07/03/2016
Thứ hai tuần 4 Mùa Chay
Bài Ðọc
I: Is 65, 17-21
"Thiên hạ sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và
than van nữa".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Thiên Chúa phán: "Này Ta tác tạo trời mới,
đất mới; người ta sẽ không còn nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ
vãng nữa. Nhưng các ngươi hãy hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các
việc Ta tác tạo, vì đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân tộc vui mừng.
Ta sẽ hân hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ đây người ta sẽ
không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu,
không còn người già chết sớm nữa, vì người chết trăm tuổi cũng còn gọi là chết
trẻ, người không sống đến trăm tuổi, kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất nhà cửa và
cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho và ăn trái nho".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11e-12a và 13b
Ðáp: Lạy
Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải
thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn
con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.
2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy
cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng
lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng
sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy
Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc
nhạc cho con, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời.
- Ðáp.
Câu Xướng
Trước Phúc Âm: Lc 15, 18
Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng:
Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha.
Phúc
Âm: Ga 4, 43-54
"Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính
Người đã nói: "Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương
mình". Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến
tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.
Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước
thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai
đang đau liệt. Ðược tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người
và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông
không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không
tin". Viên quan chức trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước
khi con tôi chết". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi".
Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.
Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo
tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa:
"Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt". Người cha nhận ra là đúng giờ đó
Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến
ông đều tin. Ðó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về
Galilêa.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Chữa Con Vệ Sĩ
Ông giám đốc xưởng kỹ nghệ nơi anh Sorny làm là một
người không tin có Thiên Chúa và cũng chẳng tin vào tin thần trách nhiệm của
các công nhân trong xưởng. Vào một buổi sáng nọ, hơn 1,000 công nhân trong xưởng
được thông báo là ông giám đốc lên đường đi công tác nơi xa, mà sớm lắm thì
cũng một tháng sau ông mới trở về được. Nhưng tối đến, ông giám đốc âm thầm trở
về xưởng.
Sáng hôm sau, ông đứng trên văn phòng ở lầu hai,
quan sát các công nhân làm việc. Bộ mặt thật của mỗi người đều bị lộ. Ai ai
cũng lười biếng, làm việc qua loa, câu giờ. Duy chỉ có một anh công nhân lúc
nào cũng làm việc tận tụy hăng say. Tên anh là Sorny, người Công giáo duy nhất
trong xưởng. Anh Sorny được gọi lên văn phòng, ông giám đốc tươi cười nói với
anh: "Anh Sorny! Tôi hết lòng ngợi khen anh. Anh là một công nhân tốt. Tôi
không thấy đức tin của anh, nhưng nhìn qua công việc lao động và thái độ sống của
anh, tôi cũng hiểu được phần nào về đời sống đạo của anh". Vài tháng sau,
các công nhân trong xưởng nghe tin ông giám đốc bắt đầu học giáo lý Công giáo.
Anh chị em thân mến!
Ðức tin sống thật có sức mạnh khơi dậy lòng tin đưa
anh chị em trở về nhìn nhận và tôn vinh Thiên Chúa. Trên con đường canh tân của
Mùa Chay này, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống đức tin của mình. Tôi thật sự
đang cố gắng để sống đức tin trong hoàn cảnh cụ thể, hay tôi không còn màng chi
đến đức tin nữa? Hoặc tôi chỉ còn là một người có tên gọi, có danh hiệu bên
ngoài là người Kitô hữu mà thôi. Nếu như vậy thì có thể chúng ta sống thua xa
những anh chị em không tin Chúa Kitô. Do đó, chúng ta không còn nhậy cảm trước
những thực tại thiêng liêng, không còn mộ mến đối với những giá trị đẹp dẫn đưa
con người đến cùng Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến dấu chỉ kỳ diệu Chúa
Giêsu thực hiện cho một quan chức ngoại giáo. Ðó là việc Chúa Giêsu chữa lành
con của viên chức này, khiến cho ông và toàn thể gia quyến tin nhận Chúa.
Ðể thử thách lòng tin của người chạy đến với mình,
Chúa Giêsu muốn làm nổi bật thái độ sẵn sàng của viên quan chức. Ông mong đợi
Chúa Giêsu đáp lại bằng cách đích thân Chúa đến nhà ông để chữa lành người con
của ông đang bị đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đáp lại bằng cách khác, Ngài chỉ phán
một lời: "Ông hãy về đi, con ông đã mạnh khỏe rồi". Liệu chúng ta có
sẵn sàng nghe Lời Chúa dạy như viên quan ngoại giáo này không?
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác
giả tập sách "Ðường Hy Vọng" mời gọi mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm
lại đức tin của mình như sau:
Xem hành động của con, phản ứng của con, đủ biết đức
tin của con sống động hay là một đức tin nhãn hiệu. Hãy có một đức tin sắt đá,
con sẽ làm được tất cả. Vì mỗi lần làm phép lạ thì Chúa hỏi: "Con có tin
không?"; "Ðức tin của con chữa con được lành". Con đừng bao giờ
mãn nguyện với một đức tin lý thuyết và hình thức, nhưng phải sống đức tin.
Lạy Chúa, xin hãy đến củng cố đức tin còn non yếu của
con. Xin thương giúp con nhìn thấy sự hiện diện và tác động của Chúa trong cuộc
sống hằng ngày, để con được trung thành theo Chúa đến cùng. Amen.
Veritas
Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Hai Tuần IV MC
Bài
đọc: Isa 65:17-21; Jn 4:43-54.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin vào Thiên Chúa có thể làm được
mọi sự.
Có một sự khác biệt to lớn giữa người có và không có
niềm tin: Người có niềm tin luôn lạc quan hy vọng, ngay cả trong những lúc tăm
tối nhất của cuộc đời, như khi phải sống trong đau khổ, bệnh tật, hay phải đối
diện với thần chết. Người không có niềm tin sống mà không biết hướng về đâu. Họ
không có nghị lực để đương đầu với đau khổ, bệnh tật, và đứng trước cái chết, họ
không dễ dàng chấp nhận. Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự khác biệt của
những con người đặt niềm tin nơi Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, tuy sống cực khổ trong nơi lưu đày,
tiên-tri Isaiah tin tưởng Chúa sẽ xóa sạch mọi tang thương quá khứ, để sáng tạo
một trời mới đất mới. Như Ngài đã xóa sạch tội lỗi nhân lọai trong trận Lụt Hồng
Thủy, Ngài sẽ xóa sạch tội lỗi và cho dân hồi hương để tái thiết quốc gia và
xây dựng lại Đền Thờ. Hơn nữa, tiên-tri Isaiah cũng nhìn thấy trước ngày Đấng
Thiên Sai sẽ tới và gánh tội cho con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa lành
người con trai của viên sĩ quan Dân Ngọai, không bằng việc đặt tay, nhưng bằng
đức tin của người cha. Viên sĩ quan năn nỉ Chúa Giêsu về nhà chữa trị cho con
ông, Chúa Giêsu bảo: “Ông về đi, và con ông sống!” Ông tin tưởng trở về; và
đang khi còn trên đường, đầy tớ của ông chạy ra báo tin con ông đã khỏi bệnh
vào đúng thời gian mà Chúa Giêsu hứa với ông.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới.
1.1/ Thiên Chúa sẽ sáng tạo mọi sự mới: “Này đây Ta
sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong
tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính
Ta sáng tạo.” Cụm từ “trời mới đất mới” được dùng nhiều trong các Sách Ngọai
Thư và Tân Ước (x/c 2 Edr 6:16, 7:30, 2 Bar 32:16, I Enoch 91:16, 2 Cor 5:17, 2
Pet 3:10-13, Rev 21:1). Nghĩa của cụm từ thay đổi: Trong Thư Corintô, Thánh
Phaolô muốn nói trong Chúa Kitô, con người trở thành một tạo vật mới, con người
cũ cùng với tính hư nết xấu đã qua đi, con người mới cùng với các nhân đức xuất
hiện nhờ ân sủng của Đức Kitô. Trong Thư Phêrô II và Sách Khải Huyền, “trời mới
đất mới” chỉ những gì sẽ xảy ra sau Ngày Cánh Chung, nơi công lý của Thiên Chúa
ngự trị. Theo tiên-tri Isaiah, “trời mới đất mới” chỉ cả hai: những gì mới được
tái tạo sau Thời Lưu Đày và những gì mới do Đấng Thiên Sai mang lại.
Jerusalem sẽ trở nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành
nỗi vui mừng: Đền Thờ sẽ được tái thiết và dân Chúa sẽ lại có cơ hội thờ phượng
Thiên Chúa. Jerusalem cũng là nơi Dân Ngọai sẽ qui tụ về để cùng hợp với dân
Do-Thái làm thành dân của Thiên Chúa. Như một người Cha, Thiên Chúa sẽ hoan hỷ
vì Jerusalem, khi nhìn thấy con cái Ngài được qui tụ thành một mối.
1.2/ Thiên Chúa sẽ xóa sạch tất cả đau thương của
quá khứ: Dân chúng khóc than vì chết chóc trong thời chiến tranh và khổ cực trong
Thời Lưu Đày; nhưng Thiên Chúa sẽ xóa sạch tất cả. Ngài hứa với dân 3 điều sau
đây:
- Họ sẽ không còn phải chịu đau khổ của kiếp lưu đày;
- Họ sẽ không còn phải chịu đau khổ của kiếp lưu đày;
- Họ sẽ không còn sợ chết vì chiến tranh;
- Họ sẽ được hưởng cuộc sống an tòan: “Người ta sẽ
xây nhà và được ở, sẽ trồng nho và được ăn trái.”
2/
Phúc Âm: "Ông cứ về đi, con ông sống."
Khỏang cách từ Capernaum tới Cana khỏang 20 dặm, một
khỏang cách dài cho người đi bộ. Đi và trở về ngay phải mất khỏang 20 tiếng. Có
một trình thuật tương tự trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 8:5-13, Lk 7:1-10). Tuy
nhiên, có sự khác biệt giữa 2 trình thuật: Trong Tin Mừng Nhất Lãm, viên sĩ
quan nói với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin
Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh.” Trong trình thuật của
Gioan, Chúa bảo: “Ông cứ về đi, con ông sống.” Chúng ta có thể học được nhiều
điều qua thái độ của viên sĩ quan này:
(1) Khiêm nhường: Viên sĩ quan, tiếng Hy-lạp dùng chữ
“basilikos” có nghĩa là “ông vua nhỏ.” Có nhiều bức tường ngăn cách giữa Chúa
Giêsu và viên sĩ quan này:
- Bức tường ngăn cách xã hội: Ông là người có địa vị
cao trong hòang gia, khiêm nhường đi bộ đến cầu xin với Chúa Giêsu, một người
không có địa vị trong xã hội.
- Bức tường ngăn cách giữa người Do-thái và Dân Ngọai:
Người Do-thái không muốn có bất kỳ liên hệ gì với Dân Ngọai. Ông biết ông có thể
bị mất mặt nếu Chúa Giêsu từ chối.
Tuy nhiên, lòng thương con đã thắng vượt tất cả, ông
sẵn sàng hy sinh mọi sự để có thể cứu vãn sự sống của con ông.
(2) Vượt qua thử thách: Đức Giêsu nói với ông:
"Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin
đâu!" Ngài dùng số nhiều “các ông,” có lẽ muốn nói với ông và những người
chung quanh. Chúa Giêsu muốn nói lên một thực tại của người Do-thái: họ sẽ
không tin khi không nhìn thấy dấu lạ. Đồng thời, Chúa Giêsu cũng muốn cho những
người Do-thái xem niềm tin không dựa trên việc chứng kiến phép lạ của viên sĩ
quan Dân Ngọai. Khi viên sĩ quan năn nỉ van xin Chúa Giêsu xuống Capernaum chữa
bệnh cho con ông, Chúa thử đức tin của ông, Ngài không đi với ông, nhưng bảo:
"Ông cứ về đi, con ông sống." Người Do-thái chắc phải ngạc nhiên vì
niềm tin của ông khi thấy: “Ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình, và ra về.”
Trong trình thuật của Matthêu, Chúa Giêsu khen viên sĩ quan: “Tôi bảo thật các
ông: Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế.”
(3) Đức tin được kiện tòan bởi lý trí: Ông còn đang
đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con ông sống rồi. Đối với một người
vô tâm, họ sẽ vui mừng khi biết con còn sống và quên hết mọi sự khác; nhưng
viên sĩ quan còn đang sống trong tiến trình của đức tin, nên ông hỏi họ con ông
đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: "Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì
cậu hết sốt."
Ông nhận ra là vào đúng giờ đó, Đức Giêsu đã nói với
mình: "Con ông sống." Đức tin của ông vào Chúa Giêsu được kiện tòan.
Ngài hứa với ông và lời hứa đã thành sự thực, ông tin vào Ngài.
(4) Ông và cả nhà đều tin: Không dễ cho một viên sĩ
quan công khai thú nhận niềm tin vào Chúa Giêsu vì sợ ảnh hưởng của dư luận.
Nhưng viên sĩ quan này đã có một niềm tin được sự trợ giúp của lý trí. Ông muốn
không những chỉ có ông, nhưng còn cả nhà tin vào Chúa Giêsu. Điều này thông thường
đối với dân thời đó: Gia trưởng có quyền quyết định mọi chuyện trong nhà. Khi
nhận ra điều gì tốt, người gia trưởng có quyền bắt tất cả người trong nhà phải
làm theo. Ví dụ, Tổ-phụ Abraham bắt mọi người trong nhà phải cắt bì.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa không muốn nhớ tới dĩ vãng tội lỗi và
đau thương của con người. Ngài luôn mời gọi chúng ta nhìn về tương lai và hy vọng
bước tới. Như một người Cha, Ngài mừng vui khi thấy con cái được vui vẻ, hạnh
phúc.
- Thiên Chúa muốn con người luôn tin tưởng tuyệt đối
nơi Ngài, ngay cả những lúc chưa nhìn thấy kết quả, hay những đêm tăm tối của
cuộc đời; vì những gì Thiên Chúa đã hứa, Ngài sẽ thực hiện.
Lm.
Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
07/03/16 THỨ HAI TUẦN 4
MC
Th. Pe-pê-tu-a và Phê-li-xi-ta, tử đạo
Ga 4,43-54
Th. Pe-pê-tu-a và Phê-li-xi-ta, tử đạo
Ga 4,43-54
Suy niệm: Thoạt
đầu, có lẽ viên sĩ quan này chỉ xin cầu may. Có lẽ ông đã tìm thầy chạy thuốc
nhưng tất cả đều đã bó tay. “Hữu sự vái tứ phương”, nghe nói về Chúa Giê-su và
những “điềm thiêng dấu lạ” Ngài thực hiện, ông đánh liều đến xin. Biết đâu, may
mà được. Ít ra, ông cũng đặt một niềm tin nào đó vào Đức Giê-su, dù đó mới chỉ
là ‘một thoáng đức tin’. Chúa Giê-su chấp nhận đức tin còn non yếu của ông, để
nâng cấp thành niềm tin đích thực: Ngài không đến Ca-phác-na-um để chữa con ông
theo như ông yêu cầu, nhưng đã thanh luyện đức tin của ông chỉ bằng vỏn vẹn một
lời, Lời có sức cứu sống, Lời có quyền năng sáng tạo: “Ông cứ về đi, con ông sống”.
Ông đã tin không phải vì thấy những “điềm thiêng dấu lạ” nữa, nhưng chỉ dựa vào
Lời Chúa mà thôi.
Mời Bạn: Đức
Giê-su mời gọi chúng ta ngày càng trưởng thành hơn trong đức tin, để chúng ta
có thể ra Chúa một cách nhanh chóng và rõ ràng dù những dấu chỉ khả giác được
tinh giản đến mức tối thiểu: qua Lời Chúa trong Thánh Kinh và qua hình
Bánh-Rượu nơi Bí tích Thánh Thể.
Chia sẻ: Người
ta không thể dùng phương pháp thực nghiệm để phân tích các mầu nhiệm, đối tượng
của đức tin. Có phải vì thế mà đức tin trở nên mơ hồ, vô lý và không đáng tin
hay không?
Sống Lời Chúa: Bạn
hãy làm một cử chỉ diễn tả niềm tin của mình: hôn kính sách Lời Chúa hoặc bái
chào Mình Thánh Chúa một cách thật cung kính.
Cầu nguyện: Lặp lại nhiều lần lời nguyện tắt: “Lạy Chúa, xin củng cố niềm tin còn yếu kém
của chúng con.”
Con ông sống
Đời chúng ta cũng có những
lúc tưởng như tuyệt vọng, khi ta thấy tuột khỏi tay mình những gì rất quý mà
mình muốn ôm giữ. Hãy nhìn lên thánh giá để khỏi mất lòng tin.
Suy
niệm:
Trong
các sách Tin Mừng, chúng ta thường gặp nỗi sợ hãi, lo lắng
của
những bậc cha mẹ trước căn bệnh hiểm nghèo của con mình.
Ông
trưởng hội đường Giairô khẩn khoản nài xin Đức Giêsu
“Con
bé nhà tôi gần chết. Xin Thầy đến và đặt tay trên nó” (Mc 5, 23).
Bà
dân ngoại gốc Canaan kêu lên: “Xin thương xót tôi,
vì
con gái của tôi bị quỷ ám trầm trọng lắm” (Mt 15, 22).
Người
cha có đứa con bị động kinh cũng nài van Đức Giêsu:
“Xin
Thầy chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi” (Mc 9, 22).
Trong
bài Tin Mừng hôm nay viên sĩ quan, có lẽ của vua Hêrôđê, cũng năn nỉ:
“Xin
Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất !” (c. 49).
Bệnh
tật và cái chết đang đe dọa đứa con khiến cha mẹ khổ đau và bối rối.
Họ
không muốn mất đứa con đã trở nên một phần của đời họ.
Họ
vội vã đến với Đức Giêsu như đến với một nơi có thể cấp cứu kịp thời.
Họ
tin vào sự hiện diện của Ngài, vào sự chữa lành mà Ngài đem lại.
Lòng
tin của viên sĩ quan đã lớn lên từ từ.
Ông
tin nhờ nghe người ta nói về những gì Đức Giê su đã làm ở vùng Giuđê.
Ông
gặp Ngài vì tin Ngài có thể chữa đứa con trai đang nguy tử của ông
bằng
cách đi với ông về nhà ở Caphácnaum (c. 49).
Nhưng
sau đó ông tin vào uy quyền của lời Đức Giêsu :
“Ông
cứ về đi, con ông sống!”
nên
ông vâng lời đi về nhà một mình (c.50).
Chẳng
cần sự hiện diện, chỉ cần lời của Ngài nói từ xa cũng đủ con ông khỏi bệnh.
Lòng
tin của ông được vững vàng hơn khi ông kiểm chứng và biết rõ
chính
vào giờ Ngài nói thì con mình được chữa lành (c. 53).
Bây
giờ hẳn ông đã tin trọn vẹn vào chính con người Đức Giêsu.
Lòng
tin ấy lôi cuốn cả gia đình ông tin theo.
Sau
khi dấu lạ xảy ra, không thấy nói gì về thái độ ngạc nhiên của gia quyến.
Kết
quả tuyệt vời của dấu lạ là chính lòng tin của mọi người trong nhà.
Họ
sẽ được ông kể cho nghe từng chi tiết câu chuyện gặp gỡ.
Trong
tiệc cưới ở Cana, lòng tin của Đức Maria đã dẫn đến dấu lạ đầu tiên.
Dấu
lạ này đã khiến các môn đệ Đức Giêsu tin vào Ngài (Ga 2, 11).
Trong
dấu lạ thứ hai này ở Cana, lòng tin của viên sĩ quan, của một người cha,
đã
dẫn đến lòng tin của những người thân thuộc.
Lòng
tin thật sự bao giờ cũng có khả năng thu hút, lôi kéo, lan rộng.
Ngay
trước đoạn Tin Mừng này,
chuyện
người phụ nữ Samari cũng cho ta thấy điều đó.
Từ
lời chứng của chị, dân thành Xykha đã tin vào Đức Giêsu (Ga 4,39).
Đời
chúng ta cũng có những lúc tưởng như tuyệt vọng,
khi
ta thấy tuột khỏi tay mình những gì rất quý mà mình muốn ôm giữ.
Hãy
nhìn lên thánh giá để khỏi mất lòng tin.
Hãy
chấp nhận đi vào những nẻo đường lạ lẫm mà Chúa đang mời gọi.
Như
viên sĩ quan, ta sẽ gặp tin vui ngay trên đường về nhà.
Cầu
nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây
là niềm tin của con.
Con
tin Cha là Tình yêu,
và
mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả
những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả
những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả
những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con
vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con
tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng
để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng
có một đốm lửa của sự thiện,
được
vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ
một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng
đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế
giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự
Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang
chuyển mình tiến về với Cha,
qua
trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và
sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt
qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi
dị biệt, thành kiến,
để
cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà
về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
07
Tháng Ba
Dachau
Dachau:
đó là một địa danh mà dân Âu châu không bao giờ xóa bỏ khỏi ký ức của họ. Nơi tập
trung và sát hại hàng triệu người Do Thái dưới thời Ðức Quốc xã, Dachau vừa là
hỏa ngục của hận thù, độc ác nhưng cũng là khung trời rực sáng những vì sao của
yêu thương, tin tưởng.
Edmond
Michelet, văn sĩ Pháp bị giam tại đây và sau này trở thành bộ trưởng Tư Pháp,
đã viết lại ký sự của những ngày bị giam trong địa ngục Dachau. Ông kể lại rằng:
mỗi buổi sáng, các linh mục bị giam tù lén lút cử hành Thánh lễ. Các tù nhân
Công giáo, bất chấp mọi đe dọa đến mạng sống, chen chúc sát cánh bên nhau để
tham dự Thánh lễ.
Phẩm
phục của linh mục chủ tế chỉ là một mảnh áo tù rách rưới thảm thương. Cái tách
uống nước được dùng làm chén thánh, hộp thuốc ho được dùng làm bình đựng bánh lễ.
Sau
Thánh lễ, một số người được chia công tác mang Mình Thánh đến cho những người
đang hấp hối được giam riêng trong phòng đặc biệt... Edmond Michelet kể lại rằng:
hình ảnh ông vẫn luôn ghi nhớ đó là nụ cười rạng rỡ của những người đang tiến đến
cõi chết.
Vào
khoảng cuối năm 1944, một nghi lễ đặc biệt đã diễn ra ngay trong trại Dachau. Một
phó tế người Ðức, bị lao phổi, đang hấp hối... Các linh mục đang bị giam bèn
nghĩ đến chuyện phong chức linh mục cho thầy... Một vị giám mục cùng bị giam đã
chấp thuận tiến hành nghi thức. Người ta làm mọi cách để che mắt người lính
canh. Một người Do Thái đã chấp nhận chơi đàn vĩ cầm để đánh lạc hướng sự chú ý
của công an, vị giám mục người Pháp, trong bộ đồng phục rách rưới của tù nhân,
đã phong chức linh mục cho một chủng sinh người Ðức.
Vị
tân linh mục đã cử hành Thánh lễ đầu tiên ít ngày sau đó. Và đó cũng là Thánh lễ
cuối cùng của Ngài... Trong quyển nhật ký của Ngài, người ta đọc thấy hai chữ:
Tình Yêu, Ðền Bù...
Tình
yêu mạnh hơn sự chết. Chân lý này sáng ngời một cách mãnh liệt ngay trong những
nơi mà hận thù chết chóc ngự trị như luật tối thượng của cuộc sống. Hận thù
càng dâng cao, chết chóc càng đe dọa người ta càng thấy những tấm gương của hy
sinh, xả kỷ và tin tưởng.
Dạo
tháng 6 năm 1989, một số linh mục, giám mục người Ba Lan đã hành hương đến trại
tập trung Dachau để kỷ niện 50 năm ngày thế chiến thứ hai bùng nổ và nhất là để
tưởng niệm gương hy sinh của gần 3,000 linh mục thuộc 9 quốc tịch khác nhau bị
giam giữ tại đây. Trên ngôi mồ chôn lớn nhất, một Thánh lễ đã được cử hành
không phải để gợi lại hận thù, nhưng họ còn được mời gọi để chỉ thấy Yêu Thương
và tha thứ giữa hận thù.
Ðó
cũng chính là lời mời gọi của Ðức Kitô trong Thánh lễ mà Giáo hội cử hành mỗi
ngày. Chúng ta không tưởng niệm những độc ác dã man trong cái chết của Chúa,
chúng ta không gợi lại hận thù trong cuộc tử nạn của Ngài, nhưng chỉ nhìn thấy
Yêu thương và tha thứ vô bờ của Ngài. Ngài mời gọi chúng ta hãy chỉ nhìn thấy
yêu thương và tha thứ giữa hận thù, hãy múc lấy yêu thương và tha thứ để đáp trả
lại hận thù...
Lẽ Sống
Lectio Divina: Gioan 4:43-54
Thứ Hai, 7 Tháng 3,
2016
Thứ Hai Tuần IV Mùa Chay
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa, là Thiên
Chúa chúng con, Chúa Cha toàn năng,
Chúa muốn chúng con
đừng nhìn về quá khứ
Để hối tiếc và khóc
thương
Mà hy vọng vào tương
lai,
Trong đất mới và trời
mới.
Xin Chúa ban cho chúng
con một niềm tin vững chắc
Vào Con Chúa là Đức
Giêsu Kitô,
Xin Chúa đừng chấp
những thiếu sót của thời đại chúng con,
Xin cho chúng con có
được niềm tin vào tương lai,
Mà Chúa muốn chúng con
xây dựng
Cùng với Con Chúa, là
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc Âm – Gioan 4:43-54
Sau hai ngày, Chúa Giêsu bỏ Samaria đi
Galilêa. Chính Người đã nói: “Không vị tiên tri nào được
kính nể nơi quê hương mình”. Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón
tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong
dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.
Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người
đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở
Caphárnaum có người con trai đang đau liệt. Được tin Chúa Giêsu đã
bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp
chết. Chúa Giêsu bảo ông: “Nếu các ông không thấy những
phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin”. Viên
quan chức trình lại Người: “Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con
tôi chết”. Chúa Giêsu bảo ông: “Ông hãy về đi, con ông
mạnh rồi”. Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về. Khi
xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã
mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ
thưa: “Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt”. Người cha nhận
ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: “Con ông mạnh rồi”, nên ông và
toàn thể gia quyến ông đều tin. Đó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã
làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.
3. Suy Niệm
- Chúa Giêsu
đã rời đất Galilêa, và hướng về xứ Giuđêa, để đi lên Giêrusalem trong dịp lễ
(Ga 4:45) và, đi ngang qua vùng Samaria, Người đang quay trở lại hướng về
Galilêa (Ga 4:3-4). Người Do Thái theo phong tục không được phép đi
ngang qua vùng Samaria, và thậm chí họ không thể giao thiệp với người
Samaritanô (Ga 4:9). Chúa Giêsu đã không màng đến những quy tắc ngăn
trở tình bằng hữu và đối thoại. Người ở lại Samaria vài ngày và
nhiều người đã hoán cải (Ga 4:10). Sau đó, Chúa đã quyết định quay
trở lại Galilêa.
- Ga 4:43-46a: Chuyến
trở về Galilêa. Mặc dù Chúa Giêsu đã biết rằng người dân Galilêa đã
có phần nào nghi ngại mình, Người vẫn muốn trở về quê nhà của mình. Có lẽ,
tác giả Gioan nói về việc Chúa Giêsu đã bị đón tiếp, chấp nhận cách tệ bạc ra
sao ở làng Nagiarét miền Galilêa. Chính Chúa Giêsu đã thốt lên
rằng: “Khôngmột ngôn sứ nào được kính nể tại quê hương
mình” (Lc 4:24). Nhưng giờ đây, trước chứng cớ về những gì
Người đã làm tại Giêrusalem, người dân Galilêa đổi ý và đón tiếp Người nồng
nhiệt. Sau đó Chúa Giêsu trở lại Cana nơi mà Người đã làm “phép lạ”
đầu tiên (Ga 2:11).
- Ga 4:46b-47: Lời
cầu xin của vị quan chức triều đình. Đây là trường hợp của một dân
ngoại. Một thời gian ngắn trước đây, ở Samaria, Chúa Giêsu đã nói
chuyện với một người phụ nữ Samaritanô, một người dị giáo đối với người Do
Thái, người mà Chúa Giêsu đã mặc khải về việc Người là Đấng Thiên Sai (Ga
4:26). Và giờ đây, tại Galilêa, Người đón nhận một người ngoại giáo,
viên quan của nhà vua, người đang cầu xin sự giúp đỡ cho người con đau liệt của
mình. Chúa Giêsu không hạn chế chỉ giúp đỡ cho những ai cùng dòng giống
với Người, cũng chẳng giới hạn vào những ai cùng tôn giáo với
Chúa. Người có tinh thần đại kết và chấp nhận tất cả mọi
người.
- Ga
4:48: Câu trả lời của Chúa Giêsu cho vị quan của nhà
vua. Vị quan muốn Chúa Giêsu đi với ông ta về nhà để chữa bệnh cho
con của ông. Chúa Giêsu bảo ông: “Nếu các ông không thấy
những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không
tin!” Một câu trả lời cay nghiệt và kỳ lạ. Tại sao Chúa
Giêsu lại trả lời theo cách này? Có điều gì sai trái với lời khẩn
cầu của viên quan đó không? Chúa Giêsu muốn đạt được điều gì qua câu
trả lời này? Chúa Giêsu muốn giảng dạy về đức tin của chúng ta phải
như thế nào. Viên quan sẽ chỉ tin nếu Chúa Giêsu đi cùng với ông đến
nhà của ông ta. Ông muốn trông thấy Chúa Giêsu chữa bệnh. Nói
chung, đây là thái độ mà tất cả chúng ta đều có. Chúng ta không ý
thức được việc kém đức tin của chúng ta.
- Ga
4:49-50: Viên quan triều đình lặp lại lời khẩn cầu của mình và Chúa
Giêsu lặp lại câu trả lời. Mặc kệ câu trả lời của Chúa Giêsu, viên
quan đã không im lặng và vẫn lặp lại cùng một lời cầu xin: “Thưa
Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết!” Chúa Giêsu vẫn tiếp
tục giữ lập trường cùa mình. Người không đáp ứng lời cầu xin và
không đi với viên quan về nhà ông ta và lặp lại cùng một câu trả lời, nhưng
được trình bày theo một cách khác: “Ông hãy về đi, con ông mạnh
rồi”. Cả hai lần trả lời, lần thứ nhất cũng như lần thứ hai, Chúa
Giêsu đòi hỏi đức tin, đức tin mạnh mẽ. Người đòi hỏi viên quan phải
tin rằng con ông đã được khỏi bệnh. Và phép lạ thực sự đã xảy
ra! Không nhìn thấy bất kỳ phép lạ nào, cũng chẳng có điềm báo,
người ấy tin vào lời của Chúa Giêsu và trở về nhà. Điều đó không
phải là dễ dàng. Đây chính là phép lạ thực sự của đức tin; tin mà
không có bất kỳ một lời bảo đảm nào khác, ngoại trừ Lời của Chúa
Giêsu. Lý tưởng là tin vào Lời của Chúa Giêsu, ngay cả khi không
thấy (xem Ga 20:29).
- Ga
4:51-53: Kết quả của lòng tin vào Lời của Chúa Giêsu. Khi
viên quan đang trên đường trở về nhà mình, gia nhân của ông trông thấy ông và
chạy ra đón để báo tin cho ông biết rằng con ông đã được mạnh khỏe, rằng con
ông còn sống. Ông hỏi họ giờ giấc con ông được khỏi và khám phá ra rằng đó
chính là lúc mà Chúa Giêsu bảo ông: “Con ông mạnh
rồi!” Ông đã được củng cố trong lòng tin của mình.
- Ga
4:54: Bản tóm lược được trình bày bởi Thánh Sử
Gioan. Gioan kết luận bằng câu nói: “Đó là dấu lạ
mới, dấu lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm”. Gioan ưa nói về dấu lạ
hơn là nói về phép lạ. Chữ dấu lạ gợi nhớ lại điều gì đó tôi nhìn
thấy với đôi mắt của mình, nhưng chỉ có đức tin mới có thể cho tôi khám phá ra
ý nghĩa sâu xa của nó. Đức tin giống như tia quang tuyến
X: nó làm cho người ta khám ra những gì mắt trần không thể
thấy.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Bạn sống
đời sống đức tin của mình như thế nào? Bạn có lòng tin vào Lời
Chúa hay bạn chỉ tin vào các phép lạ và các kinh nghiệm cảm được từ giác quan?
- Chúa Giêsu chấp
nhận những người lạc giáo và ngoại kiều. Còn tôi, tôi đối xử với
những người ấy như thế nào?
5. Lời nguyện
kết
Hỡi những kẻ tín
trung, hãy đàn ca mừng CHÚA,
Cảm tạ thánh danh
Người.
Người nổi giận, giận
trong giây lát,
Nhưng yêu thương,
thương suốt cả đời.
Lệ có rơi khi màn đêm
buông xuống,
Hừng đông về đã vọng
tiếng hò reo.
(Tv 30:4-5)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét