15/01/2017
Chúa Nhật tuần 2 thường
niên năm A.
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật II Thường niên năm A
CHÚA NHẬT II
THƯỜNG NIÊN A
Is 49,3.5-6;
1Cr 1,1-3; Ga 1,29-34
Chủ đề:
ĐỨC GIÊSU: NGƯỜI TÔI TRUNG CỦA THIÊN CHÚA - ĐẤNG CỨU ĐỘ
TRẦN GIAN
“Đây là Chiên
Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29)
Đức Giêsu là Đấng
Cứu Độ mà Thiên Chúa đã hứa ban cho loài người. Người gánh tội trần gian để giải
thoát con người khỏi tội lỗi và chiếu giãi trên họ ánh sáng vĩnh cửu của ơn cứu
độ. Khi Đức Giêsu đến, ông Gioan Tẩy Giả đã nhận ra căn tính đích thực của Người.
Ông đã tin và giới thiệu Đức Giêsu cho người khác để họ cùng tin mà được cứu độ.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I
(Is 49,3.5-6)
Dân Do Thái lúc
này đang sống lưu đày tại Babylon vào khoảng thế kỷ thứ VI trước CN. Trong hoàn
cảnh u buồn và thất vọng đó, Thiên Chúa đã cho xuất hiện vị ngôn sứ để loan báo
tin vui đem lại cho Dân niềm hy vọng cứu thoát. Trong sách Ngôn Sứ Isaia, có bốn
bài ca về Người Tôi Trung. Đoạn sách Isaia hôm nay thuộc bài thứ Hai.
Trong bài ca
này, Người Tôi Trung có những đặc tính và vai trò sau: 1) Biểu lộ vinh quang của
Chúa; 2) dẫn đưa nhà Giacóp về với Chúa và đem dân Israel sống sót về qui tụ
chung quanh Người; 3) đồng thời, trở thành ánh sáng chiếu soi muôn dân để đem
ơn cứu độ đến cho mọi người khắp trái đất. Thật vậy, Thiên Chúa phán: “Hỡi
Israel, ngươi là tôi trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang”.
Vinh quang của Thiên Chúa không chỉ chiếu tỏa trên dân Israel, mà còn trên mọi
dân tộc. Quả thật, ơn cứu độ của Thiên Chúa được dành cho hết thảy mọi dân tộc,
chứ không dành riêng cho Israel: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập
các chi tộc Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn
quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ
của Ta đến tận cùng cõi đất”.
Để thực hiện sứ
mệnh cao cả này, chính Thiên Chúa trở nên nguồn nâng đỡ và sức mạnh của Người
Tôi Trung: “Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi”. Tất cả những lời tiên báo
này đã được hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đến đem ơn cứu độ cho mọi người
khắp cõi trần gian.
2. Bài đọc II
(1Cr 1,1-3)
Bài đọc II là
những câu mở đầu thư thứ nhất của thánh Phaolô gửi các tín hữu Côrintô. Trong
đoạn này, Thánh Phaolô xác định về ơn gọi Tông Đồ của mình và ơn gọi của các
Kitô hữu. Thánh Phaolô được kêu gọi làm Tông Đồ của Đức Giêsu Kitô là do ý định
của Thiên Chúa, chứ không do ý muốn của con người. Thánh Phaolô được kêu gọi
làm tông đồ dân ngoại, nghĩa là được “sai đi” loan báo Tin Mừng Đức Giêsu cho mọi
người. Còn các Kitô hữu là những người được kêu gọi trở nên “những người được
thánh hiến trong Đức Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh”.
Như vậy, các
Kitô hữu cùng với Tông đồ Phaolô, cũng như cùng với tất cả mọi Kitô hữu khắp
nơi kêu cầu danh Đức Giêsu. Theo tinh thần Tin Mừng, các Kitô hữu là những người
tin vào Đức Giêsu Kitô, đều trở thành môn đệ của Đức Kitô và mang danh Đức
Kitô, nên họ được kêu gọi hiệp nhất trong Hội Thánh của Thiên Chúa có Đức Giêsu
Kitô làm đầu và được mời gọi trở nên thánh thiện. Cũng như Phaolô được kêu gọi
làm Tông Đồ loan báo Tin Mừng cho dân ngoại, các Kitô hữu được kêu gọi loan báo
Tin Mừng bằng chính đời sống của mình để cho người khác nhận biết Đức Giêsu Kitô
mà được ơn cứu độ.
3. Tin Mừng (Ga
1,29-34)
Gioan Tẩy Giả rao giảng và kêu gọi mọi người
chuẩn bị tâm hồn để dọn đường cho Chúa ngự đến. Trong khi Gioan đang ở sông
Giođan để làm Phép Rửa giúp người ta sám
hối, Đức Giêsu tiến về phía của Gioan. Vừa thấy Đức Giêsu, Gioan liền
nói về Đức Giêsu với dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội
trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau
tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”.
Tước hiệu
“Chiên Thiên Chúa” đã đúc kết hai hình ảnh truyền thống Kinh Thánh Cựu Ước tiên
báo việc Đức Giêsu chịu chết để cứu độ loài người: 1) hình ảnh Con Chiên Vượt
Qua, tượng trưng cho cuộc giải thoát dân Israel khỏi ách nô lệ Aicập; 2 ) hình ảnh
Con Chiên đền tội gánh lấy tội lỗi của muôn người và dâng mình làm hy lễ (Lv
14) nơi Người Tôi Trung của Chúa (Is 52,13‒53,12); đồng thời 3) hình ảnh của
Con Chiên Chiến Thắng, dùng máu mình để giặt sạch và tẩy trắng áo của những người
đã qua chiến đấu và nay đã chiến thắng trở về (Kh 7,17). Thư gửi tín hữu Hípri
(Dothái) đã khẳng định: “Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xóa được
tội lỗi” (Hr 10,4). Quả thật, chỉ có hiến tế của Đức Giêsu, là Chiên Thiên
Chúa, mới tẩy sạch tội lỗi của con người mà thôi.
Đức Giêsu chính
là Người Tôi Trung của Thiên Chúa, là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần
gian. Gioan đã nhận ra căn tính đích thực của Đức Giêsu là nhờ Thiên Chúa mặc
khải cho ông: “Tôi không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa
trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó
chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Gioan đã nhận ra Đấng Thiên Sai
qua dấu chỉ trong biến cố Đức Giêsu đến lãnh nhận Phép Rửa tại sông Giođan:
“Tôi đã thấy, nên xin chứng thật rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, đó
là Thánh Thần Chúa, tựa hình chim bồ câu, ngự xuống trên Đức Giêsu ngay lúc Người
lên khỏi nước (x. Mt 3,16; Mc 1,10; Lc 3,22).
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Vì vậy, này
Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng
cõi đất”. Thiên Chúa đã chọn, đặt người tôi trung làm ánh sáng và trở nên khí cụ
truyền ban ơn cứu độ cho muôn dân. Tôi có ý thức và nỗ lực sống việc được Thiên
Chúa mời gọi trở nên những chứng nhân của tình yêu và ơn cứu độ cho người khác?
Cuộc sống tôi có trở nên ánh sáng và khí cụ truyền giảng ơn cứu độ của Thiên
Chúa?
2. Anh em là
“những người được thánh hiến trong Đức Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh”. Tôi
được mời gọi trở nên thánh khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để trở nên những thụ tạo
mới trong Đức Giêsu Kitô. Tôi có nỗ lực sống lời mời gọi này mỗi ngày? Tôi có
biết mình đã thuộc về Thiên Chúa nên cần sống lời chỉ dạy của Người?
3. “Đây là
Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Đức Giêsu là Chiên Đền Tội,
cũng là Chiên Vượt Qua đã đổ máu mình ra như của lễ đền thay tội lỗi của chúng
ta, để đưa chúng ta ra khỏi cõi chết do tội lỗi gây ra mà bước vào cõi sống
vĩnh cửu của Con Chiên Chiến Thắng. Tôi có sống và ý thức được tình yêu thương
cao cả này của Đức Giêsu trong cuộc sống của mình? Tôi có can đảm sống sứ mạng
của Gioan Tẩy Giả, là giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho người khác bằng lối sống
Kitô giáo, bằng một gia đình sống đạo, bằng lời nói cũng như hành động bác ái
và nâng đỡ lẫn nhau trong cuộc sống hằng ngày?
III. LỜI NGUYỆN
CHUNG
Chủ tế: Anh chị
em thân mến! Thiên Chúa đã sai Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô đến trần
gian để cứu độ nhân loại. Chính Thánh Gioan Tẩy Giả đã làm chứng và chỉ cho mọi
người nhận biết khi Chúa đến. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và tha thiết cầu nguyện:
1. Thánh Gioan
nói: “Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá bỏ tội trần gian.” Chúng ta cùng cầu
nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn nỗ lực trong sứ mạng truyền
giáo, biết dùng mọi khả năng và phương tiện để giới thiệu Chúa Cứu Thế cho mọi
người.
2. Công cuộc
loan báo Tin Mừng còn gặp khó khăn cấm cách tại nhiều nơi trên thế giới. Chúng
ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo ở những nơi đó biết mở lòng trước tình
thương cứu độ của Thiên Chúa, cho người dân có cơ hội được nghe và đón nhận Tin
Mừng.
4. Thánh Phaolô
nói: “Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha.” Chúng
ta cùng cầu nguyện cho những ai có hoàn cảnh khó khăn nghèo túng luôn cảm nhận
được phúc lành của Thiên Chúa qua tấm lòng quảng đại của những người hảo tâm.
3. “Tôi đã thấy
và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho
các gia đình và mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết dùng lời nói, việc làm
và cách sống của mình để làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, là hiện thân của lòng
thương xót.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Cha và là Đấng cứu độ chúng con. Xin nhận lời chúng con thành tâm cầu
nguyện và ban ơn trợ giúp, để chúng con hăng say loan báo tình thương cứu độ của
Chúa cho mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
www.tgpsaigon.net
SCĐ CHÚA NHỰT II TN A
CHỦ ĐỀ : CHÚA GIÊSU LÀ AI ?
"Đây là
Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Ga 1,29)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : Đấng
Messia là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.
- Đáp ca : Đấng
Messia đến để thực thi ý Thiên Chúa.
- Tin Mừng : Bắt
đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả giới thiệu : "Chính Ngài
là Con Thiên Chúa."
I. DẪN VÀO
THÁNH LỄ
Từ hôm nay bắt
đầu mùa thường niên : Phụng vụ muốn dẫn chúng ta từng bước đồng hành với Chúa
Giêsu. Việc đầu tiên là phải biết Đấng mà mình đồng hành là ai.
Xin Chúa cho
chúng ta biết Ngài, yêu mến Ngài và gắn bó đi theo Ngài trọn cuộc hành trình
dương thế của chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Tuy là môn đệ
của Chúa Giêsu, nhưng chúng ta chưa cố gắng tìm hiểu để biết rõ Ngài.
- Chúng ta chưa
"yêu mến Chúa trên hết mọi sự."
- Chúng ta thường
đi theo đường lối của riêng mình chứ không đồng hành với Chúa trên con đường của
Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc 1 :
Is 49,3.5-6
Ngôn sứ Isaia
hình dung Đấng Messia là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa. Đoạn trích này thuộc bài
thứ hai trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ :
- Người Tôi Tớ
của Thiên Chúa được giao sứ mạng "quy tụ dân Israel trước mắt Thiên
Chúa".
- Người Tôi Tớ
của Thiên Chúa còn là "ánh sáng của các dân tộc", làm cho "ơn cứu
độ của Thiên Chúa tràn lan khắp địa cầu".
Tất cả những
nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Chúa Giêsu.
2. Đáp ca : Tv
39
Tv này bày tỏ
tâm tình của người tín hữu đối với Thiên Chúa : cậy trông nơi Thiên Chúa, hân
hoan hát mừng ca tụng Ngài, và nhất là luôn thực thi thánh ý của Ngài.
Không ai ngoài
Chúa Giêsu có những tâm tình hoàn hảo ấy.
3. Tin Mừng :
Ga 1,29-34
Theo bố cục của
Tin Mừng thứ tư, đây là lần đầu tiên Đức Giêsu xuất hiện trước dân chúng. Vì
dân chúng chưa biết Đức Giêsu, nên Gioan Tẩy giả giới thiệu Ngài, bằng hai kiểu
nói :
- Đức Giêsu là
"Con Chiên Thiên Chúa" : Trong lễ nghi Đền tội của Do thái giáo, tội
nhân đem một con chiên lên Đền thờ, úp tay mình xuống con chiên tỏ ý trút hết tội
mình lên nó ; tiếp theo, tư tế sẽ giết con chiên. Nó chịu chết để đền tội thay
cho tội nhân. Bao nhiêu tội lỗi của tội nhân đều được tẩy xóa. Ngay từ buổi đầu
gặp Chúa Giêsu, Gioan Tẩy giả đã biết Ngài sẽ chịu chết để chuộc tội cho nhân
loại, nên ông giới thiệu "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần
gian".
- Đức Giêsu là
"Con Thiên Chúa" : Nhờ ơn soi sáng đặc biệt của Chúa Thánh Thần trong
biến cố làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan Tẩy giả còn được biết Đức Giêsu là
Con Thiên Chúa. Thực ra, trong lịch sử, các vua Israel cũng xưng mình là con của
Thiên Chúa. Nhưng đó chỉ là một cách nói, ngụ ý họ được Thiên Chúa nhận làm con
nuôi, nghĩa tử. Riêng đối với Đức Giêsu, Gioan Tẩy giả giới thiệu Ngài là con
ruột của Thiên Chúa và cũng chính vì thế cho nên Đức Giêsu sẽ làm phép rửa
trong Chúa Thánh Thần.
4. Bài đọc 2
(chủ đề phụ) : 1 Cr 1,1-3
* Từ Chúa nhựt
II đến Chúa nhựt VIII, bài đọc II đều trích từ thư 1 Côrintô. (Xin hãy đọc bài
giới thiệu tổng quát về Thư 1 Côrintô ngay sau bài này)
Côrintô là một
thành phố cảng với những nét đặc trưng là : dân cư hỗn tạp (nhiều sắc dân khắp
nơi đến làm ăn), đời sống kinh tế và trí thức tương đối khá, nhưng không đoàn kết,
xã hội có nhiều tệ đoan. Chính dân Côrintô đã đuổi Phaolô ra khỏi thành phố
này.
Khi ở Êphêxô,
Phaolô nghe nhiều tin tức không tốt về giáo đoàn này, nên ông viết bức thư này
cho họ nhằm củng cố một số điểm giáo lý và sửa sai một số tệ nạn.
Đoạn này chỉ là
những lời chào đầu thư Thánh Phaolô gởi đến các tín hữu Côrintô. Tuy vậy nó
cũng xác định rõ tư cách của người viết thư và những người nhận thư :
- Người viết
thư (Phaolô) là kẻ được Thiên Chúa kêu gọi làm tông đồ của Đức Giêsu Kitô.
- Những người
nhận thư (tín hữu Côrintô) là những kẻ được kêu gọi nên thánh và được thánh hóa
trong Chúa Giêsu Kitô.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Độc hành hay
đồng hành
Khi phải làm một
chuyến hành trình dài, người ta cần có bạn đồng hành, để có bạn đường mà chia
vui xẻ buồn, nói chuyện với nhau, và giúp đỡ nhau. Hai môn đệ hành trình Emmau
nhờ đi chung với nhau nên đã san sẻ cho nhau nỗi buồn nặng trĩu sau những biến
cố đau thương xảy ra tại Giêrusalem. Họ lại có được một bạn đồng hành nữa là Đức
Giêsu phục sinh. Chính Người Bạn đồng hành này đã xóa tan mọi sầu lo của họ và
làm cho niềm tin của họ sống lại.
Đời người trên
dương thế là một cuộc hành trình dài thăm thẳm, không biết bao giờ mới xong,
cũng không chắc sẽ đi đến đích hay không. Vậy mà có nhiều người cứ mãi độc hành
: một mình tìm đường, một mình đi, một mình xoay trở trước những khó khăn… Thật
là phiêu lưu !
Mùa thường niên
của năm Phụng vụ cũng là một cuộc hành trình, nhưng không phải độc hành, mà là
đồng hành với Chúa Giêsu : chúng ta cùng với Ngài đi qua những chặng đường từ
Nadarét đến Galilê để tới Giêrusalem ; từ gian khổ đến vinh quang ; từ chết đến
sống lại. Có Ngài cùng đi với chúng ta, chúng ta không sợ lạc đường. Cùng đi với
Ngài, cho dù nhiều lúc gặp khó khăn, chắc chắn chúng ta sẽ tới đích. Chúa Giêsu
đồng hành với chúng ta nghĩa là Ngài sẽ vui khi chúng ta vui, Ngài sẽ buồn khi
chúng ta buồn ; chúng ta đồng hành với Chúa Giêsu cũng có nghĩa là ta sẽ được
vui niềm vui của Ngài và buồn với nỗi buồn của Ngài. Đời ta không cô độc, buồn
tẻ…
Tuy chỉ là
"mùa thường niên" không có những lễ trọng, nhưng nếu chúng ta sống
mùa này như một người đồng hành với Chúa, cuộc đời chúng ta chắc chắn sẽ rất có
ý nghĩa.
2. Người Con và
Người Tôi Tớ
Lời Chúa hôm
nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu với hai nét tương phản nhau : Ngài là Người
Con yêu quý của Thiên Chúa cao sang, và Ngài là Người Tôi Tớ khiêm tốn thấp
hèn.
Thực ra hai nét
trên không đối chọi nhau mà làm nổi bật nhau và soi sáng cho nhau : Chúa Giêsu
là Con Thiên Chúa cao sang do cách Ngài sống như một Người Tôi Tớ ; và Ngài là
Người Tôi Tớ tuyệt hảo bởi vì Ngài là Con Thiên Chúa cao sang.
Nhìn Chúa
Giêsu, chúng ta rút ra được một triết lý sống : sống cao thượng trong hoàn cảnh
tầm thường ; và sống hoàn cảnh tầm thường với tâm hồn cao thượng.
Cùng sống với
Chúa Giêsu qua những biến cố mỗi tuần trong Mùa thường niên này, chúng ta có thể
thực hiện được triết lý sống tuyệt vời ấy.
3. Con Chiên
gánh tội trần gian
Thời Cựu Ước,
trong ngày lễ Đền tội, người do thái bắt một con chiên đem đến cho Tư tế. Vị Tư
Tế đọc một danh sách các thứ tội của dân và kêu gọi mọi người sám hối. Sau đó
Tư Tế đặt tay trên đầu con dê, ngụ ý trút hết danh sách tội ấy lên đầu nó, rồi
đuổi nó vào sa mạc. Con chiên ấy được gọi là con chiên gánh tội.
Khi Thánh Gioan
Tẩy giả giới thiệu Đức Giêsu là "Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần
gian", phải chăng Thánh Gioan cũng có ý rằng Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả
tội lỗi chúng ta nên từ nay loài người không còn tội gì nữa ? Đơn giản và dễ
dàng thế sao ?
Quả thực Đức
Giêsu đã gánh lấy tội trần gian. Việc này có nghĩa là nhờ Ngài mà tội lỗi chúng
ta được tha thứ. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta không phải làm gì cả.
Cần phân biệt
rõ giữa tội lỗi và thân phận tội lỗi. Đức Giêsu gánh lấy và tha thứ tội lỗi
chúng ta, như con chiên đã mang tội lỗi dân do thái vào sa mạc. Nhưng thân phận
tội lỗi của chúng ta vẫn còn. Và Đức Giêsu muốn giúp chúng ta cải thiện thân phận
ấy, dĩ nhiên là với sự hợp tác của chúng ta.
- Ngài giúp
chúng ta thế nào ? Bằng cách đến với chúng ta, sống gần chúng ta, gieo vào mảnh
đất tâm hồn chúng ta hạt giống sự tốt lành và thánh thiện của Ngài.
- Chúng ta hợp
tác thế nào ? Bằng cách tiếp nhận Ngài, sống với Ngài và để cho những hạt giống
ấy lớn lên trong lòng mình.
Sự tha thứ của
Chúa và bí tích Giải tội không phải là một thứ phù phép, mà là một trợ lực, một
hạt giống.
4. "Ngài
cao trọng hơn tôi"
Ngày xưa một vì
vua bảo một ông quan : "Khanh hãy đi khắp đất nước tìm về cho trẫm một người
tốt". Ông quan này tính tình hung dữ, gian dối và không có bạn. Sau một thời
gian đi tìm, ông trở về triều, tâu : "Thần đã đi khắp nơi, gặp hết mọi người.
Nhưng chẳng tìm được người nào tốt cả. Ai cũng hung dữ, gian dối và không có bạn".
Nhà vua sai một
quan khác : "Khanh hãy đi khắp đất nước tìm về cho trẫm một người xấu".
Ông này có lòng nhân từ, quảng đại và được mọi người thương mến. Sau một thời
gian đi tìm, ông cũng trở về triều và tâu : "Hạ thần không thể chu toàn sứ
mạng mà Bệ Hạ giao phó. Hạ thần đã gặp nhiều người gian lận, trộm cắp, tham
lam… Nhưng chẳng có người nào thực sự xấu cả. Dù họ đã làm những điều ấy, nhưng
trong thâm tâm ai cũng tốt"
Câu chuyện trên
muốn nói rằng ta có khuynh hướng nhìn người khác không theo lòng họ mà theo
lòng ta.
Thánh Gioan Tẩy
giả thì không thế. Nếu như mọi người thì Gioan sẽ coi thường Đức Giêsu, bởi
Ngài đến sau ông ; chẳng những thế ông còn coi Ngài là đối thủ của ông, bởi
Ngài đang lấn dần ảnh hưởng của ông. Nhưng Gioan đã nghe theo sự soi sáng của
Chúa Thánh Thần nên đã hiểu đúng về Đức Giêsu và đã nhiệt tình giới thiệu Ngài
cho mọi người : "Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi vì Ngài cao trọng hơn
tôi".
5. Được kêu gọi
nên thánh
Trong thư gởi
tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô định nghĩa tín hữu là "những người được kêu
gọi nên thánh".
Nhưng
"thánh" là gì ? Theo thần học, chỉ có một mình Thiên Chúa là
"thánh" (Kinh Sáng Danh : "Chỉ có Chúa là Đấng Thánh").
Theo Thánh Kinh, những ai và những gì thuộc về Thiên Chúa cũng được gọi là
"thánh", chẳng hạn Đền thánh, Luật thánh, thánh nhân… ; việc dâng hiến
một người hoặc một vật cho Chúa được gọi là thánh hiến.
Vậy tín hữu là
những người được kêu gọi nên thánh có nghĩa là tín hữu được mời gọi ngày càng
thuộc về Chúa hơn, ngày càng giống Chúa hơn.
Nhưng làm thế
nào để được như vậy ? Cách tốt nhất là thường xuyên ở bên Chúa, nhìn vào Chúa
và noi gương Chúa. Đó là điều mà phụng vụ các ngày chúa nhựt quanh năm muốn
giúp chúng ta.
V. LỜI NGUYỆN
CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em
thân mến
Thiên Chúa đã
yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người là Đức Giêsu Kitô nhập thế làm
người, chịu chết trên Thập giá để xóa tội lỗi trần gian. Chúng ta cùng cảm tạ
Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Chúa đã đặt
Hội Thánh làm dấu chỉ ơn cứu độ cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội
Thánh luôn trung thành với sứ mạng của mình.
2- Cánh đồng
truyền giáo này nay thật bát ngát bao la / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi
thành phấn dân Chúa / ý thức được trách nhiệm rao giảng Tin Mừng của mình / và
dùng chính đời sống theo Tám mối phúc thật / để giới thiệu Chúa cho những ai
chưa nhận biết Người.
3- Sống an bình
và hạnh phúc / là ước mơ tha thiết của mỗi người đang hiện diện trên trái đất
này / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho thế giới hôm nay được hòa bình và
thịnh vượng / để điều mà môi người chân thành ước mơ / có thể sớm trở thành hiện
thực.
4- Như Thánh
Gioan tẩy giả / mỗi kitô hữu đều có bổn phận phải giới thiệu Chúa cho người
khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta hiểu rằng / giới
thiệu Chúa bằng đời sống bác ái yêu thương và phục vụ hết lòng / là cách tốt nhất
để giúp người khác nhận biết Chúa.
CT : Lạy Chúa
là Cha nhân hậu, chúng con cảm tạ Chúa vì biết bao ơn lành Chúa đã thương ban
cho chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con chỉ tin tưởng cậy trông và phó
thác cuộc đời chúng con trong bàn tay quan phòng kỳ diệu của Chúa mà thôi.
Chúng con cầu xin…
VI. TRONG THÁNH
LỄ
- Trước kinh Lạy
Cha : Chúa Giêsu là Con duy nhất của Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã thương chia sẻ
quyền làm con ấy cho chúng ta nữa. Giờ đây, chúng ta hãy cùng với Chúa Giêsu
dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
- Trước Rước lễ
: Đức Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Ngày xưa Thánh Gioan Tẩy giả
giới thiệu Đức Giêsu thế nào, thì hôm nay Giáo Hội cũng giới thiệu Đức Giêsu
cho chúng ta như thế : "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần
gian…"
VII. GIẢI TÁN
Trong Thánh Lễ
này, anh chị em đã biết Chúa Giêsu là ai, đã được cảm nghiệm tình yêu thương của
Ngài. Lễ đã xong, giờ đây anh chị em hãy đồng hành với Ngài trên những bước đường
của cuộc sống.
---------------------------------------------------
Bài đọc thêm 1
THƯ I CÔRINTÔ
A. GIÁO ĐOÀN
CÔRINTÔ
1. Thành phố
Côrintô đã bị một viên tướng Rôma tên là L. Mumium phá hủy vào năm 146 trước
công nguyên. Một thế kỷ sau nó được xây dựng lại bởi lệnh hoàng đế Jules César
và trở thành một thuộc địa của đế quốc Rôma. Chẳng bao lâu sau nó thành thủ phủ
của tỉnh Achaie của đế quốc.
2. Côrintô cũng
là một hải cảng lớn với một nền thương mại phồn thịnh. Vì nằm trên tuyến đường
nối hai miền Đông Tây, nên việc giao thông cũng tấp nập. Dân số thời ấy khoảng
600 ngàn, trong số đó 2/3 là nô lệ. Về tín ngưỡng, dân Côrintô thờ nhiều thần.
Luân lý rất suy đồi, nạn dâm ô tràn lan (x. Rm 1,26-32).
3. Phaolô đến
Côrintô lần đầu tiên trong chuyến du hành truyền giáo thứ hai. Ông đã lưu lại
đây 18 tháng từ mùa đông năm 50 đến mùa hè năm 52. Ban đầu ông cũng hành nghề dệt
lều và rao giảng trong hội đường do thái vào những ngày hưu lễ. Khi có Sila và
Timôtêô đến tiếp thì ông hoàn toàn lo rao giảng. Nhiều người đã tin theo và
Phaolô lập được một giáo đoàn mà đa số là người lương trở lại, phần đông thuộc
giới hạ lưu nghèo khổ. Những tín hữu này rất hăng say sống đạo nhưng đầu óc còn
thấm nhiễm tâm thức lương dân. Sau đó dân Côrintô đã đuổi Phaolô đi. Sau khi
ông ra đi ít lâu, có một nhà trí thức do thái ở Alexandria tên là Apollo đến nối
tiếp sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân Côrintô và thu được rất nhiều kết quả
(x 1Cr 1,26-28 11,21-22). Sau đó lại có thêm Thánh Phêrô đến nữa.
B. THƯ 1
CÔRINTÔ
1. Hoàn cảnh và
mục đích
Năm 56, Phaolô
đang ở Êphêxô thì được nhiều tin tức không tốt đẹp về giáo đoàn Côrintô : nạn
bè phái, thói kiện cáo nhau trước tòa án lương dân, tội dâm ô v.v. Ngoài ra,
nhiều tín hữu cũng có những thắc mắc về lương tâm và phụng vụ. Phaolô đã gởi
Timôtêô đến đấy để dò la tình hình. Sau khi Timôtêô trở về báo cáo thì Phaolô
viết bức thư này để sửa dạy những thói xấu và giải đáp những thắc mắc của tín hữu
Côrintô.
2. Bố cục
- Lời chào 01,01-03
- Lời tạ ơn 01,04-09
- Sửa dạy những thói xấu :
. Nạn bè phái 01,10--04,21
. 1 trường hợp loạn luân 05,01-13
. Kiện cáo nhau 06,01-11
. Tội dâm ô 06,12-20
- Giải đáp những thắc mắc :
. Về hôn nhân và đồng trinh 07,01-40
. Vấn đề ăn đồ cúng 08,01--11,01
- Bàn về cộng đoàn phụng tự
và các đoàn sủng 11,02--14,40
- Bàn về việc kẻ chết sống lại ch 15
- Kết 16,01-18
- Lời chào 16,19-24
3. Nhận định
chung về thư 1 Cr
- Thư này rất
thực tế, cho ta thấy rõ bề mặt và bề trái của giáo đoàn : không phải cái gì
cũng tốt đẹp êm xuôi, nhưng nhiều vấn đề nội bộ rất phức tạp, nhiều khi rất đau
lòng. Nó cũng cho thấy những uẩn khúc trong tâm hồn của người chịu trách nhiệm
về giáo đoàn : ưu tư, dằn vật, khổ đau nhưng trong hoàn cảnh nào cũng chan chứa
tình thương.
- Nhờ thực tế
như thế, thư này tương đối dễ hiểu. Mặc dù đề cập đến những vấn đề riêng tư của
một giáo đoàn, nhưng qua đó chúng ta cũng rút ra được nhiều tư tưởng có giá trị
chung cho mọi nơi và mọi thời.
Lm. Carolo HỒ BẶC
XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật II Thường Niên
(A)
Chúa Nhật, 15 Tháng 1, 2017
Ông Gioan Tẩy Giả loan báo Đức Giêsu là
Chiên Thiên Chúa
Ga 1:29-34
1. Lời nguyện mở đầu
Trong bài đọc cầu
nguyện này của Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta nhớ đến những lời của thánh
John Henry Newman cùng đồng hành và tác động chúng ta, những lời mà ông muốn
dùng trong lời cầu nguyện với Chúa: Xin
Chúa hãy ở lại với con, và con sẽ bắt đầu tỏa sáng như Chúa đã tỏa sáng; tỏa
sáng để là ánh sáng cho những người khác.
Lạy Chúa Giêsu, tất cả ánh sáng sẽ đến từ Chúa: con không có công trạng gì. Chính Chúa sẽ tỏa sáng vào những người khác
thông qua con. Xin Chúa ban cho con có
thể ngợi khen Chúa được như vậy, theo cách mà Chúa hài lòng nhất, tỏa sáng trên
tất cả những người xung quanh con. Xin
hãy ban cho họ và cho con ánh sáng của Chúa; xin hãy sáng soi họ cùng chung với
con, qua con. Xin hãy dạy cho con biết
trải rộng lời chúc tụng Chúa, chân lý của Chúa, thánh ý của Chúa. Xin ban cho con có thể làm cho Chúa được biết
đến không phải qua những lời nói suông mà bằng gương mẫu, có ảnh hưởng đến sự
đoàn kết từ những việc con làm, hiển nhiên như các thánh của Chúa, và một cách
rõ ràng đầy đủ của tình yêu Chúa triển nở trong trái tim con” (trích Suy gẫm và Sùng Kính)
2. Tin Mừng
29 Khi ấy, ông
Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình liền nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần
gian. 30 Này tôi đã nói về Ngài: “Một
người đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Ngài cao trọng hơn tôi.” 31 Và tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng để
Ngài được tỏ mình ra với Israel, nên tôi đã đến làm phép rửa trong nước”. 32 Và Gioan làm chứng rằng: “Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời
đáp xuống và ngự trên Ngài. 33 Về phần
tôi, tôi đã không biết Ngài. Nhưng Đấng
sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi:
“Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép
rửa trong Chúa Thánh Thần”. 34 Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa”.
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Lời Chúa đòi hỏi
chúng ta phải ao ước và đón nhận lấy qua việc im lặng suy gẫm. Các bạn hãy lắng đọng, hãy để cho chính mình
chào đón sự hiện diện của Thiên Chúa trong Lời của Người, một sự im lặng dọn chỗ
trong tâm hồn bạn để Thiên Chúa có thể đến và nói chuyện với bạn.
4. Bài đọc tượng trưng
Đoạn Tin Mừng
này nói về hai con vật có giá trị tinh thần tuyệt vời trong Kinh Thánh: con chiên và chim bồ câu. Con vật đầu tiên đề cập đến các văn bản quan
trọng trong Kinh Thánh: bữa ăn lễ vượt
qua của thời gian lưu đày (các câu 12-13); sự vinh quang của Chúa Kitô – Con
Chiên trong sách Khải Huyền.
a) Biểu tượng con chiên:
Chúng ta hãy hướng
sự chú ý của chúng ta đến sự tượng trưng của “Chiên Thiên Chúa” (amnos) và ý
nghĩa của nó.
- Ám chỉ Kinh Thánh đầu tiên cho việc hiểu biết
ý nghĩa của những chữ này được xử dụng bởi ông Gioan Tẩy Giả để chỉ về con người
của Chúa Giêsu, là nhân vật của Con Chiên chiến thắng trong sách Khải Huyền,
trong chương 7:17 Con Chiên là mục tử của các quốc gia; trong chương 17:14 Con
Chiên chiến thắng quyền lực sự dữ trên trái đất. Trong thời Chúa Giêsu, người ta đã tưởng tượng
rằng vào lúc tận thế một con chiên chiến thắng hay một con nào đó sẽ xuất hiện
để phá hủy các quyền lực tội lỗi, bất công và sự dữ. Ý tưởng này phù hợp với lời rao giảng về ngày
cánh chung của Gioan Tẩy Giả, người đã cảnh báo rằng cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa đã sắp xảy ra (Lc 3:7), rằng cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây, và Thiên Chúa
đã sẵn sàng để chặt đi và bỏ vào lửa tất cả những cây nào không sinh trái tốt (Lc
3:9, Mt 3:12 và Lc 3:17).
Một câu nói mạnh
mẽ khác mà Gioan Tẩy Giả giới thiệu về Chúa Giêsu trong Tin Mừng Mátthêu chương
3:12: “Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sân
lúa của Ngài; rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt”. Không có gì sai lầm khi nghĩ rằng Gioan Tẩy
Giả có thể mô tả Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa là Đấng phá bỏ tội lỗi của thế
gian. Thực thế, trong thư thứ nhất của
thánh Gioan, chương 3:5 đã viết: “Bây giờ
anh em biết Đức Giêsu đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi”; và trong chương
3:8: “Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là
để phá hủy công việc của ma quỷ đã làm”.
Có thể là Gioan Tẩy Giả đã chào đón Chúa Giêsu như Con Chiên chiến thắng,
Đấng do lệnh của Thiên Chúa, đến để phá bỏ sự dữ trên thế gian.
- Ám chỉ Kinh Thánh thứ hai là Con Chiên như là
người tôi trung. Hình ảnh của người tôi
trung này hay của Đấng Giavê là chủ đề của bốn bài thánh ca trong sách của tiên
tri Isaia: 42:1-4, 7, 9; 49:1-6, 9, 13; 50:4-9, 11; 52:13; 53:12. Chúng ta cần tự hỏi có phải là việc dùng chữ
“Chiên Thiên Chúa” trong Tin Mừng Gioan 1:29 không được tô đậm bằng chữ “con
chiên” để ám chỉ người Tôi Trung của Thiên Chúa trong sách Isaia chương
53. Thánh sử Gioan có đã thực sự xem Con
Chiên Giêsu như là Người Tôi Trung không?
Không có bằng
chứng rõ ràng rằng ông Gioan Tẩy Giả đã thực hiện một sự nối kết như thế, cũng
không có bằng chứng nào loại trừ khả năng như thế. Thật vậy, trong sách Isaia chương 53:7 viết
là Người Tôi Trung “chẳng bao giờ mở miệng kêu ca; như cừu câm nín khi bị xén
lông, Người chẳng hề mở miệng”. Lời mô tả
này được áp dụng cho Chúa Giêsu như trong sách Tông Đồ Công Vụ chương 8:32, và
vì thế sự tương tự giữa người Tôi Trung và Đức Giêsu đã được thực hiện bởi các
Kitô hữu tiên khởi (xem Mt 8:17 và Is 53:4; Dt 9:28 và Is 53:12).
Ngoài ra, trong
lời mô tả của ông Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan chương
1:32-34, có hai khía cạnh gợi nhớ lại hình ảnh của người Tôi Trung: trong câu 32, Gioan Tẩy Giả nói rằng ông đã
thấy Chúa Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Ngài; trong
câu 34 ông xác định chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cũng như thế, trong sách Isaia 42:1 (một đoạn
tóm tắt cũng liên kết với việc Chúa Giêsu chịu phép rửa), chúng ta đọc thấy: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người
Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên nó” (xem Mc
1:11). Lần nữa, trong sách Isaia chương
61:1: “Thần Khí của Đức Chúa ngự trên
tôi”. Những ám chỉ này trong Kinh Thánh
tăng cường khả năng tác giả Phúc Âm đã nối kết giữa người Tôi Trung của sách
Isaia chương 42, 53 và Chiên Thiên Chúa.
Trong các phần
khác của Tin Mừng Gioan, chúng ta cũng tìm thấy Chúa Giêsu được mô tả với những
đặc điểm của người Tôi Trung (Ga 12:38 và Is 53:1).
Một khía cạnh
thú vị được nhận thấy là Chiên Thiên Chúa được cho là Đấng xóa tội của trần
gian. Sách Isaia chương 53:4-12, nói rằng
người Tôi Trung đã gánh hoặc chuộc những tội lỗi của nhiều người. Bằng cái chết của Người, Chúa Giêsu đã xóa tội
hoặc đã gánh tội cho thế gian.
Như vậy theo
cách giải thích thứ hai, Chiên Thiên Chúa như người Tôi Trung, là Đức Kitô đã tự
nộp mình để xóa bỏ tội lỗi thế gian và khôi phục các anh chị em của Ngài lại bằng
xương bằng thịt trở về với Thiên Chúa.
Chúng ta tìm thấy
một sự xác nhận hiện đại của câu giải thích này về Chúa Giêsu là “Chiên Thiên
Chúa” trong một tài liệu của các Giám Mục tại Ý: “Sách Khải Huyền của Gioan thậm chí sẽ đi đến
tận cùng chiều sâu của mầu nhiệm về Đấng được sai đi bởi Chúa Cha, công nhận
Người là Con Chiên, là Đấng chịu hy sinh ‘từ thuở tạo dựng thế gian’ (Kh 13:8),
Đấng mà những vết thương của Người đã chữa lành chúng ta (1Pr 2:25; Is
53:5)” (Truyền thông Tin Mừng trong một
thế giới thay đổi, số 15).
- Ám chỉ Kinh Thánh thứ ba là Con Chiên như con
chiên của lễ vượt qua. Tin Mừng của
Gioan thì đầy các biểu tượng về sự Phục Sinh đặc biệt là liên quan đến cái chết
của Chúa Giêsu. Đối với cộng đoàn Kitô hữu
mà thánh Gioan đã viết Tin Mừng cho họ, Con Chiên đã xóa tội trần gian bởi cái
chết của Người. Thật thế, trong Tin Mừng
Gioan chương 19:14 được viết rằng Chúa Giêsu bị kết án tử hình vào trưa ngày
trước hôm lễ Vượt Qua, đó là lúc các thày thượng tế bắt đầu làm thịt con chiên
trong Đền Thờ để mừng lễ Vượt Qua. Một sự
kết nối khác của biểu tượng lễ vượt qua với cái chết của Chúa Giêsu là trong
khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, một miếng bọt biển thấm đầy giấm được buộc
vào một cây que rồi đưa lên miệng Người (Ga 19:29), và cây que hoặc nhành hương
thảo đã được nhúng trong máu của con chiên sát tế cho lễ Vượt Qua đã được bôi
lên khung cửa của dân Do-Thái (Xh 12:22).
Sau đó, trong Tin Mừng Gioan chương 19:36 việc ứng nghiệm của Kinh Thánh
rằng không một chiếc xương nào của Chúa Giêsu bị đánh dập, rõ ràng là một ám chỉ
đến bản văn trong sách Xuất Hành chương 12:46 trong đó viết rằng không được làm
gãy một chiếc xương nào của con chiên bị sát tế trong lễ Vượt Qua. Lời mô tả Chúa Giêsu như Con Chiên được tìm
thấy trong một tác phẩm khác của Gioan, được gọi là sách Khải Huyền: chương 5:6 đề cập đến con chiên hy sinh; các
chương 7:17 và 22:1, từ Con Chiên chảy ra một dòng nước trường sinh và khía cạnh
này cũng là một ám chỉ tới việc ông Môisen làm cho nước chảy ra từ đá; cuối
cùng, chương 5:9 nhắc đến máu cứu chuộc của Con Chiên, một chủ đề Vượt Qua khác
gợi nhớ lại việc cứu thoát dân tộc Do Thái khỏi sự nguy hiểm của cái chết.
Có một sự tương
đồng giữa máu của con chiên bôi lên khung cửa như một dấu hiệu của việc giải
thoát và máu của con chiên được dâng lên trong hy lễ cho sự giải thoát. Chẳng bao lâu các Kitô hữu đã bắt đầu so sánh
Đức Giêsu với con chiên của lễ Vượt Qua, khi làm như thế, họ đã không ngần ngại
xử dụng ngôn từ hiến tế: “Đức Kitô đã chịu
hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5:7), bao gồm cả nhiệm vụ của
Chúa Giêsu xóa đi tội lỗi của trần gian.
b) Biểu tượng chim bồ câu:
Sự tượng trưng
thứ hai này cũng có một vài khía cạnh của nó.
Trước hết, những chữ “như chim bồ câu” đã thường được dùng để diễn tả sự
nối kết tình cảm với cái tổ. Trong bối cảnh
của chúng ta, có thể nói rằng Chúa Thánh Thần đã tìm thấy tổ của mình, môi trường
sống tự nhiên của tình yêu Chúa Thánh Linh ở trong Chúa Giêsu. Hơn thế nữa, chim bồ câu tượng trưng cho tình
yêu của Chúa Cha đặt trên Chúa Giêsu như một nơi ở vĩnh viễn (xem Mt 3:16; Mc
1:10; Lc 3:22).
Sau đó, những
chữ “như chim bồ câu” được xử dụng trong việc liên kết với động từ đáp xuống để
nói rằng đó không phải là một thắc mắc về mặt vật chất của chim bồ câu nhưng là
cách Chúa Thánh Thần ngự xuống (như sự đáp xuống của chim bồ câu), trong ý
nghĩa rằng đó không phải là một sự tấn công mà là sự truyền đạt của lòng tin tưởng. Trong Thánh Kinh, biểu tượng về chim bồ câu
như thế không có một biểu tượng tương ứng nào khác; tuy nhiên, một chú giải
Thánh Kinh cũ của các trường phái đạo Do-Thái so sánh sự bay lượn lơ lửng của
Chúa Thánh Thần trên các vùng biển thời nguyên thủy với việc chim bồ câu vỗ
cánh bay lượn trên tổ của mình. Không phải
là không thể xử dụng biểu tượng này, Gioan đã muốn nói rằng việc ngự xuống của
Chúa Thánh Thần trong hình dạng của một chim bồ câu là một nhắc nhở rõ ràng cho
sự khởi đầu của việc tạo dựng vũ trụ: kế
hoạch của Thiên Chúa nhập thể làm người trong Đức Giêsu là điểm tột đỉnh và là
mục đích của công việc sáng tạo của Thiên Chúa.
Tình yêu của
Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu (tương ứng với việc chim bồ câu bay trở về tổ)
thúc đẩy Người phải chuyển tải sự sung mãn thiên tính của Người (Chúa Thánh Thần
là tình yêu và lòng trung thành).
5. Sứ Điệp
a) Đức Kitô là Đấng Cứu Độ của chúng ta: Ông Gioan Tẩy Giả đã có nhiệm vụ chỉ ra rằng
Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa Đấng xóa tội trần gian”. Việc công bố Tin Mừng, Lời của Chúa Giêsu
Kitô, thật là cần thiết và không thể thiếu được cho hôm nay cũng như trong quá
khứ. Chúng ta không bao giờ ngừng có nhu
cầu về sự giải thoát và ơn cứu rỗi. Công
bố Tin Mừng không có nghĩa là chỉ truyền đạt sự thật trên lý thuyết, cũng không
phải là một bộ sưu tập các bài dạy về đạo đức.
Thay vào đó, nó có nghĩa là cho phép mọi người được trải nghiệm với Chúa
Giêsu Kitô, Đấng đã xuống thế gian – theo sự làm chứng của Gioan – để cứu nhân
loại khỏi tội lỗi, sự dữ và cái chết. Vì
vậy, chúng ta không thể nào loan truyền Tin Mừng và cùng lúc không chú ý đến
các nhu cầu hằng ngày và sự mong đợi của người dân. Để nói về niềm tin vào Đức Giêsu, Chiên Thiên
Chúa, Đấng xóa tội trần gian, có nghĩa là nói với những người dân trong thời đại
của chúng ta, việc đầu tiên chúng ta nên tự hỏi họ đang kiếm tìm những gì trong
sâu thẳm của trái tim họ.
“Nếu chúng ta
muốn giữ lấy một tiêu chuẩn thích hợp…, chúng sẽ cần phải nuôi dưỡng hai điểm
trọng yếu bổ sung nhau… Chúa Giêsu Kitô là chứng tá cho cả hai. Điều đầu tiên bao gồm nỗ lực của chúng ta lắng
nghe nền văn hóa của thế giới chúng ta để phân biệt các hạt giống Lời Chúa đã
hiện diện ở đó, thậm chí vượt khỏi các biên giới hữu hình của Giáo Hội. Để lắng nghe những sự mong đợi thân mật nhất
của những người đương thời với chúng ta, hãy cân nhắc một cách nghiêm túc những
mong ước và khát vọng của họ, hãy tìm cách hiểu những điều gì đang nung nấu tâm
can họ và những điều gì khiến họ sợ hãi và kém tự tin”. Bên cạnh đó, hãy chú ý đến các nhu cầu và sự
mong đợi của dân chúng “không có nghĩa là từ bỏ những gì khác biệt trong Kitô
giáo, hoặc sự siêu việt của Tin Mừng… sứ điệp Kitô hữu nhắm vào một cách sống
hoàn toàn nhân bản nhưng không tự giới hạn chỉ trình bày chủ nghĩa nhân bản đơn
thuần. Đức Giêsu Kitô đã đến để chúng
ta có thể được dự phần vào đời sống thiêng liêng, đời sống đã được gọi là “nhân
loại của Thiên Chúa”. (Truyền thông Tin
Mừng trong một thế giới thay đổi, số 34).
b) Chúa Thánh Thần không chỉ đến ngự xuống trên
Chúa Giêsu, nhưng cũng để chiếm hữu Người một cách vĩnh viễn để Người có thể tự
chia xẻ với những người khác trong phép rửa.
Sau cùng, Con Chiên tha thứ tội lỗi và “chim bồ câu của Giáo Hội, gặp gỡ
trong Đức Kitô”. Đây là một lời trích từ
thánh Bernard nơi ông tập hợp hai biểu tượng với nhau: “Con chiên là một trong những động vật mà
chim bồ câu là con vật thuộc giống chim muông:
ngây thơ, dịu dàng và mộc mạc”.
c) Một vài gợi ý thiết thực:
- Đổi mới lòng sẵn sàng của chúng ta để cộng
tác với sứ vụ của Chúa Kitô trong sự hiệp thông với Giáo Hội bằng cách giúp đỡ
cho người ta được thoát khỏi sự dữ và tội lỗi.
- Hỗ trợ những người trên cuộc hành trình của họ
để họ có thể sống trong hy vọng vào Chúa Giêsu là Đấng Giải Thoát và Cứu Chuộc.
- Làm chứng cho sự vui mừng của người ta trong
kinh nghiệm nhận được hiệu quả của Lời Chúa Giêsu trong đời sống của người ấy.
- Sống truyền thông đức tin bằng cách làm chứng
tá cho Đức Giêsu, Đấng Cứu D9ộ của mọi người.
6. Thánh Vịnh 40
Bài Thánh Vịnh
này nói về tình cảnh của một người được giải thoát khỏi sự áp bức, thấy không
có thái độ nào chân thật hơn trong việc đáp lời Thiên Chúa là sự tồn tại và
hoàn toàn sẵn sàng cho Lời Người.
Tôi đã hết lòng
trông đợi CHÚA,
Người nghiêng
mình xuống và nghe tiếng tôi kêu.
Chúa cho miệng
tôi hát bài ca mới,
bài ca tụng
Thiên Chúa chúng ta.
Chúa chẳng
thích gì tế phẩm và lễ vật,
nhưng đã mở tai
con;
lễ toàn thiêu
và lễ xá tội, Chúa không đòi,
con liền thưa:
"Này con xin đến!
Trong sách có lời
chép về con
rằng: con thích
làm theo thánh ý,
và ấp ủ luật
Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con."
Đức công chính
của Ngài,
con loan truyền
giữa lòng đại hội;
lạy CHÚA, Ngài
từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh.
7. Lời nguyện kết
Lạy Cha, Đấng
vào trong ngày của Chúa
đã tụ tập dân
Cha để cử hành
Đấng Trước Hết
và Sau Hết,
Đấng Hằng Sống
đã chiến thắng sự chết,
xin Cha hãy ban
cho chúng con sức mạnh của Chúa Thánh Thần để
phá vỡ xiềng
xích của sự dữ,
nguyện xin cho
chúng con có thể quy phục Cha hoàn toàn
trong sự vâng lời
và tình yêu của chúng con,
để chúng con có
thể ngự trị với Chúa Kitô trong vinh quang.
Bởi vì Người là
Thiên Chúa, Đấng hằng sống và ngự trị với Chúa Cha,
trong sự hiệp
nhất của Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời.
(Trích kinh Phụng
Vụ)
www.dongcatminh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét