16/03/2016
Thứ tư tuần 5 Mùa Chay
Bài Ðọc
I: Ðn 3, 14-20. 91-92. 95
"Người đã sai thiên thần của Người đến giải
thoát các tôi tớ Người".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng:
"Hỡi Sidrach, Misach và Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần
của ta và lạy tượng vàng ta đã dựng không? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì
lúc nghe tiếng kèn, tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí,
các ngươi phải sấp mình thờ lạy tượng ta đúc. Nhưng nếu các ngươi không chịu sấp
mình thờ lạy, lập tức các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa cháy bừng. Và coi Chúa nào
sẽ cứu thoát các ngươi khỏi tay ta". Sidrach, Misach và Abđênagô trả lời với
vua Nabucôđônôsor rằng: "Tâu lạy vua, chúng tôi không cần trả lời cùng vua
về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò
lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn
thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và
không lạy tượng vàng của vua dựng lên".
Bấy giờ vua Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc,
nhìn thẳng vào Sidrach, Misach và Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường
gấp bảy lần, và truyền lệnh các tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach,
Misach và Abđênagô, và ném vào lò lửa cháy bừng.
Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và
nói với các triều thần rằng: "Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò
lửa sao?" Các ông trả lời với vua rằng: "Tâu lạy vua, thật có".
Vua nói: "Ðây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà
không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa". Vua
Nabucôđônôsor nói tiếp: "Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô, Ðấng
đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy Người, không chịu
vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ
lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56
Ðáp: Chúa
đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con,
Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng
thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang
Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa,
đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự
trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và
tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
Câu Xướng
Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26
Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai
tin Ta, sẽ không chết đời đời".
Phúc
Âm: Ga 8, 31-42
"Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các
ngươi thực sự được tự do".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã
tin nơi Ngài rằng: "Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là
môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi".
Họ thưa lại Người: "Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô
lệ ai cả. Tại sao ông lại nói "Các ngươi sẽ được tự do"?". Chúa
Giêsu trả lời rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội,
thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh
viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự
do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết
Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy
nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các
ngươi". Họ đáp lại: "Cha chúng tôi chính là Abraham!" Chúa Giêsu
nói: "Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc
của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết
sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang
làm việc của cha các ngươi!" Họ lại nói: "Chúng tôi không phải là những
đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!" Chúa Giêsu nói:
"Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên
Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Nô Lệ Tội Lỗi
Khi thi hành bổn phận của vị Khâm Sứ Tòa Thánh tại
Hungary, Ðức Tổng Giám Mục Angelo Ronalli nhận được một bức thư nặng lời chê
bai và quở trách Ngài về mọi mặt do một linh mục gởi cho. Ðọc xong bức thư, Ðức
Tổng Giám Mục Angelo Roncalli không nói một lời, lòng vẫn thao thức yêu thương
vị linh mục đã chỉ trích Ngài.
Thời gian trôi qua, Ngài được phong chức Sứ Thần Tòa
Thánh tại Paris, rồi lên Hồng Y Giáo Chủ ở Pénitria và cuối cùng đắc cử Giáo
Hoàng với danh hiệu là Gioan XXIII. Khi Ngài lên ngôi Giáo Hoàng thì vị linh mục
viết thư chỉ trích Ngài vẫn còn sống. Một hôm, gặp dịp giáo dân trong vùng tổ
chức cuộc hành hương về Rôma để yết kiến Ðức Tân Giáo Hoàng và cũng là vị cựu Tổng
Giám Mục của họ ngày xưa. Vị linh mục nọ cũng đi chung với phái đoàn. Ðến Rôma,
vị linh mục ấy xin được gặp riêng để yết kiến Ðức Gioan XXIII, và lời thỉnh cầu
được chấp nhận.
Sau đây là câu chuyện do chính linh mục ấy thuật lại:
Trong lúc đứng ở phòng khách trên điện cao Vatican để đợi đến phiên vào triều yết
Ðức Thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ đến bức thư chỉ trích Ngài năm xưa. Tôi thầm
nghĩ đã mấy chục năm qua rồi, chắc giờ đây Ðức Thánh Cha không còn nhớ nữa đâu.
Nhưng nếu rủi khi Ngài còn nhớ thì sao? Lòng tôi cảm thấy xao xuyến hồi hộp và
hy vọng Ðức Thánh Cha sẽ tha thứ cho tôi.
Ðang lúc suy nghĩ miên man thì bỗng cánh cửa chợt mở,
linh mục thư ký dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Ðức Thánh Cha niềm nở đưa tay bắt và
mời tôi ngồi. Ngài ân cần hỏi thăm công việc mục vụ của tôi, của giáo phận và
bùi ngùi nhắc đến những người bạn cũ năm xưa bên Hungary. Ngài thương nhớ tất cả,
không trừ một ai và như thể xứ sở của tôi là chính quê hương của Ngài vậy.
Lúc ấy lòng tôi rất khấp khởi, vì chắc Ðức Thánh Cha
đã quên hẳn bức thư hỗn hào ngày xưa. Câu chuyện vẫn tiếp tục trong bầu khí vui
vẻ thân tình. Bỗng tôi thấy Ðức Thánh Cha đưa tay với lấy cuốn Kinh Thánh, Ngài
mở ra để trước mặt tôi bức thư hỗn láo kia. Tôi xấu hổ và sợ hãi, tôi đang lúng
túng với muôn ngàn âu lo thắc mắc, thì Ðức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi cách dịu
dàng và bảo: "Con đừng sợ, Cha không bao giờ giận con đâu? Cha cám ơn con,
Cha cũng là người có những khuyết điểm. Cha ngăn bức thư con viết vào Kinh
Thánh để hằng ngày đọc mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm
còn tồn tại, hoặc xa lánh những lầm lỡ có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần
như thế, Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con".
Anh chị em thân mến!
Ðức Gioan XXIII nổi tiếng là vị Giáo Hoàng hiền lành
và khiêm nhượng. Ngài đã biết tận dụng những lời phê bình chỉ trích để canh tân
đời sống đức tin của mình luôn mãi. Vì những lời khen tặng, nhất là vì lịch sự,
như hậu ý vụ lợi có hại cho sự phát triển tinh thần và nhân cách của người nhận
hơn là làm lợi cho họ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc thấy thái độ
của Chúa Giêsu đối với người Do Thái vừa mới tin vào Ngài. Ngài thấy lòng tin của
họ chưa được trọn vẹn lắm, nên Ngài đã đề nghị với họ những biện pháp thiết thực
để củng cố lòng tin đó. Nhưng Ngài đòi họ cần phải sống Lời Chúa, để cho Lời
Chúa thấm nhập vào trọn cuộc đời họ, để Lời Chúa giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ
tội lỗi. Tuy nhiên, những người Do Thái này chưa có đủ khiêm tốn để chấp nhận đề
nghị của Chúa. Họ tự phụ mình là con cháu của Abraham và không cần ai chỉ dạy
thêm điều chi nữa.
Anh chị em thân mến!
Chúa Giêsu chờ đợi những người Do Thái mới tin Chúa,
như đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe. Hãy noi gương của Thiên Chúa và của
Abraham mà phát triển mối tương quan đức tin với Ngài: "Nếu các ngươi là
con cái của Thiên Chúa Cha, thì chắc chắn các ngươi sẽ yêu mến Ta. Nếu các
ngươi là con cái của Abraham thì các ngươi hãy thi hành công việc của Abraham
mà tin lời Ta".
Vậy, những người Do Thái tự phụ này không thể nào
thăng tiến trên con đường đức tin. Bởi vì họ chỉ mượn danh nghĩa con cái Thiên
Chúa, bà con của Abraham để hưởng lợi mà thôi. Họ cho mình là người trong nhà,
nhưng thực ra họ là những người con xa lạ, người con hoang theo như từ ngữ của
đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác
giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã khuyên chúng ta như sau: Lòng mến
Chúa phải tuyệt đối. Vì như Lời Chúa dạy: "Không ai được làm tôi hai chủ".
Con làm tôi mấy chủ? Mỗi ngày hãy dành riêng ít phút thinh lặng để giúp đời nội
tâm tiến lên. Lâu nay con để dành mấy phút? Con chỉ có một việc quan trọng nhất,
như Maria đã chọn phần tốt nhất là ngồi bên chân Chúa. Nếu con không sống nội
tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là linh hồn các hoạt động của con thì con thấy
nhiều, rõ nhiều rồi, cha miễn nói thêm. Con chỉ có một của ăn là "Thánh ý
Cha", nghĩa là con sống, con lớn lên bằng ý Chúa, con hành động do ý Chúa.
Ý Chúa như thức ăn để con sống lành mạnh. Ngoài ý Chúa, con sẽ chết. Con chỉ có
một giây phút đẹp nhất, giây phút hiện tại sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn.
Ðời con sẽ tuyệt đẹp, nếu con biết thêu dệt những giây phút kết hợp mật thiết với
thánh ý Chúa.
Phải! ý Chúa muốn cho mỗi người chúng ta trong hiện
tại là trở nên những con thảo của Ngài, chứ không phải là những đứa con hoang.
Hãy thi hành công việc của Thiên Chúa. Hãy để cho Lời Ngài thấm nhập trong cả
cuộc sống của mình.
Lạy Chúa, nhiều lúc vì tự phụ, con ỷ lại vào trí
khôn, vào sức riêng của mình để xa tránh Chúa. Xin Chúa thương ban cho con tâm
hồn khiêm tốn hiền lành, để cho Lời Chúa hướng dẫn từng giây phút cuộc đời con.
Amen.
Veritas
Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần V MC
Bài đọc: Dan 3:14-20,
91-92, 95; Jn 8:31-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự thật giải phóng con người.
Con người thường không muốn người khác vạch ra những
điều sai trái của mình, nhất là đối với những người có quyền thế. Nhưng dù sự
thật mất lòng nhưng có sức mạnh giải phóng con người. Nhiều người tưởng mình
đang sở hữu sự thật, nhưng thực ra họ đang làm nô lệ cho sự giả trá. Các Bài Đọc
hôm nay đặt trọng tâm vào việc con người phải tìm ra sự thật, vì sự thật sẽ giải
phóng con người.
Trong Bài Đọc I, Vua Nebuchadnezzar nghĩ các thần do
tay mình dựng nên là thần thật nên bắt ba trẻ Do-thái phải sụp lạy chúng khi nhạc
khí xướng lên; nếu không sẽ quăng chúng vào lò lửa đang cháy. Ba trẻ Do-thái từ
chối vì họ nhất quyết chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Khi chính mắt
nhìn thấy uy quyền của Thiên Chúa từ lò lửa, chính vua Nebuchadnezzar đã khiêm
nhường thú nhận: chỉ có Thiên Chúa của ba trẻ Do-thái thờ là Thiên Chúa thật.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn chỉ cho người Do-thái thấy họ thực sự không phải
là con cái của Abraham, vì họ không làm những gì tổ-phụ Abraham đã làm: tin
Thiên Chúa và đón tiếp các ngôn sứ Ngài gởi tới. Họ không tin những gì Ngài nói
và đang tìm cách giết Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Ba trẻ Do-thái làm chứng cho sự thật.
1.1/ Ba trẻ Do-thái từ chối không thờ thần nào khác
ngòai Thiên Chúa: Vua Nebuchadnezzar đe dọa ba trẻ: Này Shadrach, Meshach, và Abednego, nếu
các ngươi không phụng sự các thần của ta và không chịu thờ lạy pho tượng vàng
ta đã dựng nên, tức khắc các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, để
xem có Thiên Chúa nào cứu được các ngươi khỏi tay ta chăng?"
Ba trẻ Do-thái can đảm nói với Vua: "Chúng tôi
không cần trả lời ngài về chuyện này. Nếu Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu
chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng
phực và khỏi tay ngài. Còn nếu Người không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng
chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài, và cũng không thờ lạy pho tượng
vàng ngài đã dựng đâu!" Vua tức giận, lên tiếng truyền đốt lò lửa mạnh hơn
mọi khi gấp bảy lần. Rồi vua ra lệnh cho những người lực lưỡng nhất trong quân
đội của vua trói ba trẻ và quăng họ vào lò lửa đang cháy phừng phực.
1.2/ Vua Nebuchadnezzar nhận ra Thiên Chúa của
Shadrach, Meshach, và Abednego.
(1) Vua nhận thấy sự khác lạ xảy ra trong lò lửa:
Vua Nebuchadnezzar ngạc nhiên đứng bật dậy và cất tiếng nói với các quan cố vấn:
"Chẳng phải chúng ta đã quăng ba người bị trói vào lửa sao?" Họ đáp rằng:
"Tâu đức vua, đúng thế!" Vua nói: "Nhưng ta thấy có bốn người
đang tự do đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì, và dáng vẻ người thứ tư giống
như con của thần minh."
(2) Vua tin vào Thiên Chúa của ba trẻ: Khi nhận ra
Thiên Chúa đã gởi thiên thần đến cởi trói cho ba trẻ để họ đi lại trong lò lửa
mà không hề hấn gì, Vua Nebuchadnezzar cất tiếng nói: "Chúc tụng Thiên
Chúa của Shadrach, Meshach, và Abednego, Người đã sai thiên sứ đến giải thoát
các tôi tớ của Người là những kẻ đã tin tưởng vào Người. Họ đã cưỡng lại lời
vua, hy sinh tính mạng để khỏi phụng sự và thờ lạy một thần nào khác ngoài
Thiên Chúa của họ.”
2/
Phúc Âm: Sự thật sẽ giải phóng các ông.
2.1/ Chúa Giêsu là sự thật của Thiên Chúa.
(1) Sự thật giải phóng: Đức Giêsu nói với những người
Do-thái đã tin Người: "Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật
là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông."
Để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, họ phải tin những lời Ngài nói là sự thật;
và những lời này sẽ giải phóng họ khỏi những gì sai trái. Lúc đó họ sẽ có tự do
đích thực, vì họ đã biết sự thật. Vì thế, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa: ở lại
trong lời Chúa Giêsu, trở thành môn đệ, sự thật, và tự do đích thực.
Những người Do-thái không hiểu lời Chúa Giêsu nói,
nhưng tự ái vì Ngài ám chỉ họ làm nô lệ. Họ đáp: "Chúng tôi là giòng dõi
ông Abraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói:
các ông sẽ được tự do?" Thực sự, người Do-thái đã từng làm nô lệ cho Ai-cập,
Assyria, Babylon, và Rome; nhưng ý họ muốn nói: họ thuộc giòng dõi Abraham, dân
của Thiên Chúa.
(2) Chúa Giêsu giải phóng con người khỏi tội: Điều
Chúa Giêsu muốn nói là họ đang làm nô lệ cho tội: hễ ai phạm tội là làm nô lệ
cho tội. Có một sự khác biệt giữa con cái và nô lệ: con cái được ở trong nhà
luôn mãi, nô lệ không được như vậy vì có thể bị bán và tống cổ bất cứ lúc nào.
Chúa Giêsu muốn cảnh cáo người Do-thái: các ông phải coi chừng, các ông hãnh diện
mình là con cái của Abraham; nhưng nếu các ông phạm tội, các ông trở thành nô lệ,
và có thể bị tống cổ ra ngòai.
Nếu họ tin vào Chúa Giêsu, họ sẽ được giải phóng khỏi
tội, và họ mới thực sự được tự do; nhưng người Do-thái chẳng những không tin
vào lời Chúa Giêsu, lại còn tìm cách giết Ngài. Chúa Giêsu phân biệt Cha của
Ngài và cha của người Do-thái. Họ hãnh diện tuyên xưng: Cha chúng tôi là
Abraham.
2.2/ Tổ-phụ Abraham tin vào Thiên Chúa: Chúa Giêsu
không tin lời họ nói; vì nếu họ là con cháu Abraham, họ có cùng Cha với Ngài vì
Abraham tin vào Thiên Chúa. Ngài muốn nói với họ, đức tin không phải chỉ tuyên
xưng ngòai miệng, nhưng phải chứng tỏ bằng việc làm: "Giả như các ông là
con cái ông Abraham, hẳn các ông phải làm những việc ông Abraham đã làm. Thế mà
bây giờ các ông lại tìm giết tôi, người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã
nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Abraham đã không làm. Còn các ông, các
ông làm những việc cha các ông làm."
Abraham đón tiếp các sứ giả của Thiên Chúa (Gen
18:1-8), chứ không tìm cách giết họ như người Do-thái đang tìm cách giết Chúa
Giêsu. Nếu các ông tìm cách giết người được Thiên Chúa sai đến, các ông không
phải là con cái Thiên Chúa, cũng chẳng phải là con cái của tổ-phụ Abraham.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải học cho biết sự thật bằng bất cứ
cách nào, vì chỉ có sự thật mới giải phóng và cho chúng ta sự tự do đích thực.
- Bao lâu chúng ta còn phạm tội là làm nô lệ cho tội.
Chỉ có Đức Kitô mới có thể giải phóng chúng ta khỏi làm nô lệ cho tội. Chúng ta
phải tin và làm những gì Ngài dạy.
- Đức tin không chỉ là những gì chúng ta hãnh diện
tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải biểu tỏ bằng việc làm. Chúng ta không được cứu
bằng chỉ tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải thực hành những gì Chúa dạy và phải
can đảm làm chứng cho Ngài bằng hành động.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
16/03/16 THỨ TƯ TUẦN 5 MC
Ga 8,31-42
Ga 8,31-42
Suy niệm: Nhiều
người quan niệm tự do là phóng túng, muốn làm gì thì làm.
Người không thể kiềm chế lòng tham lam, tính nóng giận của mình, là mất làm chủ
bản thân, và trên thực tế, họ đang nô lệ cho lòng tham và tính nóng giận đó.
Kinh nghiệm của những người nghiện xì ke ma tuý cho thấy họ càng lúc càng trở
nên nô lệ cho chất bột trắng này thế nào. Họ tưởng mình đang tự do trong khi họ càng ngày càng trở thành nô lệ.
Chúa Giê-su bị bắt, bị sỉ nhục, chịu treo trên thập giá và chịu chết, nhưng
Ngài hoàn toàn tự do: Ngài chấp nhận cuộc khổ nạn một cách tự nguyện vì yêu mến.
Tự do của Ngài là tự do tuân hành thánh ý Chúa
Cha.
Mời Bạn: Thánh
Phao-lô tông đồ đã có một cảm nghiệm sâu sắc về sự nô lệ tội lỗi:“Điều tôi muốn thì tôi không
làm. Điều tôi không muốn thì tôi lại làm.” Bạn nghĩ sao, có đúng với bạn không?
Chia sẻ: Khi
con người đang sống buông thả để hưởng thụ thì lúc đó con người đang bị lôi
cuốn vào sự lệ thuộc. Để được hoàn toàn tự do, chỉ có một cách duy nhất là tỉnh
thức và tìm ý Chúa và tuân hành.
Sống Lời Chúa: Là
con người, không ai không có tội. Bạn cũng như tôi, mỗi người đều có thể có một
thói quen xấu và một đam mê không tốt nào đó. Bạn hãy gọi rõ tên nó và tìm cách
loại trừ nó ra khỏi đời sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, để được ở trong nhà Chúa mãi mãi, xin Chúa cho chúng con luôn biết thắng vượt tội lỗi, giải
thoát con khỏi tất cả mọi ràng buộc hay lệ thuộc ngoài Chúa.
Sự thật sẽ giải phóng các ông
Mùa Chay là thời gian để chúng ta trở lại điều
mình đã tuyên xưng, để được sống đúng với ơn gọi Kitô hữu mình đã lãnh nhận.
Suy
niệm:
Những dân tộc bị đô hộ nhiều năm mới hiểu được giá trị
của giải phóng.
Những ai bị cầm tù, bị áp bức mới hiểu được giá trị
của tự do.
Những ai đã từng bị vướng vào ma túy, cờ bạc, rượu
chè,
mới hiểu nỗi sướng vui của người thoát khỏi vòng nô lệ
của chúng.
Chế độ nô lệ đã cáo chung, nhưng lại thấy xuất hiện
nhiều dạng nô lệ mới.
Con người trở nên nô lệ cho chính những sản phẩm tinh
tế của mình,
và nhất là không thể giải phóng mình khỏi cái tôi ích
kỷ.
Tự do mãi mãi là khát vọng của con người.
Con người vẫn chờ một Đấng Giải Phóng để mình được
thật sự tự do.
Những người Do thái đang tranh luận gay gắt với Đức
Giêsu.
Họ hãnh diện vì mình thuộc dòng dõi ông Abraham,
nên cho mình là người tự do, chưa hề làm nô lệ cho ai
bao giờ (c. 33).
Đức Giêsu lại nhìn tự do theo một chiều hướng khác.
Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội, người ấy không có
tự do (c. 34).
Tự do không bắt nguồn từ việc mình thuộc dòng dõi ông
Abraham.
Tự do đến từ việc tin vào lời sự thật của Đức Giêsu.
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi…các ông sẽ biết
sự thật
và sự thật sẽ cho các ông được tự do” (c. 32).
Tự do đến từ chính con người của Ngài:
“Nếu Người Con có cho các ông tự do, các ông mới thực
sự tự do” (c.36).
Những người Do thái cố chấp, chỉ tìm cách giết Đức
Giêsu (cc. 37, 40).
Họ không muốn nhận lời sự thật mà Ngài nghe được từ
Thiên Chúa (c. 40).
Khi từ chối sự thật, họ đã trở nên nô lệ cho sự dối
trá và sát nhân.
Đức Giêsu là Đấng Giải Phóng, Đấng cho người ta được
tự do thực sự.
Con người bị trói buộc bởi nhiều mối dây, bởi những
tính toán ích kỷ hẹp hòi
mà tự sức mình không sao thoát ra được.
Hãy đến với Giêsu, mở ra với Giêsu, ta sẽ thấy mình
được thanh thoát như Ngài.
“Giả như các ông là con cái ông Abraham,
hẳn các ông phải làm điều ông Abraham đã làm” (c. 39).
Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải
yêu mến tôi,
vì tôi đã phát xuất từ Thiên Chúa…” (c. 42).
Như thế những kẻ chống đối Đức Giêsu
thật ra chẳng phải là con cái thật sự của ông Abraham
hay con cái Thiên Chúa.
Họ sống trong ảo tưởng về mình khi họ cương quyết loại
trừ Đức Giêsu.
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, người dự tòng
đã tuyên xưng
từ bỏ tội lỗi, để sống trong tự do của con cái Thiên
Chúa,
từ bỏ những quyến rũ bất chính, để khỏi làm nô lệ cho
tội lỗi.
Mùa Chay là thời gian để chúng ta trở lại điều mình đã
tuyên xưng,
để được sống đúng với ơn gọi Kitô hữu mình đã lãnh
nhận.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu
sang, danh vọng, khoái lạc
là
những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng
trói buộc chúng con
và
không cho chúng con tự do ngước lên cao
để
sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi
sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ
cảm nghiệm được phần nào
sự
phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán
tất cả những gì chúng con có,
để
mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước
những lời mời gọi của Chúa,
không
bao giờ ngoảnh mặt
để
tránh cái nhìn yêu thương
Chúa
dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16
THÁNG BA
Luân
Lý Tính Phải Được Đo Lường Bằng Thước Đo Của Thiên Chúa
Xuyên
qua việc tuân giữ Thập Giới, con người sẽ trở nên tốt. Con người sẽ mặc lấy phẩm
tính của Thiên Chúa. Còn nếu không tuân giữ Thập Giới, con người sẽ sa vào hành
động xấu. Như vậy, Thập Giới trao cho chúng ta chuẩn mực để đo lường hành vi và
đo lường chính cuộc sống của chúng ta. Trong tư cách là con người – có thể chọn
lựa giữa cái đúng và điều sai – phẩm giá của chúng ta được nối kết một cách trực
tiếp với sự vâng phục của chúng ta đối với luật luân lý của Thiên Chúa.
Vâng
phục luật luân lý – đó không chỉ là một vấn đề cá nhân mà còn là một vấn đề xã
hội. Nó cho chúng ta biết Thiên Chúa muốn chúng ta sống với tha nhân như thế nào.
Nó hình thành cho chúng ta một tiêu chuẩn sống. Nó cho ta biết phải làm sao để
bảo vệ và tôn trọng phẩm giá của người khác cũng như của mình. Qua đó, nó giải
phóng người ta khỏi sự trói buộc của sự dữ. Đây không phải là chuyện hoa hòe,
‘tùy hỉ’chút nào; mà đây là vấn đề hết sức chủ yếu. Đấng trao ban Thập Giới là
Thiên Chúa Gia-vê, là Đấng đã dẫn đưa con cái It-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, ra
khỏi tình cảnh nô lệ.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
16-3
Thứ
Tư trong tuần thứ Năm Mùa Chay
Đn
3:14-20,91-92,95; Ga 8:31-42
Lời
Suy Niệm: “Đức Giêsu nói với những người Do-thái đã
tin Người: Nếu các ông ở lại trong lời tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các
ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát các ông.”
Những
ai đã tin vào Đức Giêsu là Chúa, là Đấng Cứu Độ của mình, thì luôn yêu thích
nhìn ngắm Người, chiêm niệm những lời Người dạy và những việc Người làm.
Từ đó, nhận ra sự thật về con người của mình, từ trong tư tưởng, đến lời nói và
việc làm của mình. Để biết sửa đổi mình lại, ngày càng trở nên tốt hơn trong
yêu thương và phục vụ, xứng danh là người môn đệ của Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, là Ánh sáng cho chúng con
tiến bước về Nhà Cha. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn nhìn
lên Chúa để nhận ra mình mà sửa đổi đời sống cho tốt hơn, để được ở trong lòng
thương xót của Chúa.
Mạnh
Phương
16
Tháng Ba
Cuộc Săn Thỏ
Ðức
hồng Y Carlo Martini, nguyên viện trưởng trường Kinh Thánh tại Roma và hiện là
tổng giám mục Milano bên Italia, đã ghi lại trong quyển chú giải về Phúc Âm
Thánh Gioan, câu chuyện sau đây:
Vào
thế kỷ thứ ba, trong Giáo hội có vấn đề các tu sĩ ào ạt rời bỏ cuộc sống tu
trì... Ðể giải thích cho hiện tượng này, một thầy dòng nọ đã đưa ra hình ảnh của
một đàn chó đi săn thỏ. Một chú chó trong đàn đã bất chợt nhận ra một con thỏ.
Thế là chú nhanh nhẩu rời đàn chó và vừa chạy theo con thỏ vừa sủa inh ỏi.
Không mấy chốc, mấy chú chó khác cũng rời hàng ngũ để chạy theo. Và cứ thế cả
đàn chó bỗng chạy ùa theo. Tất cả mọi con chó đều chạy, nhưng kì thực chỉ có một
con chó là đã phát hiện ra con thỏ.
Sau một lúc săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì đa số đã không được nhìn thấy con thỏ. Chỉ duy chú chó đầu tiên đã phạt hiện ra con thỏ là tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Sau một lúc săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì đa số đã không được nhìn thấy con thỏ. Chỉ duy chú chó đầu tiên đã phạt hiện ra con thỏ là tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Vị
tu sĩ đãđưa ra kết luận như sau: "Ðã có rất nhiều tu sĩ đi theo Chúa,
nhưng kỳ thực chỉ có một hoặc hai vị là đã thực sự thấy Chúa và hiểu được họ
đang đeo đuổi điều gì. Số khác chạy theo vì đám đông hoặc vì họ nghĩ rằng họ
đang làm được một điều tốt. Nhưng kỳ thực họ chưa bao giờ thấy Chúa. Cho nên
khi gặp khó khăn thử thách, họ bắt đầu chán nản bỏ cuộc".
Cuộc
sống của người Kitô chúng ta có lẽ cũng sẽ ví được với một cuộc săn thỏ... Ở khởi
đầu, ai trong chúng ta cũng hăm hở ra đi, ai trong chúng ta cũng đều làm rất
nhiều cam kết, nhưng một lúc nào đó, khi không còn thấy gì đến trước mắt nữa,
chúng ta bỏ cuộc buông xuôi... Ða số trong chúng ta hành động theo sự thúc đẩy
của đám đông mà không cần tìm hiểu lý do của việc làm chúng ta. Người ta lập
gia đình mà không hiểu đâu là cam kết của đời sống hôn nhân. Người ta gia nhập
đoàn thể này, đoàn thể nọ, chúng ta cũng hăng hái tham gia mà không cân nhắc kỹ
lưỡng các lý do tại sao chúng ta tham dự. Và biết đâu, người ta đi nhà thờ,
chúng ta cũng đi nhà thờ mà không bao giờ tự hỏi tại sao chúng ta đi nhà thờ.
Người ta đi xưng tội rước lễ, chúng ta cũng đi xưng tội rước lễ mà có lẽ chưa
bao giờ đặt ra câu hỏi nghiêm chỉnh tại sao chúng ta làm như thế... Dĩ nhiên, Ðức
Tin của chúng ta cần phải được nâng đỡ từ gia đình, xã hội, bởi người khác.
Nhưng chúng ta không thể quên được rằng trước hết Ðức Tin là một cuộc gặp gỡ cá
vị giữa mỗi người và Thiên Chúa, Ðức tin là một cuộc hành trình trong đó mỗi
con người phải tự thấy con đường mình đang đi... Chúng ta không thể sống đạo,
giữ đạo vì người khác. Người Kitô có một đồng phục chung là Ðức Ái, nhưng cuộc
sống của mỗi người không phải vì thế mà được đúc sẵn theo một khuôn mẫu, theo
những công thức có sẵn, theo những lôi cuốn của đám đông.
Trong
cuộc hành trình Ðức Tin, chúng ta cùng đồng hành với người khác, nhưng mỗi người
cần phải thấy rõ địa điểm mình đang đi tới. Có thấy rõ như thế, mỗi khi gặp mệt
mỏi, chông gai thử thách, chúng ta mới có thể kiên vững tiếp tục tiến bước.
(Lẽ
Sống)
Lectio Divina: Gioan 8:31-42
Thứ Tư, 16 Tháng 3,
2016
Thứ Tư Tuần V Mùa
Chay
1. Lời nguyện mở
đầu
Lạy Chúa, là Thiên Chúa chúng con,
Chúa gọi chúng con để trở thành người tự
do.
Xin hãy giúp chúng con luôn luôn thưa
với Chúa
Một lời đáp trả của tự do.
Được tự do bởi lời giải thoát và cái
chết của Đức Kitô,
Nguyện xin cho chúng con không bao giờ
Tự trói buộc mình vào những sợi dây xích
của chính mình nữa,
Dây trói của tội ích kỷ và những quyến
luyến sai lạc.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng con.
2. Phúc Âm –
Gioan 8:31-42
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người
Do Thái đã tin nơi Ngài rằng: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi
sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các
ngươi”. Họ thưa lại Người: “Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa
bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói ‘Các ngươi sẽ được tự do’?”
Chúa Giêsu trả lời rằng: “Quả
thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho
tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong
nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực
sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết
Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều
Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã
thấy nơi cha các ngươi”. Họ đáp lại: “Cha chúng tôi chính là
Abraham!”
Chúa Giêsu nói: “Nếu thực sự các
ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng
các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta
nghe tự Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang
làm việc của cha các ngươi!” Họ lại nói: “Chúng tôi không phải là
những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!”
Chúa Giêsu nói: “Nếu Thiên Chúa là
Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không
tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến”.
3. Suy Niệm
- Bài suy niệm về
chương 8 của Tin Mừng Gioan tiếp tục ngày hôm nay. Trong hình thức của
các vòng tròn đồng tâm, thánh sử Gioan đào sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa bao
quanh con người của Chúa Giêsu. Nó có vẻ giống như là một lời lặp đi lặp
lại, bởi vì ông luôn nói về cùng một điểm. Thực ra, nó là một điểm, nhưng
mỗi lần ở một mức độ sâu sắc hơn. Bài Tin Mừng hôm nay nói về chủ đề mối
quan hệ của Chúa Giêsu với Abraham, Tổ Phụ của Dân Thiên Chúa. Gioan cố
gắng giúp các cộng đoàn hiểu được cách Chúa Giêsu đặt mình trong toàn bộ lịch
sử Dân Thiên Chúa. Ông giúp cho họ cảm nhận được sự khác biệt hiện diện
giữa Chúa Giêsu và người Do Thái, và cũng như sự khác biệt giữa người Do Thái
và những người khác, tất cả chúng ta đều là con cái của Abraham.
- Ga
8:31-32: Sự tự do phát xuất từ lòng trung thành với lời của Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu khẳng định với người Do Thái: “Nếu các ngươi cứ ở
trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và
sự thật giải thoát các ngươi”. Để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu thì
cũng giống như mở lòng mình ra với Thiên Chúa. Lời Chúa Giêsu chính là
lời của Thiên Chúa. Chúng thông tri sự thật, bởi vì chúng làm cho mọi
việc được biết như chúng đang ở dưới mắt của Thiên Chúa và không phải như dưới
mắt của người Biệt Phái. Sau đó, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu sẽ dạy
điều tương tự cho các môn đệ.
- Ga
8:33-38: Là con cái của Abraham thì có nghĩa gì. Người Do Thái phản
ứng ngay lập tức: “Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô
lệ ai cả. Tại sao ông lại nói ‘Các ngươi sẽ được tự do’?” Chúa
Giêsu lặp lại và xác nhận sự khác biệt giữa người con và người nô lệ mà nói
rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì
làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở
vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi
sẽ được tự do thực sự.” Chúa Giêsu là người con và ở mãi trong nhà Chúa Cha.
Kẻ nô lệ thì không ở trong nhà Chúa Cha. Sống ở ngoài nhà, ngoài nhà của Thiên
Chúa có nghĩa là sống trong tội lỗi. Nếu họ chấp nhận lời của Chúa Giêsu
thì họ có thể trở thành con cái và được tự do thực sự. Họ sẽ không còn là
nô lệ nữa. Và Chúa Giêsu nói tiếp: “Ta biết các ngươi là con cháu
Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào
lòng các ngươi.” Sự khác biệt thì rất rõ ràng ngay tức thì: “Ta nói
những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các
ngươi đã thấy nơi cha các ngươi”. Chúa Giêsu không cho họ quyền nói rằng
họ là con cái của Abraham, bởi vì các hành động của họ khẳng định điều trái
ngược.
- Ga 8:39-41a:
Con cái Abraham thì làm công việc của Abraham. Họ quả quyết xác định
rằng: “Cha chúng tôi chính là Abraham!” như thể họ muốn trưng ra cho Chúa
Giêsu thấy một tài liệu về căn tính của họ. Chúa Giêsu lặp lại:
“Nếu thực sự các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của
Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi
biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không
làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!” Giữa những lời
này, Người ngụ ý rằng họ là con cái của Satan (Ga 8:44). Người hàm ý rằng
họ là những đứa con hoang.
- Ga 8:41b-42:
“Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa
mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến”. Chúa
Giêsu lặp đi lặp lại cùng một sự thật nhưng dùng nhiều chữ khác nhau:
“Bất cứ ai đến từ Thiên Chúa thì lắng nghe lời của Thiên Chúa”. Nguồn gốc
của lời khẳng định này là từ tiên tri Giêrêmia, người đã nói rằng: “Ở
trong chúng, Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật
của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta.
Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học
cho biết ĐỨC CHÚA’, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta –
Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi
lầm của chúng nữa” (Gr 31:33-34). Nhưng họ sẽ không mở lòng mình ra để
trải qua kinh nghiệm mới này về Thiên Chúa, và bởi vì điều này, họ sẽ không
nhận ra Chúa Giêsu là Đấng đã được Chúa Cha sai đến.
4. Một vài câu
hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Sự tự do là
việc quy phục hoàn toàn trước Chúa Cha. Loại tự do này có hiện hữu trong
bạn không? Bạn có biết ai như thế không?
- Kinh nghiệm sâu
sắc nào trong tôi đã hướng dẫn tôi nhận ra Chúa Giêsu là Đấng đã được Thiên
Chúa sai đến?
5. Lời nguyện
kết
Lạy CHÚA, chúc tụng Ngài là Thiên Chúa
tổ tiên chúng con,
xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn
đời.
Chúc tụng danh thánh Ngài vinh hiển, xin
dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
Chúc tụng Chúa trong thánh điện vinh
quang, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.
Chúa tụng Chúa trên ngôi báu cửu trùng,
xin dâng lời ca tung suy tôn muôn đời.
(Đn 3:52-54)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét