02/02/2017
Thứ 5 tuần 4 TN
Lễ dâng Chúa Giê-su trong đền thánh
Lễ Kính
Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4
"Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh
Người".
Trích sách Tiên tri
Malakhi.
Này đây Chúa là Thiên
Chúa phán: "Ðây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!" Lập
tức Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà các ngươi
mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: "Này đây Người
đến". Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để trông
nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ
ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho
chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình.
Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như những năm
trước. Ðó là lời Chúa toàn năng phán.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9.
10
Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)
Xướng: 1) Các cửa ơi,
hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự
qua. - Ðáp.
2) Nhưng Vua hiển vinh
là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. -
Ðáp.
3) Các cửa ơi, hãy ngẩng
đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự qua. -
Ðáp.
4) Nhưng Vua hiển vinh
là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 2, 14-18
"Người phải
nên giống anh em Mình mọi đàng".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Vì các con trẻ cùng
chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng thông phần
điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma
quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng
Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi
thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người
trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân.
Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể
cứu giúp những ai sống trong thử thách.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2,32
Alleluia, alleluia! -
Ánh sang đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân Chúa.
- Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 22-32 [hoặc 22-40]
"Mắt tôi đã
nhìn thấy ơn cứu độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ ngày thanh
tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến
dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng
sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho
Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem,
có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi
chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần
trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh
Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi
hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và
chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, giờ
đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính
mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân,
là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân
Chúa".
[ Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về
Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng:
"Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải
sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần
bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà
tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ,
bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi.
Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ
ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những
người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất
mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và
con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng
Người. ]
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm :
Giáo hội Roma lại thường
kể lễ này vào số các lễ Đức Trinh Nữ. Trong thông điệp về lòng tôn sùng Đức
Trinh Nữ Maria. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI viết: “Lễ mùng 2 tháng 2, được cải tên
là lễ “dâng Chúa vào đền thánh”, cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn
lao của ân sủng Chúa Giêsu và Mẹ Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm
cứu độ. Mẹ Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ
mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân ước luôn
luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy” (Lc 2,21-35)
(Marialis Cultur, số 7b).
Sự kiện dâng Chúa
Giêsu vào đền thánh và thánh tẩy Đức Trinh Nữ đã được thánh sử Luca ghi lại (Lc
2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu ước
(Lv 12,8). Theo luật Môisê, phụ nữ sau khi sanh con thì bị coi là nhơ uế trong
40 ngày nếu sinh con trai và trong 80 này nếu sinh con gái. Trong những ngày ấy
họ không được vào đền thờ và không được chạm đến vật dụng nào đã thánh hiến cho
Thiên Chúa. Hết những ngày kiêng cữ trên, họ đến đền thờ để được thanh tẩy. Họ
phải mang theo một con chiên nếu là nhà giàu hay hai con chim gáy hoặc bồ câu
non làm của lễ. Ngoài ra để ghi nhớ dịp vượt qua đất Ai cập. Lúc các con đầu
lòng của loài người hay là của loài vật đều phải dâng cho Thiên Chúa (Xh 13,2).
Vậy, trung tín với lề luật, Đức Maria và thánh Giuse “khi đã đầy ngày, lúc phải
làm lễ tẩy uế cho các đấng theo luật Môsê, thì ông bà đem hài nhi lên
Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” và các Ngài “dâng làm lễ tế một cặp chim gáy hay
hai con bồ câu” (Lc 2,22-24).
Như vậy sự kiện dâng
Chúa Giêsu vào đền thánh diễn ra một cách bình thường dưới mắt người đời. Nhưng
trong lịch sử cứu độ, đây là việc thực hiện lời tiên báo của tiên tri Malaki:
“Thình lình sẽ đến nơi đền thờ của Người, vị Chúa tể mà các ngươi đòi hỏi, và
thần sứ giao ước mà các ngươi ước nguyện, này vị ấy đến” (Ml 3,1). Chúa đã đến
trong đền thờ Người. Bao nhiêu người đã ngóng chờ biến cố cứu độ này. Nhưng như
chính tiên tri Malaki trước tự hỏi: “Ai chịu đựng nổi ngày Người đến ? Ai đứng
vững được khi Người hiện ra?” (Ml 3,2). Dĩ nhiên khó ai nhận biết được Thiên
Chúa, bởi vì Ngài đã mặc lấy vóc dáng con người như chúng ta. Phải có sự soi
sáng của Thánh Thần mới biết được. Siméon và Anna là những người công chính và
mộ đạo đã được hưởng đặc ân này. Được linh cảm, Siméon “đến đền thờ, khi cha mẹ
bồng hài nhi Giêsu đến để làm theo điều lề luật dạy về Người” (Lc 2,270. Ẵm lấy
Hài nhi trên tay, Siméon đã chúc tụng Chúa và nói:
- “Mắt tôi đã thấy ơn
Người cứu độ,
Người đã dọn sẵn trước
mặt muôn dân,
Ánh sáng mạc khải cho
dân ngoại và vinh quang của Israel dân Người” (Lc 2,30-32)
Còn nữ tiên tri Anna,
“không rời khỏi đền thánh, thờ Chúa đêm ngày trong chay kiêng và cầu nguyện.
Vào giờ ấy, bà đã đến bên tán tạ Thiên Chúa và bà đã nói về Ngài cho mọi kẻ
ngóng đợi phúc cứu chuộc của Gierusalem” (Lc 37-38).
Ngày lễ Dâng Chúa
Giêsu vào đền thánh còn được gọi là lễ Nến. Hôm nay Giáo hội làm phép những cây
nến và phân phát cho giáo dân. Cầm nến sáng trong tay và tiến vào thánh đường,
mọi người lặp lại Thánh Ca mà tiên tri Siméon đã hát khi Đức Mẹ và thánh Giuse
dâng Chúa Giêsu vào đền thánh. Chúa Giêsu quả là ánh sáng muôn dân, dẫn lối
chúng ta vào trong cung điện Người. Những “cây nến phép” này sẽ được cất giữ
trong các gia đình để dùng vào dịp lãnh các bí tích sau hết hay để thắp bên thi
hài người quá cố trong gia đình.
Xin Chúa cho chúng con
luôn tìm về nẻo chính đường ngay, tìm đến cùng Đức Giêsu là ánh sáng chẳng bao
giờ tàn lụi.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Dâng Con Trong Đền Thờ (Ngày 2 tháng 2)
Bài đọc: Mal 3:1-4; Heb 2:14-18; Lk
2:22-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Chúa Giêsu vào Đền Thờ để gặp gỡ dân Người.
Đền Thờ là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người: bắt đầu với
Lều Hội Ngộ khi con cái Israel vẫn còn lang thang suốt 40 năm trường trong sa mạc;
sau khi ổn định trong Đất Hứa, vua Solomon đã xây dựng một Đền Thờ và di chuyển
Hòm Bia vào nơi Cực Thánh, để con người đến cầu nguyện và dâng lễ hy sinh đền tội;
khi Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy toàn bộ vào năm 70 AD, sự hiện diện của Thiên
Chúa không chỉ còn giới hạn tại Jerusalem, nhưng lan tràn mọi nơi, bất cứ nơi
nào có nhà thờ, nơi đó có Chúa Giêsu hiện diện với con người cho đến Ngày Tận
Thế.
Các bài đọc hôm nay muốn nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền
Thờ để gặp gỡ dân Ngài. Trong bài đọc I, tiên-tri được coi như cuối cùng của Cựu
Ước, Malachi, nhìn thấy trước ngày Thiên Chúa thân hành hiện đến thăm viếng dân
Người để thanh tẩy họ khỏi mọi tội lỗi; một sứ giả sẽ đi trước chuẩn bị đường
cho Ngài. Trong bài đọc II, tác giả Thư Do-thái mô tả cách thức hiện diện của
Thiên Chúa: Ngài sẽ mặc lấy xác phàm của con người để ở với con người, để con
người có thể trông thấy Ngài bằng xương thịt. Ngài sẽ trải qua tất cả những đau
khổ của kiếp người để cảm thông, để trợ giúp, và để xóa sạch tất cả tội lỗi của
con người. Trong Phúc Âm Lucas, cụ già Simeon là người đầu tiên được xem thấy
Chúa khi cha mẹ mang Ngài đến để gặp gỡ dân Người. Simeon sẵn sàng nhắm mắt ra
đi, vì ông đã được nhìn thấy ơn cứu độ bằng xương thịt như lời các tiên tri
loan báo.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến.
Sách tiên-tri Malachi
được viết sau Thời Lưu Đày, khoảng 515 BC. Cũng như nhiều các tiên-tri khác,
tiên-tri Malachi tin triều đại của Đấng Thiên Sai đã gần đến: “Này Ta sai sứ giả
của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng
mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của
giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, Đức Chúa các đạo binh phán.” Theo lời
tiên-tri Malachi, một Sứ-giả sẽ đến trước để dọn đường trước khi Đấng Thiên Sai
tới; và khi đã dọn đường xong, Đấng Thiên Sai sẽ đến bất cứ lúc nào.
1.1/ Vai trò của Sứ-giả: Truyền thống Do-thái tin Ngày Đấng Thiên Sai tới sẽ là
ngày kinh hoàng của kẻ dữ, nhưng sẽ mang hy vọng cho những người Israel còn
sót. Tiên-tri Malachi nói về Ngày này như sau: “Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai
đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như
thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy
con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc.”
Hai nhiệm vụ chính của
Sứ-giả dọn đường cho Đấng Thiên Sai là thanh tẩy và tinh luyện tâm hồn dân
chúng để họ sẵn sàng cho Ngày của Thiên Chúa. Hai chất liệu được dùng là lửa của
người luyện kim và thuốc tẩy của người thợ giặt. Lửa được dùng để thử cho biết
vàng nào là vàng thực và tinh luyện nó khỏi mọi vết dơ bẩn. Thuốc tẩy được dùng
để tẩy sạch những vết dơ bám vào trong quần áo. Điều Sứ-giả cần thanh tẩy và
tinh luyện chính là tâm hồn con người, sao cho xứng đáng để có thể đứng vững
trong Ngày của Đức Chúa.
Tiên-tri Malachi lên
án những lỗi lầm của hàng tư tế vì họ lười biếng và khinh thường Thiên Chúa
trong việc thờ phượng. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa không nhận lễ vật của họ,
Ngài sẽ chọn lễ vật trong sạch hơn (Mal 1:1-2:17). Vì thế, đối tượng chính mà
tác giả nhắm tới là hàng tư tế Levi và tâm hồn của họ: “Bấy giờ, đối với Đức
Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. Lễ vật của Judah và
của Jerusalem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như những
năm thuở trước.”
1.2/ Tiên-tri Elijah là Sứ-giả
dọn đường cho Đấng Cứu Thế: “Này Ta sai
ngôn-sứ Elijah đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, Ngày trọng đại
và kinh hoàng. Nó sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn
con cháu trở lại với cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ đánh phạt xứ sở đã bị án
tru diệt.”
Song song bổn phận của
con người đối với Thiên Chúa là bổn phận của con người đối với tha nhân; nhất
là những người trong gia đình. Một khi mối liên hệ chiều dọc với Thiên Chúa bị
lơ là thì mối liên hệ chiều ngang với tha nhân cũng bị thiệt hại. Sứ-giả dọn đường
cho Thiên Chúa cũng phải chú trọng đến sứ vụ hòa giải giữa con người với con
người, trong gia đình cũng như ngòai xã hội.
2/ Bài đọc II: Người đã phải nên giống anh em mình về mọi
phương diện.
Khi Kitô Giáo lan tràn
vào thế giới La-Hy, hai vấn nạn khó khăn Giáo Hội phải đương đầu với là phải giải
thích cho người Hy-lạp biết:
(1) Tại sao Thiên Chúa
phải nhập thể: Đối với người Hy-lạp, Thiên Chúa hòan tòan là Thần Khí, nơi Ngài
không có một chút vật chất nào cả. Để được giải thóat và kết hợp với Thiên
Chúa, con người phải cố gắng làm sao để thóat khỏi ngục tù thân xác đang giam
hãm linh hồn con người, để chỉ còn thần khí mà thôi. Kitô Giáo đi ngược lại,
Con Thiên Chúa phải nhập thể để cứu chuộc con người!
(2) Tại sao Thiên Chúa
phải chịu đau khổ: Người Hy-lạp và người Do-thái không tin Thiên Chúa phải chịu
đau khổ; chỉ có con người mới phải chịu đau khổ mà thôi. Một Thiên Chúa phải chịu
đau khổ không còn là Thiên Chúa nữa. Họ lý luận: Nếu Thiên Chúa không có uy quyền
để vượt thóat đau khổ, làm sao Ngài có thể giúp người khác vượt qua đau khổ được?
Kitô Giáo cũng đi ngược lại, không thể có Ơn Cứu Độ nếu con Thiên Chúa không chịu
chết trên Thập Giá!
Tác giả Thư Do-thái cố
gắng trả lời hai vấn nạn này như sau:
2.1/ Chúa Giêsu phải nhập
thể để mang lấy thân phận con người: Để có
thể tiêu diệt tội lỗi và sự chết, Chúa Giêsu phải mang lấy thân xác con người để
có thể chịu chết và đền tội cho con người. Nếu không có thân xác, làm sao chết?
“Vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết
nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây
ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống
trong tình trạng nô lệ. Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên
thần, mà là con cháu Abraham.” Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không chết muôn đời; Ngài
đã sống lại vinh quang, và trở nên hoa quả đầu tiên của những người từ trong
cõi chết sống lại. Ngài là “người tiên phong” đi mở đường, để tất cả các anh em
của Ngài cũng được đi con đường đó.
2.2/ Chúa Giêsu phải trở
nên con người về mọi phương diện: Tác giả
Thư Do-thái nhận ra sự cần thiết của việc Chúa Giêsu phải trở nên con người về
mọi phương diện, ngọai trừ tội lỗi: “Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em
mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín
trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.” Mục đích của việc “hòan
toàn trở nên con người” là để:
(1) Ngài có thể thực sự
được coi là một con người: Đã là con người, ai cũng phải chịu đựng đau khổ và
ngang qua cái chết.
(2) Ngài có thể thông
cảm và đồng cảm với thân phận con người: Nếu một người không ngang qua những
kinh nghiệm đau khổ và sự chết, người đó sẽ không thể hòan tòan hiểu và thông cảm
những ai bị ở trong hòan cảnh đó.
(3) Ngòai ra, Ngài có
thể giúp đỡ một cách hiệu quả cho những ai ở trong hòan cảnh đó: “Vì bản thân
Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị
thử thách.”
Nói tóm, Thiên Chúa có
uy quyền trên cả sự sống và sự chết. Ngài có thể cho Con của Ngài nhập thể, chịu
đau khổ, ngang qua sự chết, và phục sinh vinh hiển. Chẳng có gì là không thể đối
với Thiên Chúa; chúng ta đừng áp dụng cách thức suy nghĩ của con người cho
Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Các mẫu gương của những người sống theo đường lối
của Thiên Chúa.
3.1/ Gia Đình Thánh tuân
giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày
lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Moses, bà Maria và ông Giuse đem con lên
Jerusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi
con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa," và cũng để
dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
3.2/ Ông Simeon tin vào Lời
Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.
(1) Ông Simeon là người
công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần
hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy
cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy,
ông lên Đền Thờ.
(2) Lúc cha mẹ Hài Nhi
Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an
bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân
Ngài."
3.3/ Ông Simeon nói tiên
tri:
(1) Về con trẻ: “Thiên
Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống
hay đứng dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy, những ý
nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được đứng
dậy là hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời
của Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ
chối không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng
dậy là các người thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng
khi được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2) Về Mẹ Maria: “Còn
chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời của Chúa Giêsu
là cuộc đời của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành với con từ
lúc sinh ra trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhà thờ là nơi con
người gặp gỡ Thiên Chúa để bàn chuyện, để được hướng dẫn, và để lãnh nhận những
ơn thánh cần thiết cho cuộc sống con người.
- Chúng ta cần phải
chuẩn bị tâm hồn mỗi khi đến nhà thờ để gặp gỡ Thiên Chúa. Nếu chúng ta đến nhà
thờ với một tâm hồn khô khan, vội vã và bất kính, chúng ta sẽ không thể gặp gỡ
Thiên Chúa và lãnh nhận những hồng ân của Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên OP
Dâng Chúa Giê-su trong
Đền Thánh Lc 2,22-40
DÂNG CON CHO CHÚA MỖI NGÀY
Khi đã đến ngày lễ
thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên
Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa. (Lc 2,22)
Suy niệm: Tại nhiều nước đã
thành luật: cha mẹ ngược đãi con cái sẽ bị luật pháp trừng phạt! Hợp lý thôi,
thế nhưng, những cha mẹ không chăm lo giáo dục con cái sẽ phải chịu hình phạt
nào? Còn những cha mẹ Công giáo chểnh mảng việc giáo dục đức tin cho con mình,
Chúa xét xử thế nào? Khi dâng Chúa Giê-su vào Đền thờ hôm nay, Đức Ma-ri-a và
thánh cả Giu-se không coi đó như một nghi thức làm-một-lần-là-xong, nhưng việc
dâng con ấy kéo dài mãi suốt đời đến tận dưới chân thập giá. Chúng ta cứ hình
dung dưới mái nhà Na-da-rét, hai Đấng vẫn tiếp tục dâng hiến trẻ Giê-su cho
Thiên Chúa, khi các ngài dạy trẻ Giê-su bập bẹ từng lời kinh, từng cử chỉ tôn
giáo, khi chăm sóc từng lời ăn tiếng nói, dạy phép lịch sự, dạy các thói quen
tốt cho trẻ Giê-su… để rồi theo thời gian, là bé Giê-su ngoan, rồi trẻ Giê-su tốt,
và chàng trai Giê-su hiền hoà, hào hiệp, dễ mến, là trái ngọt từ một khởi điểm:
dâng con cho Chúa ở Đền thờ.
Mời Bạn nhớ đến hình ảnh đẹp của ngày rửa tội: cha mẹ bồng con cái đến dâng cho Chúa. Là bậc làm
cha mẹ, bạn vẫn tiếp tục công cuộc dâng hiến con cái này trong đời sống hằng
ngày chứ ? Hình như nhiều vị phụ huynh Công giáo cũng chạy theo trào lưu hiện
nay: chỉ lo cho con cái có bằng cấp văn hóa, có của cải tiện nghi, có nghề
nghiệp địa vị mà quên mất một điều quan trọng hơn: giáo dục đức tin và nhân bản
cho con mình.
Sống Lời Chúa: Là cha mẹ, mỗi ngày tôi sẽ dành thời gian dạy kinh,
đọc Lời Chúa, phép lịch sự… cho con cái mình.
Cầu nguyện: Đọc kinh Gia đình (tr.
58).
Ánh sáng và vinh quang (2.2.2017 – Thứ năm: Dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh)
Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng, cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Suy niệm:
“Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà
dâng Chúa Giêsu trong đền thánh,
ta hãy xin cho được vâng
lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật
Chúa một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12,
2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được
thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng
dâng một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ
câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không
thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy
sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại
bị coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã
vâng theo Luật dạy.
Hơn nữa, cùng với thánh
Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ.
Điều này Luật không buộc,
nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con
trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần
60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên
đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết
rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con
mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc
cho Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về
bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4
lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức
Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Hãy nhìn ngắm Thánh Gia
lên đền thờ.
Một đôi vợ chồng nghèo
bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé
này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một người
đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có
Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần
linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ
nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn nguyện
bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng
nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn
chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai
giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Để gặp được Chúa trong
đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng,
cần sống đời sống đẹp
lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự
do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của
con,
cùng hết thảy những gì
con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin
dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn
toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn
toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh
I-Nhã)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 02-02
DÂNG CHÚA
GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH;
Ml 3,1-4; TIN MỪNG
THEO THÁNH Lc 2, 22-40.
LỜI SUY NIỆM: “Ông Simêon chúc
phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt
cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng lên. Cháu
còn là dấu hiệu cho người đời chống báng.”
(Lc 2,34). Trong câu này Simêon cho một bản tóm lược về công việc và số phận của
Chúa Giêsu:
Chúa Giêsu sẽ là cớ cho nhiều người vấp ngã: Khi đối diện với sự nhân từ, yêu
thương của Chúa Giêsu, nếu họ mở lòng đón nhận tình yêu đó thì họ ở trong vương
quốc của Ngài. Nhưng nếu lòng họ cứ lạnh lùng cứng cỏi hoặc thù nghịch thì họ bị
kết án. Có nhiều người chối bỏ Ngài nhưng đồng thời không thiếu những người sẳn
sàng nhận Ngài làm chủ đời sống của họ.
Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người được chỗi dậy: Chính cánh tay của Chúa
Giêsu đã đưa xuống tận vực thẳm để nâng vực con người lên khỏi đời sống cũ và
đem vào đời sống mới, đem tội nhân khỏi vùng tội lỗi và bước vào đời sống thánh
thiện, ra khỏi những nhục nhả và bước vào chốn vinh quang.
Chúa Giêsu sẽ gặp nhiều sự chống đối: Đối với Chúa Giêsu không có sự trung lập.
Hoặc chúng ta tuân phục Ngài, hoặc đối nghịch với Ngài. Thảm kịch của đời sống
là tính kiêu ngạo đã ngăn cản chúng ta thực hiện sự tuân phục dẫn đến chiến thắng.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 02-02
ĐỨC MẸ DÂNG CHÚA
GIÊSU
trong Đền Thánh
Kể từ cuối thế kỷ IV,
Giáo hội Gierusalem đã mừng kính lễ này, hướng tới việc dâng Chúa Giêsu vào đền
thánh và việc thanh tẩy Đức Trinh Nữ. Giáo hội Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một
số lễ trọng kính Chúa, một nghi lễ chính trong năm. Giáo hội Roma lại thường kể
lễ này vào số các lễ Đức Trinh Nữ.
Trong thông điệp về
lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria. Đức Phaolô VI viết: "Lễ mùng 2 tháng 2,
được cải tên là lễ "dâng Chúa vào đền thánh", cũng cần nhắc nhở để hưởng
nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô
thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để
thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của
Dân Tân ước luôn luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy"
(Lc 2,21-35) (Marialis Cultur, số 7b).
Sự kiện dâng Chúa
Giêsu vào đền thánh và thánh tẩy Đức Trinh Nữ đã được thánh sử Luca ghi lại (Lc
2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu ước
(Lv 12,8). Theo luật Môisê, phụ nữ sau khi sanh con thì bị coi là nhơ uế trong
40 ngày nếu sinh con trai và trong 80 này nếu sinh con gái. Trong những ngày ấy
họ không được vào đền thờ và không được chạm đến vật dụng nào đã thánh hiến cho
Thiên Chúa.
Hết những ngày kiêng cữ
trên, họ đến đền thờ để được thanh tẩy. Họ phải mang theo một con chiên nếu là
nhà giàu hay hai con chim gáy hoặc bồ câu non làm của lễ. Ngoài ra để ghi nhớ dịp
vượt qua đất Ai cập. Lúc các con đầu lòng của loài người hay là của loài vật đều
phải dâng cho Thiên Chúa (Xh 13,2). Vậy, trung tín với lề luật, Đức Maria và
thánh Giuse "khi đã đầy ngày, lúc phải làm lễ tẩy uế cho các đấng theo luật
Môsê, thì ông bà đem hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa" và các
Ngài "dâng làm lễ tế một cặp chim gáy hay hai con bồ câu" (Lc
2,22-24).
Như vậy sự kiện dâng
Chúa Giêsu vào đền thánh diễn ra một cách bình thường dưới mắt người đời. Nhưng
trong lịch sử cứu độ, đây là việc thực hiện lời tiên báo của tiên tri Malaki:
"Thình lình sẽ đến nơi đền thờ của Người, vị Chúa tể mà các ngươi đòi hỏi,
và thần sứ giao ước mà các ngươi ước nguyện, này vị ấy đến" (Ml 3,1). Chúa
đã đến trong đền thờ Người. Bao nhiêu người đã ngóng chờ biến cố cứu độ này.
Nhưng như chính tiên tri Malaki trước tự hỏi: "Ai chịu đựng nổi ngày Người
đến ? Ai đứng vững được khi Người hiện ra ?" (Ml 3,2).
Dĩ nhiên khó ai nhận
biết được Thiên Chúa, bởi vì Ngài đã mặc lấy vóc dáng con người như chúng ta.
Phải có sự soi sáng của Thánh Thần mới biết được. Siméon và Anna là những người
công chính và mộ đạo đã được hường đặc ân này. Được linh cảm, Siméon "đến
đền thờ, khi cha mẹ bồng hài nhi Giêsu đến để làm theo điều lề luật dạy về Người"
(Lc 2,27).
Am lấy Hài nhi trên
tay, Siméon đã chúc tụng Chúa và nói:
"Mắt tôi đã thấy ơn
Người cứu độ,
Người đã dọn sẵn trước
mặt muôn dân,
Anh sáng mạc khải cho
dân ngoại
và vinh quang của Israel dân
Người" (Lc 2,30-32)
Còn nữ tiên tri Anna,
"không rời khỏi đền thánh, thờ Chúa đêm ngày trong chay kiêng và cầu nguyện.
Vào giờ ấy, bà đã đến bên tán tạ Thiên Chúa và bà đã nói về Ngài cho mọi kẻ
ngóng đợi phúc cứu chuộc của Gierusalem" (Lc 37-38).
Ngày lễ Dâng Chúa
Giêsu vào đền thánh còn được gọi là lễ Nến. Hôm nay Giáo hội làm phép những cây
nến và phân phát cho giáo dân. Cầm nến sáng trong tay và tiến vào thánh đường,
mọi người lặp lại Thánh Ca mà tiên tri Siméon đã hát khi Đức Mẹ và thánh Giuse
dâng Chúa Giêsu vào đền thánh. Chúa Giêsu quả là ánh sáng muôn dân, dẫn lối
chúng ta vào trong cung điện Người. Những "cây nến phép" này sẽ được
cất giữ trong các gia đình để dùng vào dịp lãnh các bí tích sau hết hay để thắp
bên thi hài người quá cố trong gia đình.
(Daminhvn.com)
02 Tháng Hai
Người Mẹ Bồng Con
Một buổi trưa hè
nóng bức. Những người hành khách trên chuyến xe đò lặng lẽ nhìn con đường độc
điệu. Cái nắng chói chang và cuộc sống buồn tẻ như giam hãm mọi người trong một
thứ thinh lặng nặng nề.
Nhưng ở một trạm dừng
nào đó, mọi người bỗng ra khỏi sự thinh lặng của mình để đưa mắt nhìn về một
người thiếu phụ trẻ vừa mới bước lên xe. Chuyến xe từ từ chuyển bánh trở lại.
Người thiếu phụ bắt đầu cười và đùa giỡn với đứa con thơ dại chị đang bế trên tay.
Cử chỉ của người thiếu phụ, tiếng cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý
của mọi hành khách. Trong phút chốc một ngọn gió mát của hiếu kỳ của liên đới,
của tham dự và của chính sức sống đã đem lại một bầu khí tươi mát cho mọi người.
Mọi người như bừng tỉnh từ nỗi thinh lặng của oi bức, của ngái ngủ. Nơi đây,
người ta nghe có tiếng người bắt đầu nói chuyện. Nơi kia có tiếng người cười. Sự
đối thoại như một dòng điện chạy xuyên qua mọi người. Giờ thì chuyến đi không
còn là một cuộc độc hành buồn tẻ nữa.
Trên chiếc xe già cỗi
và buông tẻ của thế giới, một người đàn bà đã bước lên: Tình Yêu và Sự Sống đã
bừng dậy. Người đàn bà đó chính là mẹ Maria. Thế giới bắt đầu đi vào một gia đoạn
lịch sử mới kể từ giây phút ấy. Mẹ đã bước lên chiếc xe cằn cỗi của thế giới
cùng với Chúa Giêsu để biến nó trở thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý
nghĩa.
Thiên Chúa đã không ngừng
tạo dựng Mẹ Maria như biểu tượng cao vời nhất của người đàn bà, của người vợ, của
người mẹ, Ngài còn muốn cho chúng ta nhìn thấy nơi Mẹ con đường lý tưởng, mẫu
gương lý tưởng mà môic người phải noi theo để đạt đến cứu cánh vĩnh cửu.
Mẹ đã sinh ra như mọi
người, Mẹ đã lớn lên như mọi người, Mẹ đã sống cuộc sống con người như mọi người,
nghĩa là Mẹ cũng đã trải qua những tháng năm của buồn vui, của thử thách, của mất
mát, cuộc hành trình đó là bởi vì lúc nào Mẹ cũng sống kết hiệp với Chúa và tin
tưởng ở quyền năng Yêu thương của Ngài. Mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, Mẹ đã
biến cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một Ðại Lễ của gặp gỡ, của chia
sẻ, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi kết
thúc bằng một điểm đến rõ rệt là chính Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
Lectio
Divina: Dâng Chúa Giêsu Trong Đền Thánh
Thứ Năm, 2 Tháng 2, 2017
Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh
Lc 2:22-40
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và là Cha của chúng con, Chúa đã muốn Con
Chúa, Đấng đã sinh ra trước khi thế gian được tạo dựng, phải trở thành một
thành viên của gia đình nhân loại. Xin
Chúa hãy nhen nhúm lại trong chúng con lòng biết ơn về ân sủng của sự sống, để
các bậc cha mẹ có thể tham dự vào sự sinh sản của tình yêu Chúa, để người già
có thể truyền lại cho thế hệ con cháu sự khôn ngoan trưởng thành của họ, và thế
hệ con cháu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan, đạo đức và ân sủng, tất cả mọi
người ca tụng tôn vinh thánh danh Chúa.
Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
2. Bài Đọc: Lc 2:22-40
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môisen, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem
Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người
thánh thuộc về Chúa”. Và cũng để dâng lễ
vật cho Chúa, như có nói trong luật Chúa, là “một đôi chim gáy, hay một cặp bồ
câu con”.
Và đây, ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính,
kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi ông thấy Đấng
Kitô của Chúa. Được Thánh Thần thúc giục,
ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người
những tục lệ của lề luật. Ông bồng Người
trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: “Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi
bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt
con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân. Ánh sáng đã chiếu soi các lương dân. Vinh quang cho Israel dân Chúa.”
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với
Maria mẹ Người rằng: “Đây trẻ này được đặt
lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng
để làm mục tiêu cho người ta chống đối.
Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn
được biểu lộ.”
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã
cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống
với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho
đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Bà không rời
khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng
Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc
Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa,
về thành mình là Nagiarét. Và con trẻ lớn
lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
- Để Lời của Chúa có thể ngự thấm
trong chúng ta và để soi sáng đời sống chúng ta.
- Để trước khi chúng ta đưa ra bất
kỳ một ý kiến nào, xin cho ánh sáng Lời Chúa được tỏa sáng và chiếu soi với mầu
nhiệm về sự hiện diện sống động của Chúa.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Tại sao Đức Giêsu, Con Một của
Đấng Tối Cao, và Đức Maria mẹ Người, đã được thụ thai không vướng tội lỗi, mà lại
tuân theo các lề luật của Môisen? Có phải
bởi vì Đức Maria chưa nhận thức được sự vô nhiễm và thánh thiện của bà
không?
b) Lời nói và thái độ của ông
Simêon và bà tiên tri Anna có ý nghĩa đặc biệt nào không? Hành động và sự vui mừng của họ có làm gợi nhớ
lại phong thái của các tiên tri ngày xưa không?
c) Làm thế nào chúng ta có thể giải
thích được câu “một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn”: đó có phải là việc xé nát lương tâm trước những
thách thức và sự phong phú của Chúa Giêsu không? Hay đó chỉ là nỗi đau lòng của Đức Mẹ?
d) Cảnh này có thể có một ý nghĩa
nào đó cho các bậc phụ huynh ngày nay không:
về ý thức tôn giáo của con cái họ; về kế hoạch của Thiên Chúa dành cho mỗi
con cái của Người; về những nỗi sợ hãi và đau khổ mà cha mẹ mang trong tâm tư họ
những khi họ nghĩ về thời điểm khi con cái họ lớn khôn?
5. Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu vào văn bản.
a) Như đã chép trong lề luật
Môisen hay lề luật của Chúa. Đây là một
loại điệp khúc được lặp lại nhiều lần.
Thánh sử Luca hòa lẫn hai hệ thống lề luật mà không có sự phân biệt. Luật thanh tẩy của người mẹ đã được viết
trong sách Lêvi (12:2-8) và được diễn ra bốn mươi ngày sau khi sinh con. Cho đến lúc đó, người phụ nữ không được phép
đến gần những nơi thiêng liêng, và buổi lễ được kèm theo với của lễ dâng là một
con vật nhỏ. Việc thánh hiến con đầu
lòng đã được quy định trong sách Xuất Hành 13:11-16, và được coi như là một loại
“tiền chuộc” để tưởng nhớ đến hành động cứu chuộc của Thiên Chúa đã giải thoát
dân tộc Israel khỏi ách nô lệ ở Ai-Cập.
Vì lý do này lễ vật dâng tiến là một con vật nhỏ. Trong mọi trường hợp, các bậc cha mẹ có vẻ
như trong thủ tục hiến dâng con trai của họ như đã được làm với vật hiến tế và
tư tế Lêvi, trong khi ấy qua các nhân vật như ông Simêon và cụ bà Anna, dường
như Thiên Chúa lại là Đấng dâng hiến Con của Người để cứu độ nhân loại.
b) Ông Simêon và bà Anna: Đây là những nhân vật với đầy đủ giá trị biểu
tượng. Vai trò của họ là một sự công nhận,
xuất phát từ việc soi sáng lẫn hành động của Chúa Thánh Thần và một đời sống
trong sự mong chờ và đức tin. Đặc biệt
ông Simêon được mô tả như là một người hoàn toàn đắm chìm trong sự chờ đợi
(prodekòmenos), và là kẻ bước tới để chào đón.
Ông cũng xuất hiện để tuân giữ lề luật, lề luật của Chúa Thánh Thần, Đấng
hướng dẫn ông về phía con trẻ trong đền thờ.
Bài ca vịnh ông công bố biểu lộ khuynh hướng sống cho người khác của
ông, ông đã sống để chờ đến thời điểm này và giờ đây ông rút lui để cho những
người khác có thể nhìn thấy ánh sáng và ơn cứu độ đến cho dân tộc Israel cũng
như dân ngoại. Bà Anna hoàn thành bức
tranh, bằng vào số tuổi của bà (con số tượng trưng: 84 = 7 x 12; mười hai chi tộc Israel; hoặc 84
– 7 = 77, con số toàn thiện kép), nhưng hơn hết cả là bằng lối sống của bà (ăn
chay và cầu nguyện) và bằng lời công bố của bà cho tất cả những ai “nhìn về
tương lai”. Bà được hướng dẫn bởi Chúa
Thánh Thần về việc nói tiên tri, phụng thờ Chúa và sự trinh khiết trong lòng của
bà. Ngoài ra, bà thuộc về một chi tộc nhỏ
bé nhất, chi họ Asê, một dấu chỉ cho thấy rằng những người nhỏ bé và mong manh
là những người có khuynh hướng nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế hơn. Cả hai ông bà lão này – trông có vẻ như là một
cặp đôi nguyên thủy – là những biểu tượng đẹp nhất của Do Thái giáo, của thành
Giêrusalem trung thành và hiền lành, đang chờ đợi và vui mừng và rằng từ bây giờ
sẽ để cho nguồn ánh sáng mới lan tỏa.
c) Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu: thông thường những chữ này được hiểu như có
nghĩa là Đức Maria sẽ chịu đau khổ, một cảnh được thấy rõ ràng là hình ảnh Đức
Mẹ Sầu Bi. Thay vào đó, chúng ta cần xem
Đức Mẹ như là một biểu tượng của dân tộc Israel. Ông Simêon linh cảm được cảnh tượng dân tộc của
ông sẽ bị chia rẽ sâu xa bởi lời sắc bén và hằng sống của Đấng Cứu Thế (xem Lc
12:51-53). Đức Maria đại diện cho đường
đi: bà phải tín thác, nhưng sẽ phải trải
qua những thời gian đau thương và đen tối, sự im lặng đớn đau và những thử
thách. Câu chuyện của Đấng Mêssia đau khổ
sẽ làm cho mọi người đau đớn, ngay cả đối với Đức Mẹ. Người ta không thể đi theo ánh sáng mới của
toàn thế giới mà không phải trả giá, mà không phải bị khích động để chọn các
quyết định đầy rủi ro, mà không phải được tái sinh từ trời và trong sự mới mẻ. Nhưng hình ảnh của “lưỡi gươm đâm thấu” này,
về một hài nhi sẽ “làm vấp ngã” và giao động những trái tim khỏi sự thờ ơ của họ,
thì không thể bị tách rời khỏi hành động đầy ý nghĩa của hai người già
lão: một người là ông Simêon, kẻ đã bế
Chúa Hài Đồng trên tay mình để cho thấy rằng đức tin là một sự gặp gỡ và vòng
tay ôm, chứ không phải là một lý thuyết suông; còn người kia, cụ bà Anna, đảm
nhận vai trò công bố và nhen nhóm lại ánh sáng rực rỡ trong lòng tất cả những
ai “đã nhìn về phía” Người.
d) Đời sống hằng ngày, sự hiển
linh của Thiên Chúa: Cuối cùng, thật là
thú vị khi nhận thấy rằng toàn bộ câu chuyện nhấn mạnh đến hoàn cảnh giản dị và
chất phác nhất: một cặp vợ chồng trẻ với
một đứa con trong tay, một ông già vui mừng và ôm ấp đứa bé, một bà lão cầu
nguyện và nói tiên tri, những kẻ lắng nghe dường như là những người đang gián
tiếp tham gia. Ở phần cuối của đoạn Tin
Mừng, chúng ta cũng có một cái nhìn thoáng qua về làng Nagiarét, về sự phát triển
của đứa trẻ có năng khiếu khác thường với sự khôn ngoan và tốt lành. Chủ đề của sự khôn ngoan được đan dệt vào
trong tấm vải của đời sống bình thường và lớn lên trong một bối cảnh của ngôi
làng, để cho câu chuyện dường như treo lơ lửng, và nó sẽ được nhắc lại lần nữa
đúng với chủ đề sự khôn ngoan của cậu bé ở giữa các luật sĩ trong đền thờ. Thật vậy, đây là cảnh kế tiếp ngay sau đây
(Lc 2:41-52).
6. Cầu Nguyện: Thánh Vịnh 122:
Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi:
"Ta cùng trẩy lên đền thánh CHÚA! "
Và giờ đây, Giêrusalem hỡi,
cửa nội thành, ta đã dừng chân.
Giêrusalem khác nào đô thị
được xây nên một khối vẹn toàn.
Từng chi tộc, chi tộc của CHÚA,
trẩy hội lên đền ở nơi đây,
để danh CHÚA, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Israel.
Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử,
ngai vàng của vương triều Đavít.
Hãy nguyện chúc Giêrusalem được thái bình,
rằng: "Chúc thân hữu của thành luôn thịnh đạt,
tường trong lũy ngoài hằng yên ổn,
lâu đài dinh thự mãi an ninh."
Nghĩ tới anh em cùng là bạn hữu,
tôi nói rằng: "Chúc thành đô an lạc."
Nghĩ tới đền thánh CHÚA, Thiên Chúa chúng ta thờ,
tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô.
7. Lời nguyện kết
Lạy Cha, chúng con ngợi khen và chúc tụng Cha bởi vì nhờ Con Cha, được
sinh ra bởi một người phụ nữ do việc làm của Chúa Thánh Thần, được sinh ra theo
lề luật, đã cứu chuộc chúng con khỏi lề luật và Cha đã làm đầy cuộc sống chúng
con với ánh sáng và niềm hy vọng mới mẻ.
Nguyện xin cho gia đình chúng con hân hoan chào đón và trung thành với
chương trình của Cha, nguyện xin cho những người trong gia đình chúng con giúp
đỡ và duy trì trong con cái họ những giấc mơ và sự nhiệt tình mới, xin Cha ấp ủ
chúng trong sự dịu dàng khi chúng yếu ớt mong manh, xin Cha dạy dỗ chúng trong
tình yêu cho Cha và cho tất cả tha nhân.
Lạy Cha, tất cả mọi danh dự và vinh quang đều quy về Cha.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét