06/03/2016
Chúa Nhật tuần 4 Mùa Chay năm C
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật IV Mùa Chay - Năm C
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY C
(Gs 5, 9a. 10-12; 2 Cr 5, 17-21;
Lc 15, 1-3. 11-32)
TÌNH THƯƠNG THA THỨ CỦA THIÊN CHÚA
“Anh ta còn ở đằng xa, thì
người cha đã trông thấy.
Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15,20).
Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15,20).
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1
Đoạn
sách Gs 5,9-12 đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng từ giai đoạn hành trình
trong sa mạc qua giai đoạn chinh phục Đất Hứa. Đứng trước cửa ngõ vào đất
Canaan, Thiên Chúa truyền lệnh cho dân Israel thực hiện nghi thức cắt bì, mừng
lễ Vượt Qua và dùng sản phẩm địa phương thay cho Manna.
Trước
hết, trước khi bước vào cuộc chiến đấu khốc liệt để chiếm lấy Đất Hứa, Thiên
Chúa truyền lệnh cho dân Israel thực hiện nghi thức cắt bì để nhắc nhớ họ về
giao ước mà Thiên Chúa ký kết với tổ phụ họ là Ábraham (x. St 17,9-14). Nếu dân
trung thành giữ giao ước đã ký kết với Thiên Chúa, thì Ngài sẽ luôn trung tín
bảo vệ dân trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Sức mạnh chở che của Thiên Chúa cùng với
sức mạnh từ sự đoàn kết của các nam nhân khi cùng đón nhận phép cắt bì tạo nên
sức mạnh cho cuộc chiến đấu.
Sau
nữa, tiếp nối sau phép cắt bì, dân Israel cử hành lễ Vượt Qua. Nếu cắt bì là
dấu chỉ khởi đầu của giao ước, thì lễ Vượt Qua là dấu chỉ tiếp nối của giao
ước. Quả vậy, lễ Vượt Qua nhắc nhớ dân về cuộc giải thoát vĩ đại mà Thiên Chúa
đã thực hiện; trong thời khắc nguy nan nhất, Thiên Chúa đã vượt qua trước cửa
nhà dân Israel nhưng lại đánh phạt các con đầu lòng Ai Cập để cứu họ khỏi cảnh
nô lệ. Cuộc chiến thắng này là dấu chỉ rõ ràng việc Thiên Chúa giữ lời đã giao
ước với các tổ phụ. Giờ đây, họ lại cử hành lễ này như một mong ước về một cuộc
chiến thắng mà Thiên Chúa sẽ ban cho họ tại đất Canaan như Thiên Chúa đã làm
xưa kia tại Ai Cập.
Cuối
cùng, dân Israel không còn nhận được Manna nữa; thay vào đó họ dùng sản phẩm
địa phương vùng Giêrikhô. Đây là dấu chỉ rõ ràng biểu thị sự chuyển đổi từ giai
đoạn sa mạc qua giai đoạn tiến vào Đất Hứa. Giai đoạn Thiên Chúa can thiệp cách
đặc biệt để nuôi sống dân Chúa trong sa mạc đã qua rồi. Một giai đoạn mới được
mở ra cho dân Chúa. Giờ đây họ có thể bắt đầu dùng sản phẩm địa phương. Lời hứa
của Thiên Chúa về một vùng Đất Hứa đang được hiện thực hóa và ngày càng trở nên
rõ ràng hơn.
Thiên
Chúa luôn trong thành với giao ước mà Ngài đã ký kết với dân Chúa. Nếu dân
trung thành tuân giữ những điều họ đã ký kết với Thiên Chúa, Ngài sẽ từng bước
thực hiện lời Ngài hứa từ ngàn xưa.
2. Bài đọc 2
Đoạn
trích từ thư 2 Cr 5,16-21 mô tả một hoàn cảnh mới, một giai đoạn mới. Vì Đức
Kitô, Đấng đã chết cho mọi người (5,15), nên những ai ở trong Người, đều là thụ
tạo mới (5,17), khi người ta được hòa giải với Thiên Chúa.
Trước hết, sự đổi mới đến từ Thiên Chúa, Đấng “đã
nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Ngài” (5,18). Quả vậy, sáng kiến hòa giải
bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng “không còn chấp tội nhân loại nữa” (5,19). Thiên Chúa không những không
chấp tội của nhân loại, ngay cả khi tội lỗi đó đã dẫn đến cái chết của Đức
Giêsu, mà còn dùng chính cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, để tha thứ tội
lỗi cho nhân loại, và cho nhân loại được hòa giải với Ngài.
Thiên Chúa đâu cần hòa giải với nhân loại; chính nhân loại mới
cần hòa giải với Ngài. Nhưng Thiên Chúa lại đi bước trước trong việc bày tỏ
tình thương tha thứ của Ngài ngay “khi chúng ta còn là những người tội
lỗi” (Rm 5,8), “khi
chúng ta còn thù nghịch với Ngài” (Rm 5,10) để nhân loại được hòa
giải với Ngài (5,18). Thật vậy, Thiên Chúa không lấy oán báo oán theo kiểu thế
gian, nhưng dùng tình thương để hóa giải tội lỗi và ban sự sống mới.
Sau nữa, việc hòa giải với Thiên Chúa được thực hiện thông qua
thừa tác vụ của “chúng tôi”, vì theo thánh Phaolô, Thiên Chúa đã “trao
cho chúng tôi chức vụ hòa giải” (5,18)
và “giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải” (5,19). Điều này có nghĩa là việc việc
hòa giải không phải dành riêng cho thánh Phaolô trong tư cách cá nhân mà là cho
thừa tác vụ của Giáo hội. Hơn nữa, dù được trao cho thừa tác vụ hòa giải nhưng
Giáo hội không phải là tác nhân của việc hòa giải nhưng chỉ công bố sự sự hòa
giải mà Thiên Chúa đã thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu. Như thế, thừa tác
vụ hòa giải của Giáo hội là “nhân danh Đức Kitô” mà “nài xin” nhân loại “hãy
làm hoà với Thiên Chúa” (5,20).
3. Bài Tin Mừng
Dụ
ngôn “Người Cha Nhân Hậu” được thánh Luca thuật lại trong bối cảnh có những
người tội lỗi đến với Chúa Giêsu để nghe Người giảng, trong khi những người
Pharisêu và các kinh sư lại phản đối việc Người tiếp đón và ăn uống với những
người bị xem là “phường tội lỗi” (15,1-3). Dụ ngôn này là câu trả lời cho sự
phản đối và những vấn nạn họ đặt ra.
Tình
thương và lòng nhân hậu vô bờ của người cha. Tình thương của người cha đối với
đứa con hư hỏng thật quá lớn lao. Ông không hề thắc mắc hay gây khó khăn khi
đứa con thứ đòi chia của cải. Ông không trách móc khi người con thứ bỏ nhà đi
hoang và tiêu xài hết phần của cải được chia. Ông vẫn hằng chờ đợi và trông
ngóng đứa con hư trở về đến nỗi khi cậu còn ở đàng xa thì ông đã trông thấy,
chạnh lòng thương và chạy ra đón con. Những việc ông làm liên tiếp sau đó như
“ôm cổ”, “hôn lấy hôn để”, “mặc áo đẹp”, “xỏ nhẫn”, “xỏ dép”, và “giết bê béo
mở tiệc ăn mừng” đều thể hiện tình thương và sự tha thứ hoàn toàn vô điều kiện
mà ông dành cho đứa con hư trở về vì đối với ông đó là đứa con “đã chết mà nay
sống lại”.
Sự trở
về miễn cưỡng của người con thứ. Người con thứ đòi chia gia tài, rồi từ bỏ cha
đi ăn chơi mà không hề suy nghĩ cho tình cảm và sự lo lắng của cha. Anh ta chỉ
trở về khi đã tiêu hết tiền bạc, không công ăn việc làm, không lương thực dằn
bụng. Anh không trở về vì thương cha già ở nhà, nhưng chỉ mong cha chấp nhận
mình như người làm công để có cái ăn. Sự trở về của anh chỉ như một sự chọn lựa
để không phải chết đói. Dẫu muộn màng và miễn cưỡng, sự trở về của người con thứ
vẫn luôn có giá trị và đáng vui mừng đối với người cha. Người cha không quan
tâm vì sao anh trở về, vì đối với ông, sự trở về của người con, dù với lý do
gì, đều rất đáng được hoan nghênh và đáng để mừng vui. Người con thứ đi hoang
đánh mất phẩm giá làm con và tự thấy mình không xứng đáng là con, nhưng khi anh
trở về, người cha không mảy may do dự phục hồi trọn vẹn tư cách làm con của
anh.
Sự
dửng dưng, lạnh lùng và vô cảm của người con cả. Người con cả là người chăm chỉ
làm việc, sống đàng hoàng, ngoan ngoãn và chưa bao giờ làm gì trái lệnh cha. Dù
tuân phục cha cách trọn vẹn, người con cả chỉ thấy mình như người làm việc để
“hầu hạ” một người cha keo kiệt. Một đàng, anh tỏ ra hẹp hòi, ích kỷ, đối với
người em hư hỏng đến nỗi không còn coi đó là em mình, đàng khác, anh không nhận
ra tấm lòng rộng lượng của người cha. Anh quên mất rằng trong tư cách là một
người con thì “tất cả những gì của cha đều là của con”. Tuy anh ở trong nhà,
nhưng lại tự đánh mất phẩm giá và quyền lợi làm con. Anh ở bên cha nhưng lại không
cảm nhận được tình cha. Anh tự cho mình là người tốt lành, có tư cách đoán xét
người em hư hỏng, nhưng chính anh lại quá hẹp hòi để mở lòng ra với tình cha,
tình anh em.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Lời
hứa từ xa xưa của Thiên Chúa về một vùng Đất Hứa nay sắp thành hiện thực. Trước
khi bước vào cuộc chinh phục đất Canaan, dân Israel cử hành nghi lễ nhắc nhớ về
giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân qua việc thực hiện việc cắt bì, và
mừng lễ Vượt Qua. Thiên Chúa vẫn luôn trung thành với giao ước, dẫn dân vào Đất
Hứa, nếu dân đi trong đường lối của Ngài. Tôi có thường nhắc nhớ mình về những
gì tôi đã cam kết với Ngài? Tôi có đang giữ những điều khoản của giao ước mà
tôi ký kết với Ngài?
2/ Đối
với thánh Phaolô, Thiên Chúa đi bước trước trong việc hoà giải nhân loại với
Thiên Chúa. Qua Đức Kitô và nhờ cái chết của Người, Thiên Chúa không còn chấp
tội con người. Việc hoà giải với Thiên Chúa được giao cho thừa tác vụ của Giáo
hội. Chính Giáo hội, thừa hành thừa tác vụ được trao cho mình, công bố lời hoà
giải. Thiên Chúa mời gọi tôi hoà giải với Ngài, tôi có mở lòng ra với Ngài? Tôi
có sẵn sàng, thông qua thừa tác vụ của Giáo hội, thực hiện việc hoà giải với
Thiên Chúa?
3/ Dụ
ngôn “Người Cha Nhân Hậu” là câu trả lời thoả đáng cho những vấn nạn mà những
người Pharisêu và các kinh sư đặt ra. Trước hết, tình thương của Thiên Chúa
vượt lên trên những bất toàn tội lỗi của con người. Sau nữa, Thiên Chúa sẵn
sàng chờ đợi con người trở về để tha thứ tất cả dù con người bất toàn, tội lỗi
đến đâu. Cuối cùng, thật đáng trách cho những ai tự cho mình là công chính mà
không nhận ra tình Chúa và hẹp hòi xét đoán anh em mình. Tôi có nhận ra tình
thương mà Thiên Chúa vẫn luôn dành cho tôi? Tôi có nhận thấy mình là tội nhân
cần trở về để xin Thiên Chúa thứ tha? Tôi có tự coi mình là tốt lành, công
chính mà không cần đến tình thương của Chúa và hẹp hòi, khắt khe với anh em?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên
Chúa là Cha rất nhân từ luôn yêu thương hết thảy mọi người, và sẵn sàng tha thứ
cho những ai thành tâm sám hối. Ý thức thân phận tội lỗi của mình và tin tưởng
vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta hãy tha thiết cầu xin.
1. Hội
Thánh có sứ vụ giới thiệu cho con người một Thiên Chúa từ bi nhân hậu. Chúng ta
cùng cầu nguyện cho các chủ chăn trong Hội Thánh trở nên những mục tử như lòng
Chúa mong ước, luôn tận tình phục vụ mọi người với tấm lòng bao dung quảng đại.
2. Lối sống ích kỷ và hưởng thụ đang gặm nhấm và làm băng hoại
nhiều tâm hồn. Chúng ta cùng cầu xin cho những người có trách nhiệm luôn quan tâm
đến việc giáo dục ý thức cộng đồng và tinh thần vị tha cho mọi lứa tuổi và
trong mọi môi trường.
3. Lòng bao dung nhân từ của Thiên Chúa che lấp mọi lỗi lầm của
con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô hữu biết tận dụng cơ hội của
mùa Chay thánh này để quay về với Chúa qua bí tích Hòa Giải cùng với quyết tâm
sửa đổi đời sống cách triệt để.
4. Hạnh
phúc đích thực là được sống trong tình thương của Thiên Chúa và anh chị em. Xin
cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn đoàn kết yêu thương nhau, biết chia
sẻ nâng đỡ và giúp nhau đạt được niềm vui ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ và
giàu lòng thương xót. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện, giúp chúng con biết
yêu thương tha thứ cho nhau, và luôn là dấu chỉ lòng thương xót của Chúa giữa
thế giới. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
SCĐ CHÚA NHỰT
IV CHAY.C
Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
Chủ đề :
Thiên Chúa là Cha giàu
lòng thương xót
"Người Cha chạnh
lòng thương, chạy ra, ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để"
(Lc 15,20)
Sợi
chỉ đỏ :
- Vì
lòng thương xót, Thiên Chúa đã cho dân do thái vào Đất hứa (Bài đọc I)
- Vì
lòng thương xót, người Cha đã đón đứa con hoang đàng trở về (bài Tin Mừng)
- Vì
lòng thương xót, Thiên Chúa đã nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kitô mà cho thế gian
được hòa giải với Ngài (Bài đọc II)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Bài
Tin Mừng hôm nay kể chuyện đứa con hoang đàng hối hận trở về và được Cha mở
rộng vòng tay tha thứ. Chúng ta là những đứa con hoang đàng và Thiên Chúa là
Cha giàu lòng thương xót luôn chờ đón chúng ta trở về để tha thứ và phục hồi tư
cách làm con. Thánh lễ hôm nay là một dịp tốt để chúng ta trở về.
II. Gợi ý sám hối
Chúng
ta hãy mượn lời đứa con hoang đàng để bày tỏ với Chúa tâm tình sám hối chân
thành :
-
Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã rời bỏ nhà Cha để chạy theo những cám dỗ của
thế gian.
-
Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã không yêu thương anh chị em của con.
-
Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã nuông chìu xác thịt mà làm mất lòng Cha.
III. Lời Chúa
1.
Bài đọc I (Gs 5,9-12)
Giai
đoạn thứ ba của lịch sử cứu độ : Thiên Chúa cho dân do thái được vào chiếm
hữu đất hứa.
-
Việc đầu tiên khi vừa vào Đất Hứa là cử hành Lễ Vượt Qua. Lễ này được ấn định
sẽ cử hành hàng năm từ đó về sau vào ngày 14 tháng Nisan, nhằm giúp dân do thái
luôn nhớ đến lòng tho xót của Thiên Chúa đối với họ.
-
Sau khi dân đã vào Đất hứa rồi thì manna không còn rơi xuống nữa, vì từ nay họ
sẽ sống bằng hoa màu của đất đai mà Thiên Chúa ban cho họ.
2.
Đáp ca (Tv 33)
Ca
tụng lòng thương xót của Thiên Chúa.
3.
Tin Mừng (Lc 15,1-3.11-32)
Dụ
ngôn người cha nhân từ : Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh họa
rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đến độ không thể ngờ của Thiên Chúa.
11-12 - "Xin cha ban cho con phần gia
tài thuộc về con" : Thông thường cha chỉ chia gia tài cho các con
khi gần chết. Tuy thực tế có những trường hợp cha chia gia tài cho con ngay lúc
ông còn mạnh khoẻ (x Tb 8,21), nhưng đó là tự ý người cha chứ không do đòi hỏi
của con. Hơn nữa sách Huấn ca, 1 quyển sưu tập những lời dạy khôn ngoan, đã
khuyên đừng bao giờ làm như thế bởi vì "nắm tiền là nắm quyền", khi
đã chia gia tài cho con rồi thì không còn điều khiển chúng nỗi nữa, trái lại có
thể còn bị chúng ngược đãi (Hc 33,20-24). Người cha trong dụ ngôn này đã không
khôn ngoan tính kỹ như vậy, vì ông quá thương con.
- Người cha này là hình
ảnh của Thiên Chúa. Nhiều người trách Thiên Chúa sao quá hiền lành không trừng
phạt "nhãn tiền" những người tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương
loài người nên khi dựng nên loài người thì đã ban cho họ Tự Do. Mà tự do nghĩa
là có thể vâng lời hoặc không vâng lời Thiên Chúa. Vậy không nên trách Thiên
Chúa mà chỉ nên cám ơn Thiên Chúa đã quá yêu thương loài người. Có trách là
trách loài người đã xử dụng sai quyền tự do của mình.
13-20a Sau khi lãnh gia tài, đứa con thứ liền ra đi sống bê tha phung
phí hết của cải và rơi vào tình trạng khốn khổ.
- "Chăn heo" :
người do thái coi heo là đồ ghê tởm. Thịt heo họ còn không ăn. Thế mà đứa con
này phải đi chăn heo. Tệ hơn nữa là muốn ăn thức ăn của heo mà còn không được.
Nghĩa là tình trạng xuống dốc đến tột cùng.
Trong lúc xuống dốc tột
cùng như thế, nó muốn quay trở về với cha. Đây cũng là tâm lý của kẻ tội
lỗi : khi sung sướng thì quên Chúa, quên đạo lý. Lúc khổ sở mới biết hối
hận.
Trước lúc quay về, nó soạn
sẵn 1 bài tự thú. Ta hãy chú ý là bài tự thú này khá dài (2 câu 18-19)
20b Câu này chứa nhiều chi tiết chứng tỏ tình thương vô bờ bến của
người cha nhân lành :
- "Khi cậu còn ở
đàng xa, Cha cậu trông thấy" : Một người cha bình thường khi con
bỏ nhà ra đi thì tức giận và có thể còn từ con luôn. Nhưng người cha này không
như vậy. Chi tiết ông trông thấy con từ xa có nghĩa là sau khi nó ra đi ông rất
thương tiếc nó, thường xuyên đứng trước ngõ trông chờ nó, nhờ đó mới thấy bóng
dáng nó từ đàng xa. Ý nghĩa : khi con người đi đàng tội lỗi, TC không từ
bỏ con người nhưng luôn trông chờ con người hối hận quay về.
- "Liền động lòng
thương" : Đối với những người cha bình thường, cho dù độ lương
bao nhiêu đi nữa với đứa con ngỗ nghịch bỏ nhà ra đi, khi thấy nó về thì phản
ứng đầu tiên là chửi mắng, hoặc ít ra là lạnh nhạt. Người cha này không thế,
phản ứng đầu tiên của ông là "liền động lòng thương".
- "Chạy lại" :
Ta nên hiểu chi tiết này theo tâm lý người phương đông. Những người phương đông
(trong đó có do thái) giỏi kềm chế cảm xúc của mình, nhất là những người đàn
ông. Đàn ông càng lớn tuổi càng phải đi đứng chửng chạc. Nhưng người cha phương
đông trong dụ ngôn này chẳng những không kềm chế tình cảm mà còn
"chạy" ! Vì tình cảm thương con quá lớn, ông không kềm chế nỗi
nữa rồi.
- "Ôm vào lòng hôn
con tha thiết" : cử chỉ này không chỉ là biểu lộ một tình thương
mãnh liệt mà còn có ý nghĩa tha thứ. Ôm hôn là biểu lô sự tha thứ (xem chuyện
Đavít ôm hôn tha thứ cho Absalom ở 2Sm 14,33). Đáng chú ý là khi đó đứa con
chưa mở lời xin lỗi.
21-24 - Khi đó đứa con bắt đầu đọc bài tự thú mà nó đã
học thuộc lòng. Nên lưu ý là nó đọc chưa xong thì người cha đã không nghe nữa.
Ông không cần lời lẽ của nó, nguyên việc nó quay về với ông đã đủ. Ông còn bận
tổ chức tiệc mừng.
- "Mau mau đi" :
tha thứ nhanh chóng, nôn nóng mở tiệc mừng.
- "Đem áo dài tốt
nhất mặc cho cậu" : Áo chỉ thân phận của người mặc áo. Đứa con
này đã đánh mất chiếc áo làm con để thay vào chiếc áo chăn heo. Nay nó được cho
mặc "áo dài tốt nhất" tức là nó được trả lại quyền làm
con. Chú ý là nó đã tự thú "Con không đáng cha nhận làm con cha nữa. Xin
cha cứ coi con như đứa làm thuê".
- "Đeo nhẫn vào
tay" : nhẫn là món chỉ có những người quý phái mới mang.
- "Xỏ giầy vào
chân cậu" : theo tục lệ do thái, đầy tớ không mang giầy (mà chỉ
xách giầy cho chủ).
- "Bắt con bò tơ
chúng ta đã nuôi cho béo" : không phải bất cứ con bò béo nào, mà
con bò "chúng ta đã nuôi cho béo". Nghĩa là người cha đã dự
trù sẵn bữa tiệc mừng này nên đã chỉ định một con bò phải nuôi cho béo. 1 chi
tiết nữa cho ta thấy người cha lúc nào cũng trông con quay về.
c.29 Phần thứ hai của dụ ngôn nói về người
anh
- "Bao nhiêu năm
trời tôi phục vụ ông" : biệt phái và thông giáo cũng nghĩ rằng họ
"phục vụ" Thiên Chúa hết lòng bằng cách tuân giữ mọi lề luật không
sai phạm chút nào.
c.30 "Thằng con của ông đó" :
người con trưởng không coi người con thứ là em mình.
c.32 "Em con đây" :
người cha sửa lại lời lẽ sai lầm của người con trưởng.
Thật là 1 dụ ngôn cảm động. Những nét mô tả tình cảm của người cha trong dụ
ngôn này khó mà có được nơi một người cha bình thường trong thế gian này mà chỉ
có thể áp dụng vào Thiên Chúa nhân lành vô cùng.
4.
Bài đọc II (2 Cr 5,17-21)
Chúa
Giêsu Kitô đã hòa giải loài người tội lỗi lại với Thiên Chúa giàu lòng thương
xót. Giáo Hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với
mọi người.
IV. Gợi ý giảng
* 1.
Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Gandhi
kể rằng khi ông 15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy
nhiên sau đó ông rất áy náy nên quyết định thú tội với cha mình. Ông viết lên
một tờ giấy những gì mình đã làm, sau đó xin cha tha thứ, và cuối cùng hứa sẽ
không tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bệnh phải nằm trên giường. Gandhi đến
đưa tờ giấy cho cha và hồi hộp chờ Cha xét xử. Người Cha ngồi dậy, cầm tờ giấy,
trong khi ông đọc thì hai dòng lệ từ đôi mắt ông chảy xuống. Gandhi cũng không
cần được nước mắt mình. Cuối cùng khi đã đọc xong, người Cha không hề nổi giận
và cũng chẳng trách móc Gandhi lời nào. Ông ôm chầm lấy con và sung sướng vì
con mình đã biết hối hận.
Cảm
nghiệm được yêu thương ngay khi mình còn tội lỗi là một cảm nghiệm vô cùng sâu
sắc đối với Gandhi. Sau này ông nói : "Chỉ có người nào đã trải qua
cảm nghiệm về loại tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó thôi".
Đó
cũng là cảm nghiệm của đứa con hoang đàng trong bài Tin Mừng hôm nay. Qua dụ
ngôn này, Chúa Giêsu muốn giúp chúng ta hiểu được lòng thương xót bao là của
Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài muốn nói với chúng ta rằng : Nếu chúng ta
phạm tội thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài không những không bớt
thương mà còn thương nhiều hơn nữa. Không phải đợi chúng ta trở nên hoàn hảo
thì Thiên Chúa mới thương, mà Ngài yêu thương chúng ta chính vì chúng ta tội
lỗi, yêu thương ngay khi chúng ta còn trong tội lỗi.
Tất
cả chúng ta, dù nhiều hay ít, đều là những người tội lỗi. Nhưng chính trong tội
lỗi và qua tội lỗi mà chúng ta cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên
Chúa. Thật vậy, nếu chúng ta không bao giờ phạm tội thì chúng ta cũng không bao
giờ cảm nhận được niềm vui được tha thứ. Nói thế không có nghĩa là chúng ta cứ
tha hồ phạm tội. Nói như thế là để chúng ta càng hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa.
(FM)
* 2.
Những con tim
Dụ
ngôn này là một câu chuyện về những con tim :
-
Con tim ích kỷ và con tim quảng đại.
-
Con tim hẹp hòi và con tim rộng mở.
-
Con tim lạnh lùng và con tim nồng ấm.
-
Con tim tan vỡ và con tim vui mừng.
-
Con tim sám hối và con tim không sám hối.
-
Con tim biết tha thứ và con tim không thứ tha.
-
Con tim oán giận và con tim biết ơn. (Theo FM)
* 3.
Người con gái hoang đàng
Dụ
ngôn người con trai hoang đàng đã khiến Anon liên tưởng tới hoàn cảnh của những
người con gái hoang đàng. Anon có những dòng mà đại ý như sau :
Biết
bao thi sĩ đã viết nên những bài thơ đẹp nói về tình thương tha thứ của người
cha và hạnh phúc của người con trai hoang đàng khi nó trở về. Nhưng đối với
những người con gái hoàng đàng thì sao ?
Người
con gái hoang đàng cũng có thể quay về ngôi nhà mình đã bỏ đi. Nhưng không có
gì còn giống như trước : Áng mây mờ vẫn còn nấn ná trên nét mặt những
người thân ; lại còn những lời chế diễu dèm pha của bà con lối xóm.
Có
lẽ vì thế mà khi người con gái hoang đàng còn đang bơ vơ trên những nẻo đường
lưu lạc, chỉ cần nghĩ đến những môi miệng cong cớn đó là không còn chút can đảm
nào để trở về.
Vậy,
hãy mở rộng cửa để đón người con trai hoang đàng trở về ; hãy giết bò, hãy
mở tiệc ăn mừng.
Nhưng
xin đừng đóng sập cánh cửa trước mặt người con con gái hoang đàng trở về, bởi
vì, hãy nhớ đừng quên, nàng cũng có một linh hồn.
* 4.
Trừng phạt và tha thứ
Người
con hoang đàng biết mình xứng đáng bị trừng phạt và sẵn sàng chờ đợi bị trừng
phạt.
Thế
nhưng người cha không trừng phạt, mà tha thứ.
Trừng
phạt giống như dội một thùng nước lên que củi sắp tàn. Kết quả là ngọn lửa tắt
ngúm.
Tha
thứ giống như thổi hơi vào tàn lửa sắp tắt, giúp cho ngọn lửa lại bùng lên.
(FM)
* 5.
Trong đôi mắt cha
Một
cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ :
- Mẹ
ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không ?
Bà
mẹ đáp :
- Mẹ
không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó ?
Cô
bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên :
- Mẹ
ơi ! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó
mẹ ạ ?
*
Trong
đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con
người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện
cùng Chúa : "Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng
Ngài, xin thương che chở" (Tv 17,8).
Vâng,
tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ
ngôn"Người cha nhân hậu". Một người cha rất đỗi hiền từ,
luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ.
Sau khi anh ta đã "sống phóng đãng, phung phí hết tài sản"trở
về, người cha ấy cũng không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy
bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng
đến chảy nước mắt.
Lòng
nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang
đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng
mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được.
Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một
cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.
Người
anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha
già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào
nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em "đã chết nay sống lại, đã
mất nay lại tìm thấy". Ông khẳng định với cậu rằng : "Tất
cả những gì của cha đều là của con" (Lc 13,31).
Đó
là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ.
Một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một
Thiên Chúa giàu lòng thương xót. "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương" (Tv 135).
Chỉ
tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh
không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi
của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá
nhân hậu bao dung của người cha.
Hoá
ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài : Anh không trái
lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi
người em mình là "em tôi" mà là"đứa con của
cha kia". Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không
chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.
Anh
chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện
cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và
muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Vậy
cả hai người con đều phải quay trở về vôi cha, cả hai đều phải bước vào nhà
cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái
tim cha : Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.
Trở
về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
Trở
về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.
Trở
về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.
*
Lạy
Chúa. tình Chúa lớn hơn tội lỗi chúng con bội phần. Xin cho chúng con mỗi lần
được Chúa thứ tha cũng biết rộng lượng tha thứ cho nhau, để mỗi ngày chúng con
càng nên xứng đáng với Chúa. Amen. (TP)
* 6.
Mảnh suy tư
-
"Lúc đứa con hoang đàng quỳ gối xuống và khóc là lúc nó biến những khoảng
thời gian phung phí cuộc đời với bọn đĩ điếm, với việc chăn heo, với việc ăn
cháo heo cho đỡ đói thành những khoảng thời gian đẹp nhất và thánh thiện nhất
trong đời nó. Dễ có mấy ai ý thức được như vậy. Tôi dám nói rằng cần phải vào
tù mới hiểu được điều đó. Và nếu thế thì có vào tù cũng đáng lắm chứ"
(Oscar Wilde)
-
Chẳng có gì khó khi trở về nhà như một vị anh hùng với những chiến công hiển
hách. Nhưng trở về nhà với vóc dáng tả tơi, hai bàn tay trắng và một con tim
tan nát vì mặc cảm tội lỗi là một điều khó vô cùng.
-
Đứa con hoang đàng biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó nếu người cha trừng phạt
thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự
tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.
-
Các vị thánh làm chứng về ân sủng và lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn những
người tội lỗi thì làm chứng và tình thương và lòng thương xót của Ngài.
V. Lời nguyện cho mọi
người
Chủ
tế : Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là một người Cha giàu lòng thương
xót. Người không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó sám hối ăn năn để
được sống. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng dâng lời
cầu xin :
1. Hội thánh là một người mẹ hiền luôn thương yêu con cái của mình /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn thể hiện tình thương
trong cung cách xử sự thường ngày.
2. Hiện nay / tình
trạng thanh thiếu niên bỏ nhà ra đi bụi đời rất đáng báo động / Chúng ta
hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ / luôn sống hòa thuận yêu thương
nhau / và nhất là quan tâm giáo dục con cái của mình.
3. Phải từ bỏ nếp sống
tội lỗi mà quay về với Chúa / là điều mà người Kitô hữu cần thực hiện
trong mùa Chay thánh này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết
đoạn tuyệt với tội lỗi / để xứng đáng đón mừng đại lễ Phục sinh.
4. Ganh tỵ và ghen ghét
gây ra biết bao đau khổ cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng
đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái yêu thương như Chúa
dạy / nhờ đó dẹp bỏ được những tật xấu đáng ghét này.
Chủ
tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói : Người ta cứ dấu này mà nhận biết
anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau. Xin Chúa ban ơn giúp sức
để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị
muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta thật
hạnh phúc vì được làm con của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Vậy chúng ta hãy
dâng lên Ngài những tâm tình kính mến chân thành của chúng ta.
VII. Giải tán
Hôm
nay chúng ta đã cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa là Cha
chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy là những sứ giả loan báo cho mọi người về lòng
nhân từ thương xót bao la ấy. Chúc anh chị em luôn bình an.
Lectio Divina: Chúa Nhật IV Mùa Chay (C)
Chúa Nhật, 6 Tháng 3,
2016
Dụ Ngôn Người Con
Hoang Đàng
Lc 15:1-3,11-32
1. Bài Đọc
a) Lời nguyện mở
đầu:
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin hãy mặc khải cho
chúng con mầu nhiệm của Chúa Cha và của Chúa Con được hiệp nhất trong tình
yêu. Xin hãy cho chúng con có thể thấy được ngày trọng đại của Thiên
Chúa, rực rỡ với ánh sáng: buổi rạng đông của một thế giới mới được
sinh ra trong máu của Đức Kitô. Người con hoang đàng trở về nhà,
người mù được nhìn thấy ánh sáng, kẻ trộm lành được tha tội xóa tan nỗi sợ hãi
cổ xưa. Khi chết treo trên thập giá, Đức Kitô đã chiến thắng cái
chết; cái chết mang lại sự sống, tình yêu chiến thắng nỗi sợ hãi và tội lỗi tìm
kiếm sự thứ tha. Amen.
b) Phúc Âm
1 Khi ấy, những người thu thuế và
những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; 2 thấy
vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những
kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng".
3 Bấy giờ Người phán bảo
họ dụ ngôn này:
11 "Người kia có hai con
trai. 12 Đứa em thưa với cha rằng: 'Thưa cha, xin cha cho
con phần gia tài thuộc về con'. Người cha liền chia gia tài cho các con. 13 Ít
ngày sau, người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa
xỉ phung phí hết tiền của. 14 Khi nó tiêu hết tiền của thì
vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. 15 Nó
vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn
heo. 16 Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng,
nhưng cũng không ai cho. 17 Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự
nhủ: 'Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở
đây phải chết đói.18 Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa
người rằng: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, 19 con
không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm
công của cha" '. 20 Vậy nó ra đi và trở về với cha
nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông
chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. 21 Người
con trai lúc đó thưa rằng: 'Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con
không đáng được gọi là con cha nữa'. 22Nhưng người cha bảo đầy
tớ: 'Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu,
và xỏ giầy vào chân cậu. 23 Hãy bắt con bê béo làm thịt để
chúng ta ăn mừng: 24 vì con ta đây đã chết, nay sống lại,
đã mất, nay lại tìm thấy'. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
25 "Người con cả
đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, 26 anh
gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. 27 Tên đầy tớ
nói: 'Đó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về mạnh
khỏe'.28 Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh
ra xin anh vào. 29 Nhưng anh trả lời: 'Cha coi, đã bao năm
con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho
riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. 30 Còn
thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm,
nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó'. 31 Nhưng
người cha bảo: 'Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của
con. 32 Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết
nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'".
c) Giây phút thinh lặng cầu
nguyện:
Để Lời Chúa có thể thấm nhập vào lòng và soi sáng đời
sống chúng ta.
2. Suy Gẫm
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Dante cho rằng Luca là “người
ghi chép sự dịu dàng của Chúa Kitô” (scriba mansuetudinis Christi). Thật
vậy, ông là vị Thánh Sử thích nhấn mạnh đến lòng thương xót của Thầy Chí Thánh
đối với những kẻ tội lỗi và cho chúng ta thấy những hình ảnh của sự tha thứ (Lc
7:36-50; 23:39-43). Trong Tin Mừng của thánh Luca, lòng thương xót
của Thiên Chúa được thể hiện trong Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta có thể nói
rằng Đức Giêsu là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa hiện diện ở giữa
chúng ta. “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân
từ” (Lc 6:36). Luca tập trung vào hình ảnh Thiên Chúa đã mặc khải
trong Cựu Ước (Hc 34:6), nhưng đáng tiếc thay, điều đó dường như đã bị bác bỏ
bởi các Kinh Sư và người Biệt Phái là những kẻ muốn nhấn mạnh đến hình ảnh
Thiên Chúa “Đấng ghé thăm tội lỗi của các người cha trên con cái” (Hc
34:7). Thật vậy, những người Biệt Phái và Kinh Sư tự hào là công
chính trong mắt của Thiên Chúa bởi vì họ đã không vi phạm Lề
Luật. Chúa Giêsu chỉ trích thái độ này trong lời giảng dạy của Người
và qua hành động của Người. Đức Kitô, “Đấng Công Chính” của Thiên
Chúa (1Pr 3:18), “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc
15:2). Hãy nghĩ về bài dụ ngôn người thu thuế khi từ Đền Thờ trở về
nhà thì đã được nên công chính tương phản với người Biệt Phái tự khen ngợi mình
trước mặt Thiên Chúa trong khi phê phán người bên cạnh mình (Lc
18:9-14). Chúa Giêsu chỉ ra cho chúng ta thấy rằng đường lối suy
nghĩ và hành động của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác biệt với của chúng
ta. Thiên Chúa thì khác biệt, và tính siêu việt của Người được mặc
khải trong lòng thương xót tha thứ cho tội lỗi. “Trái tim Ta thổn
thức, ruột gan Ta bồi hồi khi nghĩ đến điều ấy. Ta sẽ không hành
động theo cơn nóng giận… vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người
phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh và không có ý định tiêu diệt
ngươi” (Hs 11:8-9).
Dụ ngôn “người con hoang đàng” này sẽ
đưa ra khía cạnh về Chúa Cha đầy lòng thương xót. Đó là lý do tại
sao một số người đề cập đến câu chuyện này như là “dụ ngôn người cha của đứa
con hoang đàng với lòng thương xót và tha thứ”. Đoạn Tin Mừng là một
phần của một loạt ba dụ ngôn về lòng thương xót và có lời mở đầu để hướng dẫn
chúng ta suy niệm về “những kẻ thu thuế và tội lỗi” lui tới với Đức Giêsu để
nghe Người giảng dạy (Lc 15:1). Những điều này được phản ảnh trong
thái độ của người con thứ là kẻ hồi tâm và tự nhủ về tình trạng hiện tại của
mình và về những gì anh ta đã đánh mất khi lìa bỏ nhà cha anh (Lc
15:17-20). Thật là thú vị khi để ý đến cách dùng động từ “lắng
nghe”, mà nhớ lại cảnh của bà Maria, em bà Máctha, “cứ ngồi bên chân Chúa
và lắng nghe lời Người giảng dạy” (Lc 10:39); hay là đám đông
dân chúng “tuôn đến để nghe Người giảng và để được chữa lành
bệnh tật” (Lc 6:18). Chúa Giêsu thừa nhận thân nhân của
mình, không phải bằng quan hệ huyết thống, mà qua thái độ lắng nghe của
họ: “Mẹ ta và anh em Ta, chính là những ai nghe lời
Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8:21). Dường như Luca đạt tầm
quan trọng về thái độ lắng nghe này. Đức Maria, thân mẫu của Chúa
Giêsu, được ca ngợi vì có một thái độ lắng nghe chiêm niệm, bà “hằng ghi nhớ
tất cả những điều này trong lòng” (Lc 2:19,51). Bà Isave tuyên
xưng Đức Maria đầy diễm phúc bởi vì “bà đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì
Người đã nói với bà” (Lc 1:45), đã được mặc khải tại thời điểm Truyền Tin (Lc
1:26-38).
Lòng thương xót của người cha nhân từ
(Lc 15:20), thì trái ngược với thái độ khắt khe của người con cả, kẻ sẽ không
chấp nhận mình có người em như thế, và là kẻ trong lời đối thoại với người cha,
gọi người con thứ là: “còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết
của cải của cha với bọn điếm, nay trở về…” (Lc 15:30). Trong bài
này, chúng ta có thể thấy thái độ của các Kinh Sư và người Biệt Phái là những
kẻ “lẩm bẩm” rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng
ngồi ăn uống với chúng". Họ không kết giao với “kẻ tội lỗi”,
những kẻ mà họ cho là ô uế, thà là họ lánh xa những kẻ ấy. Thái độ
của Chúa Giêsu thì lại khác hẳn và, trong mắt họ, đó là chuyện ô
nhục. Chúa thích giao tiếp với những kẻ tội lỗi và thỉnh thoảng
Người còn nhận lời mời của họ vào nhà để cùng ăn uống với họ (Lc
19:1-10). Lời lẩm bẩm của các Kinh Sư và người Biệt Phái đã khiến họ
không lắng nghe được Lời Chúa.
Sự tương phản giữa hai anh em thì thật
gợi lên nhiều ý tưởng. Người em nhận ra sự khốn cùng và tội lỗi của
mình và trở về nhà mà nói rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời
và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa” (Lc
15:18-19,21). Người anh thì lại có thái độ kiêu căng không chỉ đối
với người em mà còn cả đối với cha mình nữa! Lời nhiếc móc của người
anh thì hết sức tương phản với sự dịu dàng của người cha là kẻ đã bước ra khỏi
nhà và đi gặp người anh cả để “van nài” anh ta bước vào nhà (Lc
15:20,28). Đây là hình ảnh của Chúa Cha, Đấng mời gọi chúng ta hoán
cải, trở về với Người: “Trở về đi, hỡi Israel phản bội – sấm ngôn
của Đức Chúa – Ta sẽ không nghiêm nét mặt với các ngươi nữa, và Ta giàu lòng
xót thương – sấm ngôn của Đức Chúa – và Ta không giận dữ mãi đâu. Có
điều là tội ngươi, ngươi phải biết: ngươi đã xúc phạm đến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, khi lang bạt khắp các nẻo đường tìm kiếm ngoại kiều dưới
mọi lùm cây rậm; còn tiếng Ta gọi, các ngươi chẳng thèm nghe – sấm ngôn của Đức
Chúa. Trở về đi, hỡi lũ con phản bội – Sấm ngôn của Đức Chúa – vì Ta
vẫn là chủ các ngươi” (Gr 3:12-14).
b) Một vài câu hỏi
để quy hướng cho phần suy gẫm và thực
hành của chúng ta.
i. Luca chú trọng vào
hình ảnh của Thiên Chúa đã được mặc khải trong Cựu Ước (Hc 34:6), nhưng tiếc
thay, dường như điều này đã bị lờ đi bởi các Kinh Sư và người Biệt Phái là
những kẻ thà nhấn mạnh về hình ảnh một Thiên Chúa “Đấng ghé thăm tội lỗi của
các người cha trên con cái” (Hc 34:7). Tôi có hình ảnh gì về Thiên
Chúa?
ii. Những người Biệt Phái
và Kinh Sư tự hào rằng họ là người công chính dưới mắt của Thiên Chúa bởi vì họ
không phạm giới. Chúa Giêsu chỉ trích thái độ của họ trong lời giảng
huấn của Người và bằng hành động của Người. Người, “Đấng Công Chính”
của Thiên Chúa (1Pr 3:18), “đón tiếp phường tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với
chúng” (Lc 15:2). Tôi có tự coi mình là công chính hơn những người
khác không, có lẽ bởi vì tôi cố gắng giữ các điều răn của Chúa
chăng? Những động cơ khiến tôi muốn sống một cuộc sống “công chính” là
gì? Đó là vì tình yêu Thiên Chúa hay vì lòng thỏa mãn cá nhân?
iii. “Những người thu thuế
và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng” (Lc
15:1). Dường như thánh Luca đặt nặng tầm quan trọng về thái độ lắng
nghe, suy gẫm, đi vào nội tâm, suy niệm và ghi nhớ Lời Chúa trong lòng chúng
ta. Tôi đã dành vị trí nào cho sự chiêm niệm Lời Chúa trong đời sống
hằng ngày của tôi?
iv. Các Kinh sư và những
người Biệt Phái không giao tiếp với “phường tội lỗi”, những kẻ mà họ cho là ô
uế, và tránh xa họ. Thái độ của Chúa Giêsu thì khác hẳn, và họ cho
đó là chuyện nhục nhã. Chúa ưa thích gặp gỡ những kẻ tội lỗi và
thỉnh thoảng lại còn nhận lời mời đến nhà họ để cùng ăn uống với họ (Lc
19:1-10). Tôi có xét đoán người khác hay tôi có né tránh các cảm xúc
về lòng thương xót và tha thứ không, vì điều đó phản ảnh sự dịu dàng của Thiên
Chúa bậc Cha-Mẹ?
v. “‘Hãy bắt con bê béo
làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết,
nay sống lại; đã mất, nay lại tìm thấy’. Và người ta bắt đầu ăn
uống linh đình.” (Lc 15:23). Trong hình ảnh người cha bày tiệc ăn
mừng con ông nay đã sống lại, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Cha, Đấng đã yêu
thương chúng ta đến nỗi “đã ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Người thì
khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Trong việc làm
thịt “con bê béo”, chúng ta có thể thấy Đức Kitô, Chiên Thiên Chúa, Đấng đã hiến
tặng chính mình như một vật hiến tế đền tội để cứu chuộc tội
lỗi. Tôi tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể với tràn đầy cảm giác biết
ơn vì tình yêu vô biên này của Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta chính Con
Một yêu dấu của mình chịu đóng đinh và đã sống lại.
3. Cầu Nguyện
a) Thánh Vịnh 32 (31):
Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha
thứ,
người có tội mà được khoan dung.
Hạnh phúc thay, người CHÚA không hạch tội,
và lòng trí chẳng chút gian tà.
Bao lâu con lặng thinh không thú lỗi,
thì gân cốt rã rời, cả ngày con gào thét.
Vì ngày đêm con bị tay Ngài đè nặng,
nên sức lực hao mòn, như bị nắng mùa hè thiêu đốt.
Bởi thế, con đã xưng tội ra với Ngài,
chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con.
Con tự nhủ: "Nào ta đi thú tội với Chúa,"
và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con.
Chính Chúa là nơi con ẩn náu,
giữ gìn con khỏi bước ngặt nghèo.
Khắp bốn bề, Chúa làm trổi vang lên
những khúc ca mừng con được giải thoát.
Hỡi những người công chính,
hãy vui lên trong CHÚA, hãy nhảy mừng.
Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo.
người có tội mà được khoan dung.
Hạnh phúc thay, người CHÚA không hạch tội,
và lòng trí chẳng chút gian tà.
Bao lâu con lặng thinh không thú lỗi,
thì gân cốt rã rời, cả ngày con gào thét.
Vì ngày đêm con bị tay Ngài đè nặng,
nên sức lực hao mòn, như bị nắng mùa hè thiêu đốt.
Bởi thế, con đã xưng tội ra với Ngài,
chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con.
Con tự nhủ: "Nào ta đi thú tội với Chúa,"
và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con.
Chính Chúa là nơi con ẩn náu,
giữ gìn con khỏi bước ngặt nghèo.
Khắp bốn bề, Chúa làm trổi vang lên
những khúc ca mừng con được giải thoát.
Hỡi những người công chính,
hãy vui lên trong CHÚA, hãy nhảy mừng.
Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo.
b) Lời nguyện kết
Lạy Chúa, Đấng ban thưởng cho kẻ công
chính và sẽ không chối từ tha thứ cho kẻ tội lỗi biết ăn năn, xin hãy lắng nghe
lời khấn xin của chúng con: xin cho việc khiêm hạ xưng thú những lỗi
phạm của chúng con có thể nhận được lòng thương xót của Chúa.
4. Chiêm Niệm
Chiêm niệm có nghĩa là biết làm thế nào
để gắn bó với tất cả tâm hồn và lòng trí của mình vào Chúa, Đấng mà qua Ngôi
Lời của Người biến đổi chúng ta trở thành những con người mới, luôn tuân theo
thánh ý Người. “Bây giờ các con đã biết những điều này, nếu các con
thực hành tương xứng, thì thật phúc cho các con!” (Ga 13:17)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét