05/06/2018
Thứ Ba tuần 9 thường niên
Thánh Bôniphát, giám mục, tử đạo.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh tại Anh quốc quãng năm 673. Người nhập đan viện I-xơ-te và được Đức Giáo Hoàng Ghê-gô-ri-ô II đổi tên Uyn-phơ-rít thành Bô-ni-pha-xi-ô. Người là tông đồ của nước Đức và là người tổ chức lại Hội Thánh nhiều miền. Sau khi được Đức Giáo Hoàng tấn phong giám mục (năm 722), người rảo khắp nước Đức, thành lập các giáo phận và các đan viện trong đó có đan viện Phun-đa. Người bị sát hại ở Đốc-cum (Hà Lan) cùng với năm mươi hai đồng bạn năm 754.
Bài Ðọc I: (Năm
II) 2 Pr 3, 12-15a. 17-18
"Chúng ta mong
đợi trời mới đất mới".
Trích thư thứ hai của
Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, anh
em hãy mong chờ và hối thúc ngày Chúa đến, ngày mà các tầng trời bốc cháy tiêu
tan, và ngũ hành bị thiêu rụi. Nhưng theo lời Người hứa, chúng ta mong đợi trời
mới đất mới, trong đó công lý sẽ ngự trị.
Anh em thân mến, bởi
thế, trong lúc chờ đợi, (hãy gắng sao nên vô tì tích trước nhan Người, trong
bình an. Và) anh em hãy coi lòng khoan dung của Thiên Chúa như là phương thế cứu
rỗi.
Vậy, anh em thân mến,
được biết trước như thế, anh em hãy giữ mình, kẻo bị lôi cuốn theo sự lầm lạc của
những kẻ vô luân mà sa đoạ, mất lòng trung kiên của anh em. Anh em hãy lớn lên
trong ân sủng và trong sự hiểu biết Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Rỗi và là Chúa
chúng ta. Nguyện (chúc) vinh quang cho Người bây giờ và đến muôn đời. Amen!
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 89, 2. 3-4.
10. 14 và 16
Ðáp: Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng con dung thân, từ
đời nọ trải qua đời kia (c. 1).
Xướng: 1) Ôi Thiên
Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này
qua thuở kia, vẫn có Ngài. - Ðáp.
2) Thực ngàn năm ở trước
thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh.
Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con
người!" - Ðáp.
3) Thọ kỳ của chúng
con số niên bảy chục, nếu khoẻ mạnh ra thì được tám mươi, nhưng đa số là những
năm lầm than và phù phiếm, bởi chúng mau qua và chúng con cũng bay theo. - Ðáp.
4) Xin cho chúng con sớm
được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng
con. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ được
thấy vinh quang Ngài. - Ðáp.
Alleluia: 1 Pr 1, 25
Alleluia, alleluia! -
Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mc 12, 13-17
"Các ông hãy
trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về
Thiên Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, người ta sai mấy
người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người
trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là
người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường
lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê
không? Chúng tôi phải nộp hay là không?" Nhưng Người biết họ giả hình, nên
bảo rằng: "Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền". Họ
đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: "Hình và ký hiệu này là của
ai?" Họ thưa: "Của Cêsarê". Người liền bảo họ: "Vậy thì của
Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa". Và họ
rất đỗi kinh ngạc về Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Một qui luật
sống
Tin Mừng hôm nay ghi lại
một cuộc tranh luận khác giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái. Ở đây,
chúng ta lại thấy hai nhóm liên kết lại, kể từ khi họ bắt hụt Chúa Giêsu khi
Ngài rao giảng ở Capharnaum (3,6). Phái Hêrôđê ủng hộ Hêrôđê Antipa, thủ hiến xứ
Galilê thì dựa vào thế lực của Rôma, còn nhóm Biệt phái cũng khá hòa hoãn với
giới thống trị.
Thái độ sống giả hình
là thái độ của những kẻ đóng kịch, cố gắng làm sao cho người khác thấy sự tốt
nơi mình, mà thực ra mình không có. Những người Biệt phái và những người thuộc
phái Hêrôđê là những kẻ giả hình, bởi vì họ làm ra vẻ muốn tìm biết sự thật, mà
kỳ thực chỉ là để tìm dịp bắt bẻ Chúa. Họ đến với Chúa, khen Ngài là người chân
thật, cứ theo sự thật mà giảng dạy đường lối của Thiên Chúa. Nhưng rất tiếc lời
nói khéo léo của họ lại che đậy một thủ đoạn, một âm mưu trả thù. Ðó là đường lối
của con người, nhất là của hạng người vụ lợi, ích kỷ, tham quyền.
Thật thế, sau khi giả
vờ khen Chúa, họ liền chất vấn Ngài: "Có được phép nộp thuế cho César
không?". Vấn đề xem ra đơn giản, nhưng thực ra là một cạm bẫy. Theo họ,
Chúa Giêsu là nhà cách mạng thuộc dòng tộc Ðavít, chắc hẳn Ngài sẽ bảo họ không
nộp thuế cho César, và thế là sa bẫy họ, lúc đó, họ sẽ có lý do để bắt bớ, giải
nộp và giết Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ không có gì là nan
giải, vì khôn ngoan của loài người chỉ là dại khờ trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù
biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật; Ngài còn nhân cơ hội
này để đưa ra một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền và sau khi được biết
hình và dấu trên đồng tiền là của César, Ngài nói tiếp: "Của César, trả về
César; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Nói khác đi, một khi đã được hưởng
nhờ ơn lộc của ai, thì phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã nhờ bổng lộc của César, thì
có bổn phận đền đáp cho César; nhưng Chúa cũng nhắc thêm bổn phận của con người
đối với Thiên Chúa: con người đã nhận lãnh nhiều ơn huệ của Thiên Chúa, nên
cũng phải đền đáp ơn Ngài. Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của của quyền
bính trần thế: "Của César, trả về César", nhưng Ngài thêm: "Của
Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Chúa nhắc nhở rằng quyền bính trần thế
không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của
Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho Thiên Chúa, vì con người
đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống,
nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu
tiên trong cuộc sống của mình.
Xin Chúa soi sáng để
chúng ta biết phân biệt điều gì thuộc César, điều gì thuộc Thiên Chúa, để chu
toàn bổn phận đối với trần thế và đối với Thiên Chúa.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 9 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 2
Pet 3:12-15a, 17-18; Mk 12:13-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy làm cho
Nước Thiên Chúa mau đến bằng cách sống thật.
Nhiều người sai lầm
khi nghĩ nếu một chính phủ không đáp ứng những gì các tín hữu mong muốn, họ phải
nhân danh Giáo Hội tranh đấu đến cùng và sẵn sàng đổ máu để đạt được những nguyện
vọng đó.
Các bài đọc hôm nay
giúp chúng ta nhận ra những điều người tín hữu phải làm và những gì không nên
làm. Trong bài đọc I, tác giả Thư Phêrô II nhắc nhở cho các tín hữu biết thế giới
này sẽ tan biến đi cùng với tất cả các phù hoa của nó. Điều quan trọng hàng đầu
các tín hữu cần phải làm là hãy lo sống làm sao cho mình và mọi người được hưởng
ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, một số các “chính trị gia,” những người Pharisees giả
hình và những người thuộc phe Herod, nhân danh việc đi tìm sự thật để giăng bẫy
bắt Chúa Giêsu. Họ hỏi: “Có được phép nộp thuế cho Caesar hay không? Biết rõ
mưu đồ của họ, Chúa cho họ câu trả lời chẳng những họ không làm gì được Chúa mà
còn mời gọi họ suy nghĩ về lối làm chính trị “sai sự thật” của họ: “Của Caesar,
trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Anh em hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc
lôi cuốn!
Một điều Chúa Giêsu và
các tông đồ luôn cảnh cáo các tín hữu là đề phòng những kẻ rao giảng sự sai lạc
làm các tín hữu nghi ngờ sự thật các Ngài rao giảng và từ từ bỏ đạo. Chúa Giêsu
gọi họ là “chó sói” đội lốt người chăn chiên để cắn xé đoàn chiên (Jn 10:12).
Thánh Gioan gọi họ là những kẻ “phản Đức Kitô,” và nguy hiểm hơn nữa họ là
chiên ở ngay giữa đoàn chiên (I Jn 2:18-19). Thánh Phaolô khuyên nhủ rất nhiều
lần môn đệ Timothy và Titus phải đề phòng những người này: “Anh hãy biết điều
này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Quả thế, người ta sẽ ra ích
kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ,
vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ,
hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc
hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu
thì đã chối bỏ. Anh hãy xa lánh cả những người ấy”
(2 Tim 3:1-5). Trình
thuật của Thư Phêrô II muốn nêu bật cho các tín hữu hiểu hai điều:
1.1/ Ngày của Thiên Chúa
sẽ đến: Chúa Giêsu bảo đảm: Ngày ấy chắc chắn
sẽ đến, còn khi nào xảy ra không ai biết được trừ một mình Chúa Cha. Tác giả nhắc
các tín hữu hai khía cạnh của Ngày này: thứ nhất, vũ trụ sẽ bị hủy diệt qua câu
“các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng; thứ
hai, “Ngày bắt đầu trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” đúng theo lời Thiên
Chúa hứa. Ngày đó, mọi người sẽ ra trước Thiên Chúa để chịu phán xét. Chỉ lúc
đó mọi người sẽ nhìn thấy sự công thẳng của Thiên Chúa.
Không ai biết được khi
nào Ngày ấy đến, nhưng theo lời Sách Thánh, các tín hữu có thể làm cho Ngày ấy
mau đến bằng những phương thế sau đây:
+ Cầu nguyện: Trong
kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến,
ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.”
+ Rao giảng Tin Mừng:
Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: Hãy đi khắp thế gian mà rao giảng Tin Mừng.
Điều này có thể hiểu: Khi Tin Mừng được loan báo đến mọi người, Nước Chúa sẽ đến.
+ Thống hối và vâng lời
Thiên Chúa: Điều này quan trọng hơn cả. Như một người Cha mong cứu thoát tất cả
con cái của mình, Thiên Chúa sẽ chọn Ngày nào mà cứu được tất cả hay nhiều con
nhất. Thánh Phêrô nói: “Chúa tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được cứu độ.”
Ngày đó chưa xảy ra vì còn quá nhiều người phải hư mất. Thánh Phaolô cũng nói
cách tương tự: Khi dân tộc Do-thái tin vào Đức Kitô, Ngày ấy sẽ đến. Vì thế, nỗ
lực của hết mọi tín hữu hãy đặt điều này trên hết tất cả mọi điều nếu họ mong
cho Nước Chúa mau trị đến.
1.2/ Đừng bị lung lay bởi
các lạc thuyết: Có quá nhiều lạc thuyết
trong thế gian mà các tín hữu chỉ có thể chống trả bằng cách học biết sự thật.
Một trong những lạc thuyết đó là lối sống của những kẻ không tin có sự sống đời
sau. Vì không tin sự sống đời đời nên họ dành hết thời gian, mọi cố gắng để xây
dựng cuộc sống đời này. Chúa Giêsu và các tông đồ kêu gọi các tín hữu luôn phải
hướng lòng về trời vì đó là mới là quê hương đích thực của các tín hữu. Chúng
ta chỉ là những người ngoại quốc hay những người tạm trú của thế giới này mà
thôi. Chính Chúa Giêsu cũng trả lời cho Pilate: “Nước tôi không thuộc chốn này”
(Jn 18:36). Lối sống của các tín hữu không được giống như những người không tin
có cuộc sống đời sau. Tác giả khuyên: trong khi mong đợi ngày đó, các tín hữu
phải cố gắng sao cho Người thấy họ càng ngày càng phải trở nên tinh tuyền,
không chi đáng trách và sống bình an. Họ phải lớn lên trong ân sủng và trong sự
hiểu biết Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Độ.
2/ Phúc Âm: “Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên
Chúa.”
2.1/ Bẫy giăng để hại
Chúa Giêsu: Trình thuật Marcô nói rõ nguồn gốc,
mục đích, và cách thức để gài bẫy Chúa Giêsu: Các người trong Thượng Hội Đồng
là những người sai mấy người Pharisees và mấy người thuộc phe Herode đến. Mục
đích là để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy. Cách gài là khen những lời đãi bôi để
đánh lạc hướng Chúa, để Chúa nhận ra họ là những người thành thật muốn tìm hiểu
chân lý. Họ nói: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng
vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà
dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Caesar hay không?
Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?” Lý do họ sai hai nhóm người này là cho
mục đích chính trị của họ:
(1) Phe Pharisees: chủ
trương người Do-thái phải được cai trị bởi người Do-thái (Deut 17:15). Họ chống
mọi thế lực ngoại bang và việc nộp thuế cho đế quốc Rôma. Nếu Chúa trả lời “Phải!”
họ sẽ xui giục dân chúng chống Chúa vì toa rập với thế lực nước ngoài.
(2) Phe Herode: chủ trương
hòa đồng với Rôma để được “tốt đạo đẹp đời.” Họ nại cớ biết bao điều tốt lành đến
từ việc cai trị của Roma trong thời các vua Herod cai trị. Vì thế, họ thuyết phục
những người Do-thái: Cứ để cho đế quốc cai trị bao lâu hoàng đế đừng can thiệp
vào nội bộ tôn giáo của Do-thái. Nếu Chúa trả lời “Không!” họ sẽ nộp Chúa cho
quân đội Roma vì xui giục dân phản chính quyền.
Cả hai cùng hợp lại để
làm điều ác: có lý do để bắt Chúa và tiêu diệt người lành. Họ nghĩ Chúa trả lời
cách nào cũng không thoát mưu mô của họ.
2.2/ Câu trả lời của Chúa
Giêsu: Đức Giêsu biết họ giả hình, nên Người
nói: “Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem!” Họ liền đưa
cho Người. Người hỏi: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp: “Của
Caesar.” Đức Giêsu bảo họ: “Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về
Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc nhiên về Người.
(1) Chúa phân biệt
chính trị ra khỏi tôn giáo: Hai mục đích của hai bên khác nhau: mục đích của
tôn giáo là đưa con người tới Thiên Chúa, mục đích của chính trị là lo cho con
người được no cơm ấm áo ở đời này. Ba bổn phận của các nhà lãnh đạo tôn giáo là
dạy dỗ con người biết đạo lý Chúa dạy để khỏi những lầm lạc, ban các bí tích để
mang ơn thánh xuống cho con người, và điều hành dân chúng trong lãnh vực tôn
giáo. Bổn phận của những người lãnh đạo quốc gia là lo cho nền an ninh quốc
gia, no cơm ấm áo cho người dân, và bảo vệ trật tự trong nước.
(2) Người dân có nhiệm
vụ đóng góp để bảo vệ lợi ích chung: Việc đóng thuế cho chính phủ là bổn phận của
người dân để chính phủ có quĩ điều hành mà lo cho các nhu cầu của dân chúng.
Ngoài ra người dân còn phải đóng góp công sức và tài năng trong việc phát triển
và bảo vệ xã hội. Chúa Giêsu đã từng khuyên Phêrô phải kiếm tiền nộp thuế cho
ông và cho Ngài. Các tông đồ vẫn khuyến khích dân vâng lời những nhà cầm quyền
tốt. Nếu chính phủ tham nhũng không biết lo cho dân, người dân có quyền đứng
lên tranh đấu để xây dựng một chính phủ biết lo cho dân hơn.
(3) Đừng quên trả cho
Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài: Chúa mời gọi những kẻ được sai đến và chúng
ta suy nghĩ cẩn thận về việc trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài:
+ Con người chúng ta
được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, chúng ta thuộc về Ngài. Chúng ta
không có quyền muốn làm gì thì làm; nhưng phải sống theo những gì Thiên Chúa đã
tiên định để rồi chúng ta sẽ được sống hạnh phúc với Ngài muôn đời. Lấy danh
nghĩa tự do để cãi lời Thiên Chúa chỉ dẫn chúng ta đến chỗ diệt vong.
+ Mọi quyền bính trên
thế gian đều đến từ Thiên Chúa, Ngài trao cho con người để cùng thông phần vào
sự điều khiển với Ngài. Ngài trao cho Caesar quyền cai trị người Do-thái và
Caesar phải trả lời với Thiên Chúa về quyền cai trị của ông. Nhiều lúc sức con
người không thể hiểu về sự quan phòng của Thiên Chúa. Người Do-thái nhiều lần thắc
mắc tại sao Thiên Chúa lại trao quyền cai trị dân Chúa cho những người ngoại đạo?
Lịch sử trả lời vì họ đã không chịu nghe lời Thiên Chúa cảnh cáo qua các ngôn sứ.
Chúa trao quyền hành mà không biết dùng Chúa lại lấy đi. Chúa dùng Babylon là
cái roi để sửa phạt dân rồi lại bẻ gẫy cây roi bằng cách trao vua Babylon cho
vua Persia. Quyền hành trong thế giới luôn thay đổi theo sự quan phòng của
Thiên Chúa. Nếu Chúa muốn cất đi không ai có thể chống cự nổi; nếu Chúa muốn giữ
quyền hành lại không ai thay đổi được. Dĩ nhiên khi trao quyền hành, Ngài muốn
con người phải biết xử dụng để sinh ích lợi chung; nhưng lòng con người thay đổi
và khó dò: khi chưa có quyền hành trong tay thì hứa hẹn đủ điều; đến khi nắm
quyền hành thì lại tham nhũng bất công nhiều khi còn hơn chế độ hay người đi
trước. Có lẽ vì thế mà quyền hành cứ phải thay đổi mãi; chỉ khi nào chúng ta
vào Nước Thiên Chúa và được Chúa Giêsu, Vua công chính cai trị, chúng ta mới hưởng
nhận được bình an. Bao lâu sông trong thế giới bất toàn, nhiệm vụ của chúng ta
là nghe theo, chứ không chống lại ý định của Thiên Chúa, vì chúng ta tin tưởng
Ngài đang quan phòng thế giới cách khôn ngoan và uy quyền.
+ Quyền sở hữu tài sản
nói cho cùng cũng không thuộc Caesar hay thuộc bất cứ ai, vì Chúa dựng nên mọi
sự cho con người xử dụng. Con người chỉ là người quản lý và phải trả lời với
Thiên Chúa về việc dùng tài sản.
+ Sự sống là của Thiên
Chúa, thời gian và tài năng là của Ngài ban cho. Con người không được tiêu hủy
sự sống từ lúc mới sinh cho đến khi giã từ cuộc đời. Con người không được lãng
phí thời gian vào những việc vô ích, nhưng phải biết dùng thời gian để sinh ích
cho mình và cho mọi người. Nhiều người đã lãng phí tài năng Chúa ban qua việc
dùng thuốc, chơi bài bạc, và một cuộc sống vô độ. Họ đã phải trả giá cho việc lợi
dụng tự do để muốn làm gì thì làm. Nếu suy nghĩ cho cùng, con người phải chấp
nhận: mọi sự là của Thiên Chúa. Con người chỉ có quyền dùng, và phải dùng cách
khôn ngoan để sinh lợi ích cho mình, cho tha nhân, và cho việc mở mang Nước
Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải biết
khiêm nhường nhìn nhận chúng ta không khôn ngoan hơn Thiên Chúa. Hãy biết vâng
lời làm theo những gì Ngài truyền dạy.
– Điều quan trọng hơn
cả là phải lo cho mình và tha nhân được hưởng ơn cứu độ; mọi sự khác đều phụ
thuộc và chỉ cần thiết ở đời này.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
05/06/2018 – THỨ BA TUẦN 9 TN
Th. Bô-ni-phát, giám mục, tử đạo
Mc 12,13-17
TRẢ LẠI CÔNG BẰNG CHO CHÚA
Đức Giê-su bảo họ: “Của
Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” (Mc 12,17)
Suy niệm: Là công dân một nước, người
tín hữu phải chu toàn nghĩa vụ của người công dân; còn nghĩa vụ đối với Thiên
Chúa thuộc bình diện khác và có tính tuyệt đối. Lập trường của Chúa Giê-su thật
rõ ràng và dứt khoát: của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên
Chúa. Ngài yêu mến quê hương, nhưng Ngài không hề kêu gọi nổi dậy chống lại
Phi-la-tô, Hê-rô-đê, hay Xê-da. Vì: “Nước Ngài không thuộc về thế gian này” (Ga
18,36). Tuy nhiên, Ngài đòi hỏi- và có quyền đòi hỏi như thế, vì Ngài là Con
Thiên Chúa, là Thiên Chúa- phải trả lại sự công bằng cho Thiên Chúa, là “Vua
muôn vua, Chúa các chúa”. Ngài phải được tôn thờ, tôn trọng và suy phục như
Ngài là, như là Thiên Chúa, chủ tể muôn loài muôn vật.
Mời Bạn: Thế giới và con người hôm
nay đang ngày càng “cướp ngôi, cướp quyền và cướp công” của Thiên Chúa. Họ làm
như vậy để “xóa tên” Ngài và tôn vinh chính họ “lên ngôi” – là Thượng Đế cho
riêng mình. “Cướp ngôi” khi chúng ta tự phong mình là Ông Chủ của tất cả,
khi “hạ bệ” Thiên Chúa và thần thánh khỏi mọi bàn thờ. “Cướp quyền” khi chúng
ta tự cho mình hủy diệt sự sống, như phá thai, nạo thai…, nhân danh một thứ tự
do vô luân, vô đạo. “Cướp công” khi chúng ta tự mãn: “bàn tay ta làm nên tất cả,
có sức người, sỏi đá cũng thành cơm”. Không! ngàn lần không! Không có Chúa, ta
chẳng làm được gì!
Sống Lời Chúa: Từ nay, đọc kinh TIN KÍNH
sốt sắng hơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin đừng
để con quá mải mê việc đời mà quên mất Chúa; đừng vì lợi lộc, địa vị mà bôi nhọ
hoặc chối bỏ danh Ki-tô hữu. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Của
Thiên Chúa trả
về Thiên Chúa (5.6.2018 – Thứ Ba Tuần
9 Thường niên B)
Suy niệm:
Nhóm Pharisêu và nhóm Hêrôđê không phải là
hai nhóm hợp nhau.
Nhưng họ lại rất hợp nhất trong việc
muốn trừ khử Đức
Giêsu
(Mc 3, 6).
Ngài đã từng
nhắc các môn đệ đề phòng “men” của hai nhóm này
(Mc 8, 15).
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, họ lại liên
minh với nhau để giăng
bẫy.
Trước khi đưa Đức
Giêsu
vào bẫy,
họ đã lấy lòng bằng
những lời ca ngợi.
Rồi cái bẫy được giăng
ra, sắc như một con dao hai lưỡi.
“Có được phép nộp
thuế cho Xêda
hay không?” (c. 14).
Đã từng có những
câu hỏi
như thế.
“Có được phép chữa bệnh trong ngày sa bát
không?” (Mt 12, 10).
“Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do
nào không?”
(Mt 19, 3).
Được phép có nghĩa là không đi
ngược với Luật Môsê.
Từ năm thứ sáu sau công nguyên,
khi Giuđê và Samari trở thành một tỉnh của đế quốc Rôma,
mỗi người dân
Do thái
phải nộp một thứ thuế thân
cho những kẻ xâm lược.
Đã có những
phong trào đứng lên
chống lại thứ thuế này.
“Có được phép nộp
thuế cho Xêda
không?”
Nếu Đức Giêsu
nói rõ là được phép nộp thì đụng đến lòng ái quốc của dân,
và cũng đụng đến nhóm
Pharisêu là những
người không
chấp nhận
sự thống trị nhơ nhớp của ngoại bang trên phần đất của Thiên Chúa.
Nếu Ngài nói rõ là không được
phép nộp thì Ngài sẽ gặp khó khăn với Rôma,
và sẽ đụng đến
nhóm Hêrốt là nhóm lãnh đạo dựa dẫm vào
thế của đế quốc.
Dĩ nhiên Đức
Giêsu đã khôn ngoan không trực tiếp trả lời câu hỏi này.
Ngài không rơi vào bẫy,
ngược lại, có thể nói, Ngài giăng
một cái bẫy khác.
“Đem cho tôi một đồng bạc để tôi
xem”
(c. 15).
Đức Giêsu không mang trong mình thứ tiền này,
dùng để nộp thuế cho Rôma.
Nhưng kẻ thù của Ngài
thì
mang, và đưa cho Ngài một đồng bạc.
Đồng bạc này
mang hình
của Xêda
và mang dòng chữ:
“Tibêriô Xêda, con của
Augúttô thần
linh, Augúttô.”
Khi biết đó là đồng
tiền bằng bạc của Xêda, Đức Giêsu đã nói:
“Những thứ của Xêda, hãy trả lại cho Xêda,
những thứ của Thiên Chúa, hãy
trả lại cho Thiên Chúa” (c. 17).
Câu trả lời này đã làm họ sững sờ, không thể nào bắt bẻ được.
Đức Giêsu có vẻ không chống
lại chuyện nộp thuế thân cho Xêda.
Nhưng Ngài quan tâm đến một chuyện quan trọng hơn nhiều.
Chuyện đối xử công bằng
với Thiên
Chúa.
Trả lại cho Thiên Chúa mọi sự thuộc về Thiên
Chúa: đó là bổn phận.
Đồng tiền mang hình Xêda,
nên chúng ta phải
trả cho Xêda.
Còn chúng ta là người
mang hình ảnh Thiên
Chúa,
nên chúng ta phải dâng trả chính bản
thân mình cho Thiên Chúa.
Tên của Giêsu đã được
ghi khắc trong tim ta,
nên chúng ta không được
quên mình đã thuộc trọn về Giêsu.
Còn bao điều
trong đời
ta thuộc về Thiên Chúa mà ta
vẫn giữ cho mình!
Cầu nguyện:
Lạy
Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự
do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết
thảy những
gì
con có,
và những
gì
thuộc về
con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy
Chúa,
nay con xin dâng
lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ
xin ban cho con lòng
mến Chúa và ân sủng.
Được
như thế,
con hoàn
toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5 THÁNG SÁU
Mạc Khải Và Thuyết
Tiến Hóa
Trong thời hiện đại của
chúng ta, giáo thuyết mạc khải rằng con người được tạo dựng như một hữu thể gồm
cả hồn lẫn xác đã gặp một khó khăn đặc biệt do thuyết tiến hóa dấy lên. Nhiều
nhà khoa học nghiên cứu nguồn gốc con người chủ trương rằng không những có một
mối liên kết giữa con người và toàn bộ thế giới tự nhiên mà, hơn nữa, con người
đã tiến hóa từ các động vật thượng đẳng. Vấn đề nguồn gốc con người đã taọ ra sự
tranh luận công khai và rộng rãi. Nó đã trở thành mối quan tâm chủ yếu của nhiều
nhà khoa học trong hơn một thế kỷ nay.
Câu trả lời của huấn
quyền được tìm thấy trong Thông Điệp Humani generis (1950) của
Đức Piô XII: “Huấn quyền Giáo Hội không có gì chống lại học thuyết tiến hóa,
trong mức độ mà thuyết tiến hóa tìm kiếm nguồn gốc của thân xác con người nơi một
chất thể sống động và hiện hữu trước – vì đức tin Công Giáo khẳng định rằng
linh hồn người ta do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng…” (DS 3896).
Vì thế, từ quan điểm
giáo thuyết, không có gì trở ngại để tin rằng thân xác con người đã tiến hóa từ
các loài động vật thượng đẳng. Song cũng cần phải nhớ rằng thuyết tiến hóa cũng
chỉ là một giả thuyết. Nó nêu lên một khả tính rằng một điều gì đó có thể đúng.
Nó không phải là một sự chắc chắn về mặt khoa học. Đàng khác, giáo huấn đức tin
dạy chúng ta một cách chắc chắn rằng linh hồn thiêng liêng của con người được
Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng.
Nói vậy có nghĩa là
thân xác con người có thể đã được chuẩn bị từng bước cho con người, theo một thứ
tự do Đấng Tạo Hóa vạch định. Nhưng, linh hồn con người không thể phát xuất từ
vật chất, vì linh hồn có bản tính thiêng liêng. Và chính linh hồn là yếu tố quyết
định định mệnh cuối cùng của con người.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 05/ 6
Thánh Bônifaciô, giám
mục tử đạo
2Pr 3,
12-15a.17-18; Mc 12, 13-17.
Lời suy niệm: “Thưa Thầy, chúng
tôi biết Thầy là người chân thật, Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề
ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa.
Vậy có được phép nộp thuế cho Xêda hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải
nộp?”
Đối với những người Pharisêu và mấy người thuộc phe Hêrôđê họ đã dùng những lời
ca tụng này để ca tụng Chúa Giêsu, quả thật là chính xác, nhưng bên trong đó họ
lại đang gài bẩy Người, để tìm cớ bắt Người: “Có được nộp thuế cho Xêda hay
không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp.” Đây là một bài học cảnh báo cho
mỗi người trong chúng ta khi sống chung với nhau, là cần có sự trung thực trong
lời nói đi đôi với tâm hồn của mình, để nâng đỡ và học hỏi với nhau giúp nhau
thăng tiến đời sống đạo đức của mình.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con nhận ra những gì thuôc về
Thiên Chúa và những gì thuộc về thế gian này, để chúng con biết tuân theo lời dạy
bảo của Chúa: “Của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
05-06: Thánh BÔNIFACIÔ
Giám Mục Tử Đạo
(673 – 754)
Thánh Bônifaciô có tên
sơ khởi là Winfrid. Ngài là người Saxon miền nam, sinh ở Creditôn gần Exêter,
năm 673, thời đó, phong trào truyền giáo rất mạnh mẽ ở nước Anh. Gia đình Ngài
thường là nơi dừng chân của rất nhiều nhà truyền giáo. Winfrid rất thích gần
gũi ở những con người thánh thiện này và không bỏ mất một lời nào các Ngài kể lại
và năng hỏi thăm về những chân lý các Ngài rao giảng. Một ngày kia Winfrid hỏi
các Ngài phải làm gì để được cứu rỗi ? Các vị thừa sai trả lời: – Phải nỗ lực để
nên tốt lành với mọi người và đừng nghĩ đến mình.
Nghe những lời này,
Winfrid muốn lên đường ngay để rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Ngài đã xin
cha đi tu nhưng cha Ngài đã từ chối. Ngài ngã bệnh khiến cha Ngài hốt hoảng và
đã chấp nhận.
Winfrid nhập dòng ở
Exeter và vì thiện chí học hỏi của Ngài, người ta gởi Ngài tới Nursling để học
kinh thánh, thơ văn và văn phạm, năm 717, Winfrid đã trở thành một giáo sĩ nổi
bật của miền nam Saxon và được đề nghị làm tu viện trưỏng tu viện Nursling.
Nhưng Ngài đã quyết định gia nhập nhóm truyền giáo. Angle-saxon lên đường tới
Frisia. Vẫn quan tâm đến các công việc của nước Anh cho đến hết đời, Ngài giữ
liên lạc thư từ rất thường xuyên nhưng không hề viếng nước Anh lần nào nữa.
Miền đất Winfrid muốn
đến rao giảng Tin Mừng là một vùng thuộc nước Đức và nằm giữa hai giòng sông
Rhin và Danube. Cả người Rôma lẫn người Pháp đã không thuần hoá được dân chúng
hung dữ của miền này. Nhưng một cuộc chiến bùng nổ giữa bá ước Ratborol và
Charles Martel, khiến Ngài không cập bến được. Ngài hướng về Roma với một nhóm
hành hương và xin sự chẩn nhận của Đức giáo hoàng. Đức Thánh cha Grêgoriô II đã
chúc lành cho tu sĩ này và ban cho mọi người quyền hạn để mang Nước Chúa đến
cho dân Đức còn đang thờ ngẫu tượng.
Rời Rôma, Người rảo
qua các miền Lombardie, Baviere và Thuringia học hiểu ngôn ngữ và giữ các phong
tục địa phương của đám dân. Ngài muốn truyền bá Tin Mừng. Ngài đã đến Frisia, đến
giữa nước Đức, và lập được nên một nhà nguyện, một tu viện ở Hambourg. Thành quả
này làm phấn khởi cũng như thúc đẩy tình yêu nơi vị tông đồ. Những cuộc trở lại
đạo này ngày một nhiều.
Năm 722 Đức giáo hoàng
gọi Winfrid về Roma và tấn phong Ngài làm giám mục. Đức Giáo hoàng nói: – Từ
nay con sẽ mang tên là Bônifaciô, nghĩa là “người thi ân”. Đây là lần đầu tiên
một tòa giám mục ở xa đã theo thực hành địa phương của Italia và đã tỏ bày sự
tuân phục đối với Đức Giáo hoàng .
Bônifaciô lại lên đường
truyền giáo với tư cách giám mục. Ngài sẽ không ở Frisia dưới quyền Willibord,
nhưng muốn mở ra một lãnh địa mới ở Tây Đức. Ngài đã bắt đầu ở Hesse miền
Thuringia là nơi Ngài đã đến đốn một cây sồi cổ thụ. Dân chúng đặt tên cho cây
sồi này là “sức mạnh thần Jupiter”. Thánh nhân đã triệt hạ cây cổ thụ cách dễ
dàng lạ lùng rồi dùng cây dựng nhà thờ kính thánh Phêrô. Dân chúng thờ ngẫu thần
đã giận dữ vì sợ bị thần minh oán phạt. Họ tuốn đến đe dọa thánh nhân. Nhưng
khi nghe Ngài nói rất hay và đầy tình đầy nghĩa, nhiều người đã trở lại đạo.
Charles Martel lúc ấy
sẵn sàng đem binh lực phục vụ Kitô giáo. Tuy nhiên Đức Giám mục Bônifacio đã
không muốn cậy dựa vào sức mạnh mà chỉ dùng tình thương để cải hóa các tâm hồn.
Ngài đã thiết lập nhiều tu viện và kêu gọi sự trợ giúp từ nước Anh gởi tới. Đã
có nhiều linh mục, nghệ sĩ, văn sĩ, tới góp công và nhiều người khác đóng góp của
cải cho việc truyền giáo. Cứ như thế mà thánh Bônifacio đã có thể trao phó cộng
đoàn nhỏ bé và mới mẻ cho các tu sĩ coi sóc rồi lại lên đường tiếp tục mở mang
nước Chúa.
Đức giáo hoàng
Gregoriô III phong đức Bônifacio lên chức Tổng giám mục và trao cho trách nhiệm
thiết lập các toà giám mục ở nước Đức. Sau cuộc viếng thăm Rôma lần thứ ba,
Ngài nhận sứ mệnh tổ chức Giáo hội ở hữu ngạn sông Rhin. Suốt 7 năm đi rao giảng
Tin Mừng ở Hesse, Ngài đi vào khu rừng phân cách Hesse và Thuringia. May mắn,
nhà truyền giáo được hứơng dẫn tiến về thung lũng Fuloda. Cùng với các tu sĩ,
Ngài phá rừng đào đất và xây dựng tu viện Fulda. Tu viện này sẽ trở nên thành
trì của đời sống tôn giáo trí thức của dân man rợ thời Trung Cổ.
Đức Tổng giám mục
Bônifacio chọn Mayence làm toà tổng giám mục. Carlôan con của Charles martel chọn
đời sống tu trì và nhường quyền kế vị cho Pépin. Ông này muốn được một đức giám
mục lớn phong vương. Trong một lễ nghi long trọng ở Soissons, vị tông đồ đã đặt
vương miện lên đầu Pépin le Brej. Sau đó không kể gì đến tuổi già, Ngài lại lên
đường truyền giáo.
Ngài xuống thuyền với
50 người tùy tùng gồm có các linh mục, tu sĩ và các sinh viên. Đoàn thuyền tới
giữa các cánh đồng lầy lội. Cư dân của vùng này còn sống rất hoang dại. Các nhà
truyền giáo rao giảng Tin Mừng cho họ. Đức cha Bônifacio hẹn các tân tòng ở
Dokum, gần bờ bể, ngày 5 tháng 6 năm 756, hôm ấy là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Lúc vừa cử hành thánh lễ thì một đoàn người mang khí giới xông tới, Bônifacio
quay về với các bạn và nói: – Can đảm lên, khí giới này không làmgì được linh hồn.
Các lương dân xông vào
sát hại các nhà truyền giáo. Một nhát búa bổ xuống Đức Tổng giám mục và cuốn
Phúc âm Ngài đang cầm trong tay.
Xác thánh nhân được
đưa về chôn cất ở nhà thờ chánh tòa Fulda. Thư viện còn lưu giữ được cuốn sách
bị chặt đứt của thánh nhân.
(daminhvn.net)
05 Tháng Sáu
Hãy Cho Một Nụ Cười
Một bệnh nhân nọ được
đưa vào một bệnh viện do các tu sĩ điều khiển. Người ta không để cho anh nằm điều
trị trong một căn phòng riêng rẽ mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân
khác trong một phòng lớn. Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị
các bệnh nhân khác tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt
tóc. Không mấy chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của
các bệnh nhân khác.
Không chịu đựng nổi
trò chơi quái ác của các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ
trách. Anh trình như sau: “Tại sao ông lại đưa tôi vào đây. Tất cả các bệnh
nhân xung quanh tôi đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không
đau yếu như tôi”.
Vị phụ trách mỉm cười
đáp: “Họ còn đau yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều khám phá ra một bí quyết, một
bí quyết mà ít người ngày nay biết đến hoặc có biết đến, họ cũng không tin”.
Người đàn ông muốn
biết bí quyết ấy. Vị phụ trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu.
Ngài lấy một hòn đá đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc
lên… Ngài giải thích như sau: Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các bệnh
nhân ở đây. Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với
nhau. Hòn đá biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông. Khi đau khổ đè nặng trên ông,
thì ở đầu cân bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó. Niềm vui và nỗi
khổ thường sánh vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến,
chứ không phải để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ
thơ, hãy làm cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp
hối”.
Cái chết của Ðức Kitô
là cái chết của một người cho tất cả mọi người. Ðó là Tình Yêu được dâng hiến
cho tất cả mọi người. Ðó là Hy Sinh cho tất cả mọi người. Ðó là Lý Tưởng của một
người sống và chết cho mọi người.
Nhìn ngắm Ðức Kitô
trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người: con người
chỉ có thể thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống cho người khác. Càng sống
cho tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với người
khác, con người càng trở nên phong phú…
Có của cải, có thì giờ,
có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người còn có cả một kho tàng khác để
chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh âm thầm của
mình.
Âm thầm đón nhận một
đau khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng luôn để lộ trên khuôn mặt sự
vui tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất mà
chúng ta có thể dành cho người khác.
Vác lấy khổ đau để trở
thành gánh nặng cho người khác: đó là một trong những chia sẻ cao quý nhất mà
chúng ta có thể dành cho người khác.
Dâng từng khổ đau, hy
sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện cho tha nhân: đó là một trong
những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của sự
chia sẻ ấy.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét