yêu thương mọi người; trung thành trong ơn
gọi và các mối liên hệ; và có tâm hồn trong sạch.
1.2/
Xây dựng cá nhân và cộng đoàn trên Lời Chúa: Mỗi khoa học hay nghề nghiệp đều
có một lãnh vực để chuyên chăm và đào sâu, lãnh vực của nhà lãnh đạo Công Giáo
là Kinh Thánh.
(1)
Phải chú trọng đến việc học hỏi Kinh Thánh: Không biết Kinh Thánh là không biết
Thiên Chúa (St. Jerome). Nếu không biết Thiên Chúa, làm sao nói về Thiên Chúa
cho các tín hữu của mình? Khi không am tường Kinh Thánh, nhà rao giảng có
khuynh hướng rao giảng những gì mình biết mà chẳng có liên hệ gì đến Lời Chúa.
(2)
Hiểu biết Kinh Thánh để dạy dỗ: Khi rao giảng, nhà lãnh đạo phải rao giảng Lời
Chúa, chứ không rao giảng lời của mình hay của người nào khác. Phải dành địa vị
ưu việt cho Lời Chúa, vì chỉ có Lời Chúa có uy quyền để giải thoát con người.
(3)
Dùng Kinh Thánh để khuyên nhủ: Nhà lãnh đạo Công Giáo không phải là nhà tâm lý
hay nhà xã hội, mặc dù những lãnh vực này giúp trong việc khuyên nhủ; nhưng trước
tiên nhà lãnh đạo phải dùng lời khôn ngoan của Thiên Chúa qua Kinh Thánh để
giúp giải quyết vấn đề.
1.3/
Ý thức ơn gọi của mình: Một
sự xét mình thường xuyên sẽ giúp nhà lãnh đạo biết:
(1)
Mình đã được thánh hiến: "Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng
Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên
anh." Phải chú trọng đến việc thánh hiến mình trước khi có thể thánh hiến
người khác.
(2)
Phải nhiệt thành với ơn gọi của mình: "Anh hãy tha thiết với những điều
đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh.'' Cần phải
thường xuyên xét mình để xem mình có còn sự nhiệt thành thuở ban đầu không, vì
thời gian và nhiều va chạm dễ làm phai lạt sự nhiệt thành của nhà lãnh đạo.
(3)
Phải làm gương sáng và chu toàn nhiệm vụ: "Anh hãy thận trọng trong cách
ăn nết ở và trong lời giảng dạy. Hãy kiên trì trong việc đó. Vì làm như vậy,
anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu được những người nghe anh giảng dạy."
Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn. Cuộc sống chứng nhân là dấu chỉ hùng hồn
để nhà lãnh đạo làm chứng cho Thiên Chúa.
2/
Phúc Âm:
Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.
2.1/
Hai phản ứng khác nhau: Trình
thuật hôm nay là một ngoại lệ trong mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và những người
Biệt-phái. Thường thường, chúng ta thấy luôn có sự đụng độ giữa Chúa Giêsu và họ;
nhưng hôm nay, có người thuộc nhóm Biệt-phái mời Đức Giêsu dùng bữa với mình.
Tuy nhiên, chân tướng họ dần dần lộ ra, và kết quả cũng chẳng khác gì những lần
khác.
(1)
Phản ứng chân thành của người phụ nữ tội lỗi: Trình thuật kể: "Có một phụ
nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông
Biệt-phái, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau,
sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình
mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên." Có nhiều điều khác
thường trong cách cư xử của người phụ nữ: Thông thường, người ta chỉ rửa chân bằng
nước và lau bằng khăn, chị rửa chân Chúa bằng nước mắt và lau bằng tóc; người
ta tỏ dấu tình yêu bằng hôn má, chị tỏ bằng hôn chân như Chúa Giêsu hôn chân
các môn đệ; người ta chỉ nhỏ vài giọt dầu thơm, chị dùng cả một bình bạch ngọc.
Tất cả những điều này có ý muốn nói lên lòng ăn năn chân thành, sự can đảm, và
tình yêu thâm sâu của chị dành cho Chúa Giêsu.
(2)
Phản ứng của người Biệt-phái: Thấy vậy, ông Biệt-phái đã mời Chúa Giêsu liền
nghĩ: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà
đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!" Ông không
nhìn thấy tình yêu và lòng ăn năn thống hối trong tâm hồn người phụ nữ; nhưng
chỉ nhìn thấy quá khứ tội lỗi và thái độ bất cẩn của Chúa Giêsu, để sẵn sàng kết
án.
2.2/
Phản ứng của Chúa Giêsu: Biết
những gì ông đang nghĩ, Chúa Giêsu vẫn kiên nhẫn tìm cách thuyết phục ông, bằng
cách trước tiên đưa ra nguyên tắc ông phải chấp nhận, sau đó chỉ cho ông thấy sự
kết án sai trái của mình.
(1)
Đưa ra nguyên tắc: Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ về hai con nợ: "Một chủ nợ
kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ
không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người
đó, ai mến chủ nợ hơn?" Ông Simon đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã
được tha nhiều hơn." Đức Giêsu bảo: "Ông xét đúng lắm."
(2)
Áp dụng vào thực tế: Người nói với ông Simon: "Ông thấy người phụ nữ này
chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy
nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một
cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ôliu, ông cũng
không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế,
tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị
đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít."
(3)
Chúa tha tội cho người phụ nữ: Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Tội của chị
đã được tha rồi." Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông
này là ai mà lại tha được tội?" Nhưng Đức Giêsu nói với người phụ nữ:
"Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Là những nhà lãnh đạo tinh thần, chúng ta hãy chứng tỏ cho mọi người thấy mình
biết sống khôn ngoan, nhân đức, và trung thành hoàn tất sứ vụ được trao phó bởi
Thiên Chúa.
-
Đừng giam tha nhân trong quá khứ tội lỗi để kết án họ; nhưng hãy cho tha nhân một
cơ hội để ăn năn trở về, như Thiên Chúa đã cho chúng ta.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
17/09/15 THỨ NĂM TUẦN 24 TN
Th. Rô-be-tô Ben-la-mi-nô, giám mục, tiến sĩ
HT Lc 7,36-50
YÊU THƯƠNG, CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN THA THỨ
“Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ
là chị đã yêu mến nhiều.” (Lc 7,47)
Suy niệm: “Nhân vô
thập toàn:” mang thân phận con người, ai lại không yếu đuối lỗi lầm! Yếu đuối
lỗi lầm, ai là không cần được tha thứ, nhất là sự tha thứ của Thiên Chúa! Thật
vậy, sống trên đời, mỗi người đều cần được tha thứ; nhưng cùng một trật cũng
cần biết thứ tha. Song, tha thứ là một điều dễ nói nhưng thật khó
làm, bởi vì muốn tha thứ phải yêu thương. Thiên Chúa luôn sẵn
sàng tha thứ cho con người vì Ngài yêu thương, vì Ngài là Tình Yêu. Ngược lại
con người chỉ nhận được ơn tha thứ khi cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa và sẵn
sàng hoán cải. Và một khi biết mình được tha thứ thì lại yêu mến nhiều hơn. Đó
chính là cảm nghiệm của người phụ nữ được ơn tha thứ hôm nay: “Tội của
chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.” Quả
thật, yêu thương chính là đường dẫn đến tha thứ. Và để có thể tha
thứ cho nhau thật sự, con người phải bước đi trên con đường Chúa đã dạy, đó là
con đường yêu thương.
Mời Bạn: Mở lòng
mình ra để bước đi trên con đường yêu thương: yêu Chúa và yêu tha nhân, hầu
chúng ta có thể thật sự tha thứ cho người khác và được người khác thật lòng thứ
tha cho chúng ta. Để nhờ đó, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương tha thứ hết
mọi lỗi lầm.
Chia sẻ một cảm nghiệm tha thứ và được tha thứ.
Sống Lời Chúa: Hôm nay,
với lòng yêu mến Chúa, tôi quyết tâm tha thứ cho những người xúc phạm đến tôi.
Cầu nguyện: Lạy Cha, xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ
có nợ chúng con.
Chị hãy đi bình an
Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người
ta khép lại và vô ơn. Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu
cho cuộc sống mới, can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn.
Suy niệm:
Chỉ Luca mới nói đến chuyện
các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa.
Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba
lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).
Họ còn báo cho ngài biết về
việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).
Xem ra không phải mọi người
Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.
Hôm nay Đức Giêsu là khách
mời của ông Simon.
Ngài chẳng ngại đáp lại lời
mời của một người thuộc phái Pharisêu,
cũng như ngài đã chẳng sợ
làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).
Khi ăn tiệc lớn ở xứ
Palestine thời đó,
các vị khách thường ngả
người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,
chân đưa ra ngoài, tay trái
dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.
Khi nhà có đại tiệc, người
ngoài được tự do ra vào.
Bất ngờ có một phụ nữ mạnh
dạn bước vào phòng tiệc.
Người ta nhận ra chị là một
người tội lỗi sống trong thành phố,
nhưng không chắc chị có phải
là một cô gái điếm không.
Chị cố ý đến đây vì biết Đức
Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.
Đây là người mà chị đã từng
gặp và đã nhận được ơn tha thứ.
Chị đã chuẩn bị khá kỹ và
biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.
Chị đem theo một bình bạch
ngọc đựng dầu thơm (c. 37).
Đứng ở gần chân Đức Giêsu,
chị bật khóc nức nở.
Nước mắt chị làm ướt chân
Ngài.
Những giọt nước mắt ăn năn
vì tội lỗi quá khứ,
hay vui sướng vì biết mình
đã đựoc thứ tha ?
Sau đó chị cởi khăn choàng
đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.
Cuối cùng, chị còn hôn lên
chân và xức dầu thơm nữa.
Nói chung, những cử chỉ táo
bạo của chị thật hết sức chướng mắt
đối với những người dự tiệc
trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy !).
Xõa tóc trước công chúng là
điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,
vuốt ve và hôn chân một
người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.
Hơn nữa, chị lại là một
người tội lỗi có tiếng trong thành.
Một con người nhơ uế như chị
khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.
Chúng ta không ngạc nhiên
khi thấy ông Simon nghĩ thầm:
“Nếu quả thật ông này là
ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết
người phụ nữ đang đụng vào
mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”
Đức Giêsu có biết không? Nếu
không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.
Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài
lại cứ để chị làm như vậy,
thì còn gì là danh dự của
ông Simon và của chính Ngài nữa!
Đức Giêsu biết chị là ai,
biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).
Ngài không phản ứng gì vì
ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.
Đó không phải là cử chỉ khêu
gợi của một cô gái làng chơi,
nhưng là những hành vi diễn
tả lòng biết ơn của người được tha thứ.
Đức Giêsu hiểu những giọt
nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc.
Ngài hiểu cả những cử chỉ có
vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:
rửa chân bằng nước mắt, lau
chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.
Ngài đọc thấy trong đó lòng
trân trọng và biết ơn.
Đó là sự trào dâng không thể
cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.
Tuyệt đối không có chút nhơ
uế nào nơi những cử chỉ ấy.
Và Đức Giêsu đã đón nhận tất
cả với trái tim thanh khiết của mình.
Để soi sáng cho ông Simon
hiểu về hành động của người phụ nữ,
Đức Giêsu kể cho ông nghe
một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)
Hai người cùng mắc nợ, một
người 500 quan tiền, một người 50.
cả hai cùng được chủ nợ tha
vì họ không có gì để trả.
“Vậy trong hai người đó, ai
sẽ yêu mến chủ nợ hơn ?”
Câu hỏi chẳng có gì khó đối
với Simon và ông đã trả lời đúng.
Ta nên lưu ý: yêu
mến ở đây có nghĩa là biết ơn.
Tự nhiên người được tha
nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.
Dụ ngôn đơn giản của Đức
Giêsu được áp dụng vào thực tế.
Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu
mến Đức Giêsu hơn ông Simon.
Đức Giêsu làm một so sánh
giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).
Simon đã chẳng cho Ngài nước
để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.
Dĩ nhiên đó chẳng phải là
những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,
nhưng dù sao cách tiếp khách
của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.
Câu 47 là một câu quan trọng
để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này.
Câu này trước đây thường
được dịch như sau:
“Tội của chị ấy tuy nhiều,
nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì yêu
mến ít,”
Dịch như thế dễ gây hiểu lầm
rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.
Thật ra phải hiểu ngược lại
mới đúng.
Chính vì chị được tha nhiều nên chị
mới yêu mến biết ơn nhiều.
Lòng yêu mến là kết quả, chứ
không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.
Lòng biết ơn đến sau khi
nhận ơn.
Hiểu như thế sẽ hợp với ý
nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42),
và hợp với vế sau của câu
47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.
Chẳng rõ ông Simon có nhận
ra mình là ai chưa.
Ông đúng là người yêu ít hơn
chị phụ nữ tội lỗi kia,
vì ông được tha ít hơn, vì
ông có ít tội hơn !!!
Nhưng có thật ông ít tội hơn
người phụ nữ tội lỗi này không?
Hay vì tự hào mà ông không
thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?
Tự hào về đạo đức vẫn là một
vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.
Người phụ nữ tội lỗi là
người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).
Tội quá khứ, khi được tha,
lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.
Những vấp ngã khi được chữa
lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,
can đảm hơn, quảng đại hơn
và nồng cháy hơn.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay
lại nói chuyện với người phụ nữ.
Ngài khẳng định lại ơn
mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:
“Tội của chị đã được tha
rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.
Như thế Đức Giêsu không phải
chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.
Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ
nữa khi dám tha tội cho chị.
Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca
ngợi lòng tin của chị.
Lòng tin thắm đượm tình yêu,
hay tình yêu thắm đượm lòng tin.
Cả hai quyện vào nhau giúp
chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:
“Lòng tin của
chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).
Chúng ta có thể học được
nhiều điều nơi người phụ nữ:
lòng tin mãnh liệt vào sự
tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,
Chúng ta cũng cảm nghiệm
được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Sức mạnh ấy có thể làm mới
lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,
và dạy chị biết yêu như yêu
lần đầu.
Chẳng rõ ông Simon có học
được điều gì từ biến cố này không?
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện :
Xin tận diệt, tận diệt trong
tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc
đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ
người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước
ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên
khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý
Người muốn.
R. Tagore
(Đỗ Khánh Hoan dịch)
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng Chín
17
THÁNG CHÍN
Thánh
Thần, Đấng Dẫn Dắt Chúng Ta
Hội
Thánh, được sinh ra từ Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô, vẫn không ngừng
được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. “Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha sẽ sai đến
nhân danh Thầy, sẽ dạy cho anh em mọi sự và làm cho anh em nhớ lại tất cả mọi
điều [Thầy] đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Hội
Thánh trên trần gian vẫn không ngừng được dẫn dắt bởi Thánh Thần của Đức Kitô
Phục Sinh để đào sâu chính chân lý mà Hội Thánh đã nhận lãnh trực tiếp từ môi
miệng của Thầy. Trải qua bao thế kỷ, Hội Thánh đã thấu hiểu hơn chân lý ấy nhờ
sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Đó là con đừơng giúp Hội Thánh ngày càng nhận
hiểu Đức Kitô nhiều hơn. Sự hiểu biết có sức cứu độ này đã thật sự được sở đắc
bởi Hội Thánh khải hoàn, là “Giêrusalem trên trời” (Gl 4,26). Chúa Thánh Thần
khích lệ Hội Thánh tại thế bằng viễn cảnh huy hoàng của Hội Thánh vinh quang.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời
Chúa Trong Gia Đình
Ngày
17-9
Thánh
Rôbertô Bellarminô, giám mục tiến sĩ Hội Thánh
1Tm 4, 12-16; Lc 7, 36-50
LỜI
SUY NIỆM: Trong câu chuyện “Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến
Chúa nhiều” Cho chúng ta thấy được hai hình ảnh của hai con người khi được
gần Chúa Giêsu. Một người tự cho mình là công chính, là bậc thầy trong
dân, ông ta gần Chúa mà lại không cần đến Chúa. Ông ta mời Chúa vào nhà mình dự
tiệc để làm tăng uy tín của mình mà thôi. Còn người phụ nữ được Chúa Thương xót
và tha thứ hết mọi tội lỗi; giờ bà ta ngồi bên Chúa để tỏ lòng thống hối và thể
hiện lòng quý mến Chúa đã cho bà một sự sống mới. Sống trên đời không ai là
không có tội, dù nặng hay nhẹ, cũng cần được tha thứ. Muốn được tha thứ phải
đên với Chúa. Chỉ có Chúa mới có quyền năng tha thứ.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
NGÀY 17-09 THÁNH
RÔBERTÔ BELLARMINÔ (1452 - 1621)
Thánh
Rôbertô Bellarminô sinh ngày 4 tháng 10 năm 1452 tại Montepulcianô. Cha Ngài là
Vinconzo Bellarminô. Mẹ Ngài là Cynthia Cervini. Em Đức giáo hoàng Marcellô II.
Ngay khi còn là một học sinh tại trường các cha dòng Tên. Ngài đã tỏ ra thông
minh đặc biệt. Cha Ngài đã định cho Ngài theo học y khoa. Dầu vậy năm 1560,
Ngài xin gia nhập dòng Tên và đã được cha mẹ ưng thuận.
Theo
học triết tại Roma, Ngài đã tỏ ra là một học sinh nổi bật. Từ Roma Ngài đã được
gởi đi dạy học trong các trường của dòng Tên trong 4 năm tại Florence và
Modevi. Lúc này Ngài đã thông thạo tiếng Hy lạp và được chỉ định dạy cho các bạn
cùng lớp. Dầu chưa làm linh mục, Ngài thường được mời đi giảng và được coi như
là nhà giảng thuyết từ bẩm sinh. Ngài học thần học trước hết ở Padua, rồi sau ở
Louvain và thụ phong linh mục tại đây năm 1570. Các bài giảng của Ngài tại
Louvain mang lại thành công đăc biệt. Anh em Tin Lành tại Anh cũng tìm đến nghe
Ngài và nhiều người đã trở lại. Với dáng nhỏ bé, Ngài thường đứng trên ghế đẩu
từ bục giảng.
Là
giáo sư thần học tại Louvain, Ngài rất mộ mến các tác phẩn của thánh Tôma.
Trong các bài diễn thuyết, Ngài đã chống lại một cách hữu hiệu nhưng đầy tình
thương với các giáo thuyết khơi nguồn cho thuyết Giansenisme sau này. Thánh
Robertô cũng thúc đẩy các sinh viên học tiếng Do thái và đã soạn cho họ một cuốn
văn phạm ngắn gọn. Ngài đọc nhiều về các giáo phụ và các văn sĩ khác trong Giáo
hội, một nỗ lực còn ghi lại trong tác phẩm "về các văn sĩ trong Giáo hội"
(xb năm 1623).
Sau
thời kỳ ở Louvain, Ngài được trao phó thi hành một công việc khó khăn là làm
giáo sư phụ trách các cuộc tranh luận tại Roma. Các cha dòng Tên đã tổ chức việc
diễn giảng này nhằm trả lời bằng ngôn ngữ thời đại đối với các cuộc tấn công của
anh em tin lành. Suốt 11 năm, thánh Robertô đã nỗ lực cho công cuộc này với sự
thành công rực rỡ. Nhiều sinh viên của Ngài đã trở thành thừa sai tại Anh và tại
Đức. Một số người đã đổ máu vì đức tin tại Anh.
Các
bài diễn thuyết của Ngài được xuất bản lần đầu tại Ingolstudt, từ năm 1586 -
1593 dưới tựa đề "các cuộc tranh luận về đức tin công giáo chống lại các
người theo lạc giáo thời nay". Có 20 ấn bản khi Ngài còn sống và nhiều ấn
bản sau này nữa. Đây là một công trình bảo vệ đức tin đầy đủ nhất của Giáo hội
có được và suốt ba thế kỷ liền nó là áo giáp cho các nhà giảng thuyết và các
văn sĩ.
Những
trách vụ khác thánh Robertô đảm nhận thời kỳ này là tu chính tác phẩm chú giải
của Salmeron, một bạn dòng, làm việc trong ủy ban tu chính nghi thức phụng vụ
Roma và bản kinh thánh phổ thông. Ngài cũng góp phần lớn cho Đức Sixtô V trong
việc ấn hành các tác phẩm của thánh Ambrosiô.
Với
vai trò thần học gia của Đức Hồng y Goetni. Vị đặc sứ của Đức giáo hoàng tại
Pháp năm 1589, thánh Robertô chứng tỏ rằng: Ngài là một nhà ngoại giao lẫn một
học giả có khả năng. Việc đại diện tại Paris thật nặng nhọc. Nhưng thử thách lớn
lao nhất lại đến từ một phía khác. Đức giáo hoàng Sixtô V quyết định đặt cuốn I
trong bộ những cuộc tranh luận vào sổ sách bị cấm. Đức giáo hoàng không bằng
lòng với chủ trương của thánh Robertô, cho rằng uy quyền của giáo hoàng trực tiếp
trong các vấn đề vật chất, và nếu có thì chỉ qua uy tín tinh thần mà thôi. Chủ
trương này đã trở nên thông thường trong Giáo hội ngày nay. Nhưng Đức Sixtô đã
qua đời và Đấng kế vị Ngài đã rút lại quyết định. Dầu bị thử thách nhưng thánh
Robertô đã góp phần vào ấn bản Kinh thánh thời Đức Sixtô và đã viết tựa cho ấn
bản cũ được vạch ra với một tinh thần bác ái.
Thánh
Robertô liên tiếp làm cha tinh thần và viện trưởng của học viện Roma, rồi làm bề
trên tỉnh dòng Naples. Tại Roma Ngài hướng dẫn một thánh trẻ dòng Tên là Luy
Gonzaga. Tại Naples, chính Ngài được một cha dòng Tên khác là thánh Bernadiô
Realinô sau này gọi là thánh.
Bị
ép buộc nhận chức Hồng y năm 1599, từ đó Ngài lo các việc cho toàn thể Hội
Thánh, chẳng hạn như vụ án Galilêô và cuộc tranh luận về ơn thánh giữa các cha
dòng Daminh và dòng Tên.
Ngài
làm Tổng giám mục Capua trong ba năm, rồi chấm dứt những ngày hạnh phúc ấy vào
năm 1605 khi Ngài được triệu về Roma và cầm viết bênh vực Giáo hội. Liên tiếp
Ngài dàn xếp với Fra Sarpi miền Venice, với vua Giacôbê I nước Anh và với văn
sĩ Pháp Guillaume Barchony.
Thánh
Robertô qua đời ngày 17 tháng 9 năm 1621, được tuyên thánh năm 1928 và được đặt
làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1931.
(daminhvn.net)
17
Tháng Chín
Lời Nói Không Mất
Tiền Mua
Mahatma
Gandhi, người đề xướng chủ trương tranh đấu bất bạo động, đến Phi Châu. Ông vào
dùng bữa trong một quán ăn bình dân. Sau khi dùng bữa, ông trả tiền và nói với
người giúp bàn: "Xin cám ơn vì sự tử tế của anh". Người giúp bàn trả
lời: "Thưa ngài, tôi sẽ không bao giờ quên ngài. Từ 25 năm phục vụ ở đây,
tôi chưa bao giờ nghe được một tiếng cám ơn".
"Lời
nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Một tiếng cám
ơn, một lời chào hỏi, nếu được thực thi với tất cả chân tình là một biểu lộ của
một lòng tin sâu sắc. Nói một tiếng cám ơn, biểu lộ một cử chỉ thân thiện với
người khác là muốn nói lên rằng tình liên đới giữa con người là một điều thiết
yếu và ta cần có người chung quanh để sống với. Nói một tiếng cám ơn với người
nào đó là khẳng định giá tị và nhân phẩm của người đó. Nhưng ở đời, có ai mà
không cho ta một món quà hay không dạy ta bất cứ bài học nào đó.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét