27/06/2018
Thứ Tư tuần 12 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm
II) 2 V 22, 8-13; 23, 1-3
"Vua đọc cho mọi người nghe lời sách giao ước đã tìm thấy trong Nhà
Chúa, ký kết giao ước trước mặt Chúa".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, thượng tế Helcia nói với thư ký Saphan rằng:
"Tôi tìm thấy sách luật trong Nhà Chúa". Helcia trao sách cho Saphan
đọc. Rồi thư ký Saphan đến cùng vua, và thuật lại cho vua rằng: Tôi tớ vua đã
thu lượm số bạc dâng cúng trong nhà Chúa, và trao cho đốc công nơi Ðền thờ
Chúa, để phát lương cho thợ. Thư ký Saphan cũng thuật cho vua rằng: "Tư tế
Helcia đã trao cho tôi cuốn sách". Thư ký Saphan đã đọc sách đó trước mặt
vua. Khi nghe lời sách luật Chúa, vua liền xé áo mình, rồi truyền cho tư tế
Helcia và Ahica con Saphan, Acôbor con Mica, và thư ký Saphan cùng Asaia người
hầu cận vua rằng: "Các ngươi hãy đi hỏi ý Chúa cho trẫm, cho toàn dân và
cho nhà Giuđa, về các lời sách vừa tìm thấy. Cơn thịnh nộ của Chúa đối với
chúng ta nặng nề lắm, vì cha ông chúng ta không tuân giữ các lời trong sách
này". Họ thuật lại cho vua các lời của Chúa.
Bấy giờ vua sai đi triệu tập các trưởng lão Giuđa và Giêrusalem đến cùng
vua. Vua lên Ðền thờ Chúa với những người thuộc chi tộc Giuđa, toàn thể dân cư
Giêrusalem, các tư tế, các tiên tri và toàn dân lớn bé, ông đọc cho mọi người
nghe lời sách giao ước đã tìm thấy trong Nhà Chúa. Vua đứng trên bệ, ký kết
giao ước trước mặt Chúa, để ai nấy đi theo Chúa, cùng hết lòng hết sức tuân giữ
các huấn lệnh, các lề luật và nghi lễ của Chúa. Họ làm sống lại các lời giao ước
đã ghi chép trong sách này: cả dân đều chấp nhận bản giao ước.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 33. 34.
35. 36. 37. 40
Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con
đường lối thánh chỉ Ngài (c. 33a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin dạy bảo con đường lối thánh chỉ Ngài, để con tuân
giữ cho bằng triệt để. - Ðáp.
2) Xin dạy con để con vâng theo luật pháp Ngài, và để con hết lòng tuân
giữ luật đó. - Ðáp.
3) Xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ chị Ngài, vì chính trong đường lối
này con sung sướng. - Ðáp.
4) Xin nghiêng lòng con theo lời Ngài nghiêm huấn, và chớ để con sa ngã
vào chỗ lợi danh. - Ðáp.
5) Xin cho con ngoảnh mặt, khỏi thấy cảnh phù vân; xin cho con được sống
noi theo đường lối Chúa. - Ðáp.
6) Này đây, con khao khát huấn lệnh của Ngài, theo lượng công minh Ngài,
xin cho con được sống. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời
Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy".
- Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7, 15-20
"Hãy xem quả thì các con sẽ biết chúng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các
tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ
hay cắn xé. Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái
nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái
tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu
không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa.
Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Xem quả biết
cây
Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Ðộ là cha Anthony de Mello có kể câu
truyện ngụ ngôn: Một vị giáo sĩ nọ đến gặp một tiên tri và xin ngài cầu nguyện
cho một đôi vợ chồng trẻ: họ là những người rất mực đạo đức, nhưng không có
con. Nghe thế vị tiên tri trả lời: "Ta rất lấy làm tiếc, Chúa không muốn
cho họ có con".
Thế nhưng, 5 năm sau, vị giáo sĩ trở lại thăm đôi vợ chồng trẻ, lần này
ông nghe thấy tiếng trẻ con cười đùa trong nhà. Người chồng giải thích rằng
cách đây 5 năm, có một người hành khất lang thang trước nhà họ, người chồng mời
người hành khất vào nhà, cho ăn uống và mặc quần áo mới cho. Trước khi từ giã,
người hành khất đã chúc lành cho đôi vợ chồng trẻ và Chúa đã ban cho họ được
hai đứa con.
Vị giáo sĩ trở lại gặp vị tiên tri để xin một lời giải thích. Vị tiên tri
mỉm cười trả lời: "Ta chỉ có thể nói rằng có một vị thánh đã đến thăm đôi
vợ chồng trẻ này, và nhờ lời chúc phúc của ngài, họ đã có được hai đứa con; các
thánh có cách thay đổi chương trình của Thiên Chúa".
Một cuộc sống thánh thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác, một
chứng tá đức tin luôn có sức đánh động người khác. Ðó có thể là ý tưởng nổi bật
trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói đến trái tốt từ cây tốt. Qua kiểu nói
này, hẳn Chúa Giêsu muốn nói đến những thể hiện đích thực của lòng tin: một đức
tin chân thật luôn đi đôi với việc làm cụ thể. Chính Ngài đã nói: "Không
phải những ai đã nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những
ai thực hành ý Chúa mới được vào mà thôi". Thánh Giacôbê đã lấy lại giáo
huấn này khi ngài viết: "Ðức tin không có việc làm là đức tin chết tận gốc
rễ".
Chúa Giêsu tỏ lòng cảm thông và tha thứ cho những yếu hèn và vấp ngã của
con người, nhưng Ngài không hề dung chấp cho thái độ giả hình của những người
Biệt phái. Ngài gọi họ là những tiên tri giả, những người đội lốt chiên mà bên
trong là lòng dạ của sói dữ. Họ trưng bày một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của
họ gồm toàn những hành động xấu xa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước thói giả hình. Bao lâu
giữa niềm tin và cuộc sống còn có khoảng cách, thì bấy lâu chúng ta vẫn còn là
những kẻ giả hình; trên cây đức tin của chúng ta chỉ có những quả xấu; cuộc sống
chỉ còn là những phản từ, hay nói theo ngôn ngữ quen thuộc: chúng ta làm ố danh
sự đạo. Thánh Phaolô đã nhắn nhủ tín hữu Côrintô: Những người rước Mình Thánh
Chúa mà vẫn tiếp tục sống trong chia rẽ và kỳ thị, là những người sống trong
mâu thuẫn không thể chấp nhận được, và họ rước Mình Thánh Chúa một cách bất xứng.
Bí tích Thánh Thể không thể tách rời khỏi giới răn yêu thương: người ta không
thể rước Mình Thánh Chúa mà đồng thời lại sống xa lạ với anh em đang bị đói
khát, đau yếu, tù đày. Từ việc rước lễ phải nẩy sinh trong chúng ta sức mạnh của
niềm tin yêu khiến chúng ta cởi mở với tha nhân, có lòng từ bi đối với những
người sống trong túng thiếu và quẫn bách.
Ước gì chúng ta luôn biết thể hiện đức tin của chúng ta bằng những hành động
cụ thể. Ước gì hoa trái của đức tin chúng ta trở thành của ăn có sức nuôi dưỡng
bồi bổ đối với những người xung quanh.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 12 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 2 Kgs 22:8-13; 23:1-3; Mt 7:15-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy sống xứng
đáng với danh hiệu mình mang.
Theo thuyết Chính Danh của Khổng Tử: làm vua phải biết lo cho dân được ấm
no và bình an, làm dân phải biết tuân giữ các mệnh lệnh và chu toàn bổn phận của
mình; làm cha phải biết thương yêu và giáo dục con cái nên người, làm con phải
biết vâng lời và báo hiếu cha mẹ. Nếu mọi người trong nước và trong gia đình đều
biết sống đúng như danh hiệu của mình, dân chúng sẽ an cư lạc nghiệp, gia đình
sẽ yên vui hạnh phúc, và đất nước sẽ bình an.
Các bài đọc hôm nay muốn đưa ra những tấm gương để mọi người nhìn vào đó
và nhận ra mình đã sống đúng với danh hiệu của mình chưa. Trong bài đọc I, khi
sửa chữa Đền Thờ, thượng tế Hilkiah đã tìm lại được quyển Sách Luật đã bị bỏ
quên lâu năm. Ông đưa cho viên ký lục của vua đọc. Sau đó viên ký lục này trình
lên đức vua. Khi vua Josiah đọc Sách Luật, ông kinh hoảng về những lời dạy
trong đó, và truyền cho thượng tế Hilkiah canh tân toàn thể vương quốc theo sự
chỉ dẫn của Sách dạy. Vì thế, vua đã cứu vương quốc mình thoát khỏi cơn thịnh nộ
của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đề phòng cho dân chúng đừng tin các
ngôn sứ giả. Họ là những chó sói đội lốt người chăn chiên để rình chờ cắn xé
chiên. Để giúp dân nhận ra những ngôn sứ giả, Chúa Giêsu khuyên dân chúng đừng
đánh giá bằng bộ áo họ mặc; nhưng nhìn vào cuộc sống của họ, vì cây tốt không
thể sinh quả xấu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: “Chúng ta đã không vâng nghe các
lời trong sách này mà làm theo mọi điều đã viết trong đó.”
1.1/
Sách Luật của Thiên Chúa bị bỏ quên: Một điều ngạc nhiên đây là Sách mà hầu hết các học
giả đều đồng ý là Sách Đệ Nhị Luật, một trong Ngũ Thư (5 quyển sách đầu tiên của
Cựu Ước). Làm sao một sách quan trọng như thế lại bị bỏ quên trong Đền Thờ đến
nỗi thầy thượng tế cũng không biết cho đến khi vua truyền phải sửa chữa Đền Thờ?
Thượng tế Hilkiah nói với ký lục Shaphan: “Tôi đã tìm thấy sách Luật
trong Nhà Đức Chúa.” Ông Hilkiah trao sách cho ông Shaphan đọc. Ký lục Shaphan
đến gặp vua và trình lên vua rằng: “Tư tế Hilkiah đã đưa cho tôi một cuốn
sách.” Sau đó, ông Shaphan đọc sách trước mặt vua.
Nghe những lời ghi chép trong sách Luật, vua xé áo mình ra, rồi truyền lệnh
sau đây cho tư tế Hilkiah, cho ông Ahikam, con ông Shaphan, cho ông Achbor, con
ông Micaiah, cho ký lục Shaphan và ông Asaiah, tôi tớ của vua: “Hãy đi thỉnh ý
Đức Chúa cho ta, cho dân và toàn thể Judah về những lời ghi chép trong sách đã
tìm thấy đây, vì Đức Chúa đã bừng bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại chúng ta, bởi
lẽ tổ tiên chúng ta đã không vâng nghe các lời trong sách này mà làm theo mọi
điều đã viết trong đó.”
1.2/
Vua Josiah canh tân đất nước đúng như những gì Sách dạy.
Là người biết kính sợ Đức Chúa, “Vua sai người tập họp chung quanh vua mọi
kỳ mục của Judah và Jerusalem. Rồi cùng với mọi người Judah và mọi dân cư ở
Jerusalem, cùng với các tư tế, các ngôn sứ và toàn dân từ người nhỏ nhất cho đến
người lớn nhất. Vua lên Nhà Đức Chúa, đọc cho họ nghe tất cả các lời trong sách
Giao Ước đã tìm thấy trong Nhà Đức Chúa. Đứng trên bệ cao, vua lập giao ước trước
nhan Đức Chúa, cam kết đi theo Đức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh,
chỉ thị và quy tắc của Người, để chu toàn các khoản của Giao Ước được ghi chép
trong sách đó. Toàn dân chấp nhận giao ước.”
Chính vì hành động kính sợ Đức Chúa và canh tân kịp thời của vua Josiah,
Thiên Chúa đã đình chỉ việc giáng phạt Judah.
2/ Phúc Âm: Hãy coi chừng các ngôn sứ giả!
2.1/
Ngôn sứ thật và ngôn sứ giả: Đời nào cũng có các ngôn sứ giả. Lịch sử Do-thái không thiếu những hạng
người này như được ghi chép nhiều lần trong Sách ngôn sứ Jeremiah và Ezekiel.
Thánh Phaolô cũng đề phòng môn đệ Timothy về hạng người này và gọi họ là “chó
sói” như Chúa Giêsu gọi hôm nay: “Họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên
trong, họ là sói dữ tham mồi.” Ngày nay, cũng đầy dẫy những linh mục giả lợi dụng
chiếc áo để gieo những lạc thuyết sai lầm và tìm kiếm lợi nhuận. Làm sao để nhận
ra các ngôn sứ giả? Trước tiên chúng ta phải biết một ngôn sứ thật.
(1) Ngôn sứ thật: Theo định nghĩa đúng, người ngôn sứ là người nói những
gì Thiên Chúa muốn nói như một sấm ngôn hay một sứ điệp, chứ không nhải là người
nói tiên tri những gì sẽ xảy ra, dầu đôi khi có thể như vậy. Ngôn sứ là cái miệng
của Thiên Chúa dùng để nói những gì Ngài muốn nói với con người. Ngày nay, ngôn
sứ thật phải biết Lời Chúa và giảng Kinh Thánh, chứ không phải giảng văn chương
và nói chuyện chính trị. Ngôn sứ thật phải dạy dân biết Luật của Thiên Chúa và
can đảm sửa sai khi cần thiết.
(2) Ngôn sứ giả: Họ không nói lời của Thiên Chúa, thay vào đó họ nói những
gì họ muốn hay lời của người khác rồi đổ cho Thiên Chúa. Họ không dạy cho dân
biết Kinh Thánh và Lề Luật của Thiên Chúa, nhiều khi cũng chẳng chịu học biết để
dạy. Họ không dám sửa dạy dân chúng vì sợ mất lòng và bị ghét. Họ thích nói những
gì dân chúng muốn như: khen ngợi nhiều, đừng bắt làm nhiều, nhất là đừng khui tội
của dân chúng ra để lương tâm họ bị cắn rứt.
2.2/
Phương cách để nhận ra các ngôn sứ giả: Để giúp các tín hữu nhận ra những ngôn sứ giả, Chúa
Giêsu dạy: Nhìn quả biết cây; cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai.
Các tín hữu có thể nhìn cách sống của một người để biết ngôn sứ thật hay giả.
Hai điều chúng ta có thể rút ra từ những lời dạy của Chúa Giêsu:
(1) Đừng nhìn bên ngoài mà đánh giá: Đừng đánh giá bởi bộ áo bên ngoài vì
“Chiếc áo không làm nên thầy tu.” Chúa Giêsu mô tả: “Họ xúng xính trong bộ áo
thụng! Họ đeo những hộp kinh lớn trên trán và các tua áo dài… Họ đọc kinh nhiều
và dài để nuốt hết gia tài các bà góa.”
(2) Phải nhìn việc làm để đánh giá vì ý hướng bên trong của họ ta không
thấy. Họ không quan tâm gì đến phần hồn của chiên; nhưng để ý đến những gì
chiên mang lại cho họ. Họ như chó sói đội lốt chiên luôn rình chờ để cắn xé
đoàn chiên. Một số các đặc điểm của các ngôn sứ giả:
+ Tham lợi nhuận vật chất: họ thích tiền và những của biếu xén.
+ Ham danh vọng: Họ lợi dụng chức vụ để xây dựng danh tiếng cho mình. Họ
chỉ nhận lời làm những gì mang lại danh thơm tiếng tốt và chê bỏ những gì tầm
thường, hèn kém.
+ Thích quyền hành: Họ mong những chức vụ cao trọng trong Giáo Hội để được
ăn trên ngồi chốc, hay chán nản bi quan khi cấp cao không nhận ra tài năng quan
trọng của họ.
+ Thỏa mãn xác thịt: Họ lạm dụng niềm tin của phụ nữ và con trẻ để thỏa
mãn xác thịt. Đây là thứ tội mà Chúa Giêsu kinh tởm và buộc tội: “Thà buộc cối
đá và quăng xuống biển còn hơn!”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta hãy biết sống đúng với danh hiệu của mình. Nếu là ngôn sứ, hãy
dạy dân biết Lời Chúa và chỉ đường cho dân đến với Ngài. Nếu là Kitô hữu, hãy
vâng lời và làm những gì Thiên Chúa truyền dạy.
– Chúng ta đừng đánh giá người khác theo cái vỏ bên ngoài; nhưng hãy nhìn
vào việc làm của họ.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
27/06/2018 – THỨ TƯ TUẦN 12 TN
Th. Sy-ri-lô, giám mục A-lê-xan-ri-a, tiến sĩ HT
Mt 7,15-20
GIEO NHÂN GẶT QUẢ
“Cứ xem họ sinh quả nào, thì biết họ là ai.” (Mt 7,20)
Suy niệm: Bài Tin Mừng hôm nay chỉ
có vỏn vẹn sáu câu, nhưng Chúa Giê-su đã hai lần lập lại về đề tài xem họ sinh
quả nào, thì biết rõ họ là ai. “Họ” mà Ngài muốn nói ở đây là các ngôn sứ giả,
kẻ đội lốt chiên đến với anh em mình. “Họ” chính là nhóm Pha-ri-sêu, các luật
sĩ cùng thời với Chúa Giêsu, bị Ngài quở trách nhiều lần. Nhân rộng ra, “họ” có
thể là bất cứ ai gieo rắc sự giả hình, giả dối lừa bịp người khác, đặc biệt
trong lãnh vực đạo đức. Những người ấy không thiếu trong thời đại ta đang sống.
Để phân định chính – tà, tốt – xấu, chân – giả của một người, ta chỉ cần xem
hoa quả người ấy làm, phải chăng là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, hận thù, bất
hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa… hay
là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa,
tiết độ (Gl 5,20-22)? Cây nào trái ấy.
Mời Bạn: Sự thật phũ phàng này
không ngăn cản được đầu óc vụ lợi và ích kỷ của nhiều người trong đó không loại
trừ cả chúng ta. Lắm khi ta thấy lợi trước mắt mà không lường được tác hại về
sau. Hãy biết cầu nguyện xin ơn phân định của Chúa Thánh Thần mỗi khi quyết định
hành động.
Sống Lời Chúa: Tôi xác tín Lời Chúa dạy:
“Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây sâu không thể sinh quả tốt” (c.
18).
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
cảm tạ Chúa đã cho con một nguyên tắc để biết cách phân định người khác và
chính mình: xem quả biết cây. Con vẫn tự hào mình là cây tốt, nhưng trong thực
tế, lại sản sinh những quả xấu. Xin tha thứ và giúp con sống xứng đáng hơn.
Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Cứ xem quả thì biết
họ (27.6.2018 – Thứ Tư Tuần 12 Thường niên B)
Suy niệm:
Thời nào Hội Thánh cũng có những ngôn sứ giả.
Họ mang dáng dấp là người của Chúa, người nói
lời Chúa.
Họ hấp dẫn quần chúng và có nhiều người chạy
theo.
Đức Giêsu dạy ta phải coi chừng họ (c. 15).
Ngài dùng một hình ảnh quen thuộc để nói lên mối
nguy cơ này.
Các ngôn sứ giả đội lốt chiên tốt lành mà đến
với dân Chúa.
Nhưng thực chất họ là sói dữ tham mồi.
Cái khó là nhận ra bộ mặt thật của họ để không
bị đánh lừa.
Không nhận ra họ là sói, chúng ta có thể dễ
làm mồi cho họ.
Đức Giêsu dùng một hình ảnh khác
để chỉ cho ta cách phân biệt chiên với sói:
hình ảnh quả và cây.
Cây nào sinh quả ấy: đó là một nguyên tắc bất
biến.
“Có ai hái được nho ở bụi gai, hay hái vả trên
cây găng không?” (c. 16).
Hẳn là không rồi.
Cây tốt ắt sinh quả tốt, cây bị sâu ắt sinh quả chẳng ra gì (c. 17).
Hơn nữa, Đức Giêsu còn mạnh mẽ khẳng định:
cây tốt không thể sinh quả xấu,
và cây xấu không thể sinh quả tốt được (c. 18).
Chính vì thế cứ nhìn quả thì biết cây.
Cứ nhìn những công việc do một người làm,
ta sẽ biết người ấy là ai (cc. 16. 20).
Những môn đệ đích thực của Đức Giêsu hẳn sẽ sinh
quả tốt,
đó là sống công chính như giáo huấn của Bài Giảng trên núi.
Còn những ngôn sứ giả bị lộ mặt nạ qua đời sống bất chính của họ.
Chuyện ngôn sứ giả đã có từ xưa trong Cựu ước.
Ở Côrintô, thánh Phaolô đã phải vất vả đối đầu
với những kẻ mà ngài gọi là tông đồ giả, đội lốt tông đồ của Đức Kitô.
Ngài còn thêm: “Lạ gì đâu!
Vì chính Xatan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11, 13-14).
Như thế các tín hữu phải cảnh giác để phân biệt chân và giả,
đặc biệt trong thời Hội Thánh gặp khủng hoảng khó khăn.
Họ phải tỉnh táo để khỏi bị dáng vẻ bên ngoài hay lý luận mê hoặc.
Điều cần lưu tâm là đời sống công chính của vị ngôn sứ.
Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô cho chúng ta một tiêu chuẩn
để nhận ra hoa quả nào là bắt nguồn từ Thần Khí (5, 22).
Đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín…
Những điều ngược lại, ngài gọi là những hành động của xác thịt,
như hận thù, bất hòa, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái… (5, 20).
Sống trong một thế giới phẳng và đa nguyên, người kitô hữu hôm nay
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và nhanh chóng,
bởi nhiều nguồn thông tin, đến từ nhiều người.
Những tiêu chuẩn của Đức Giêsu hay của thánh Phaolô vẫn còn giá trị.
Nhưng chúng ta cần có thời gian để phân định quả xấu, quả tốt.
Và cũng cần có thời gian để nhận ra đâu là sói, đâu là chiên.
Cầu nguyện:
Như thánh Phaolô trên đường
về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của
Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà
con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng
của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối
trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại
trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng
nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con
mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết
lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự
do.
Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
27 THÁNG SÁU
Trong Sự Chăm Sóc
Ân Cần Của Cha
Ngay từ thuở ban đầu,
sự quan phòng của Thiên Chúa được xem như một chân lý nền tảng của đức tin. Huấn
quyền của Giáo Hội luôn luôn khẳng định điều ấy, tuy rằng mãi đến Công Đồng
Vatican I chân lý này mới được tuyên bố chính thức về mặt tín lý. Công Đồng nói
về sự quan phòng của Thiên Chúa nơi tạo vật: “Mọi sự mà Thiên Chúa đã sáng tạo,
Ngài gìn giữ và dẫn dắt bằng sự quan phòng của Ngài – sự quan phòng ấy bao trùm
từ chân trời này tới chân trời kia và cai quản tất cả một cách tốt đẹp” (Kn
8,1), “Tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mắt Ngài (Dt 4,13), kể cả những
gì sẽ xảy ra do sáng kiến tự do của các thụ tạo” (DS 3003).
Bản văn của Vatican I
nhằm đáp ứng cho những nhu cầu cụ thể của các tín hữu Công Giáo sống trong thế
kỷ 19. Trước hết, Công Đồng muốn xác nhận giáo huấn vốn sẵn có của Giáo Hội về
sự quan phòng, một giáo huấn bất biến có liên kết chặt chẽ với toàn bộ sứ điệp
Thánh Kinh. Chúng ta nhận ra điều này trong những bản văn Cựu Ước và Tân Ước đã
được trích dẫn trong bản văn của Công Đồng.
Qua việc xác nhận giáo
thuyết này, Công Đồng chống lại những sai lạc của thuyết duy vật và thuyết tự
nhiên thần giáo (deism) của thế kỷ 19. Thuyết duy vật phủ nhận sự hiện hữu của
Thiên Chúa. Thuyết tự nhiên thần giáo tuy nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa
và sự sáng tạo thế giới song lại chủ trương rằng Thiên Chúa không hoạt động
trong thế giới mà Ngài đã sáng tạo. Vì thế, có thể nói rằng thuyết này (deism)
trực tiếp chống lại chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 27/ 6
Thánh Cyrillô
Alexandria, tiến sĩ Hội Thánh
2V 22, 8-13; Mt 7,
15-20.
Lời suy niệm: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội
lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ
sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai.”
Chúa Giêsu đang cảnh giác mỗi người chúng ta phải cẩn thận phân biệt giữa ngôn
sứ thật và ngôn sứ giả, để không bị những ngôn sứ giả lừa dối, để không đánh mất
lòng tin vào các ngôn sứ thật, bằng cách: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết
họ là ai.” Khi một ngôn sứ giảng dạy chân lý mà không làm theo mình dạy thì dó
là ngôn sứ giả. Một ngôn sứ đến đâu cũng xin tiền, đòi dọn cơm đãi tiệc thì đó
là ngôn sứ giả. Còn những ngôn sứ thật, họ hy sinh, phục vụ, yêu thương trước,
trước khi kêu gọi người khác thực hiện.
Lạy Chúa Giêsu xin Chúa ban cho cộng đoàn chúng con có những ngôn sứ thật để
chăm sóc chúng con, và xin Chúa cất khỏi chúng con những ngôn sứ giả, giúp
chúng con khỏi sa vào những cám dỗ nguy hại cho đời sống thiêng liêng của chúng
con.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
27-06: Thánh CYRILLÔ ALEXANDRINÔ
Giám Mục, Tiến Sĩ Hội
Thánh (+444)
Năm 412 thánh Cyrillô
kế vị cậu Ngài là Theophilô làm giám mục Alexandria. Khi ấy Ngài đã vào khoảng
trung tuần. Người ta không biết gì về cuộc sống Ngài trước đó, trừ trường hợp,
Ngài có mặt trong vụ kết án thánh Gioan Kim Khẩu năm 408. Hiển nhiên là Ngài đã
có thời sống như một ẩn sĩ trong sa mạc và đã được giáo dục kỹ lưỡng về văn
chương Hy Lạp.
Vào thế kỷ V, các giáo
phụ Alexandria đã trở thành những giám mục giàu có và uy quyền nhất trong đế quốc.
Trở thành Kitô, người Ai cập vẫn còn mang những gì còn lại trong tâm tình dân tộc
của mình. Các giám mục tự mô tả như là những Đấng kế vị thánh Marcô, nhưng cũng
kế nhiệm các thượng tế Amen Ra và có phong cách nào đó của Pharao.
Suốt 15 năm đầu làm
giám mục, thánh Cyrillo đã đập tan thế hệ cầm quyền và những nhà đổi tiền Do
thái ở Alexandria. Việc thực thi đức ái của Ngài đối với người nghèo khó, bệnh
hoạn cũng như lòng thương cảm sâu xa của Ngài với mọi tội nhân hối cải, luôn
kèm theo một chút cứng rắn. Chắc chắn là các kẻ thù của Ngài cũng là kẻ thù của
Thiên Chúa. Nhiệt tâm với các linh hồn và say mê bảo vệ đức tin Kitô giáo, Ngài
sẵn sàng dùng đến mọi phương tiện trong tay như là của cải, tài khích lệ quần
chúng và lực lượng các thầy dòng.
Điều này giúp chúng ta
hiểu được tại sao cuộc tranh luận về Kitô học mà Ngài giữ một vai trò lớn lao
đã có màu sắc pha trộn chính trị lâu dài như vậy.
Năm 438, thày dòng
Nestôriô trở thành thượng phụ Constantinople. Dường như ông ta đã làm giám mục
tại triều đình có tham vọng mãnh liệt, tin vào hiệu quả lớn mạnh do đời sống cầu
nguyện của mình và có ý tiêu diệt mọi lạc thuyết. Đàng khác, không chắc rằng
ông đã muốn trở thành lạc giáo. Vào đầu thế kỷ V, các thần học gia đền nhận rằng:
đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Dầu vậy chưa có định tín về mối
tương quan giữa Thiên tính và nhân tính của Người như thế nào. Thánh Cyrillo chủ
trương rằng: cả hai bản tính kết hợp mật thiết với nhau, đến độ Mẹ Chúa Kitô
cũng được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Nestôriô thì phân biệt rằng Mẹ Con Trẻ Giêsu chỉ
được gọi là Mẹ Chúa Kitô mà thôi. Mỗi bên đều tố cáo bên kia là lạc giáo.
Thánh Cyrillo liên kết
với các tu sĩ Đông phương Ngài còn được Đức giáo hoàng nâng đỡ và cử làm Vị đại
diện ở Đông phương. Với mệnh lệnh này, năm 430 Ngài kết án Nestôriô là lạc giáo
tại một hội nghị ở Alexandria. Mùa hè năm 431, Ngài triệu tập và chủ tọa cộng đồng
chung ở Ephesô. Nestôriô không những bị kết án mà còn bị truất phế nữa. Đức
trinh Nữ được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa.
Công đồng Ephêsô được
Đức giáo hoàng chuẩn nhận. Nhưng hoàng đế lại không công nhận vì thánh Cyrillo
đã không đợi 43 giám mục có thiện cảm với Nestôriô tới họp. Thánh Cyrillo bị bắt
ở Tiểu Á và bị giam tù trong hai tháng. Thánh phụ Antiôkia và các người dưới
quyền cắt đứt hiệp thông với Ngài. Thánh nhân trốn về Ai cập và năm 433 kết hợp
lại được với Antiôkia. Từ đó Ngài lại thúc đẩy hoàng đế chấp nhận các sắc lệnh
của công đồng Ephêsô. Hoàng đế vẫn nghi ngờ Ngài cho đến khi Ngài qua đời vào
năm 444. Thánh Cyrillo vẫn còn dấn thân vào cuộc tranh luận Kitô học này cho đến
chết.
Không có nhà thần học
Hy Lạp nào lớn hơn thánh Cyrillo. Ngài có khả năng tổng hợp và nhận định có thể
so sánh được với thánh Augustinô. Không có thánh nhân nào bị phê bình tàn khốc
như thánh nhân, nhưng ít có thánh nhân nào đã hăng hái như Ngài. Cả những người
ghen ghét cũng không thề chất vấn về sự cao cả của Ngài. Bên dưới sự hăng hái của
Ngài là cả một tình yêu mạnh mẽ đối với đức Kitô với niềm tin mãnh liệt vào
lòng thương xót của Người. Đức giáo hoàng Celestinô xưng tụng Ngài là đấng bảo
vệ Giáo hội và Đức tin”.
(daminhvn.net)
27 Tháng Sáu
Con Chim Trong Bàn Tay
Người Ba Tư có kể
câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Ngày xưa, tại quảng
trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố giải
đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế.
Một hôm, giữa đám
người đang say mê lắng nghe nhà hiền triết, có một mục tử từ trên núi cao đến.
Nghe tiếng đồn về sự thông thái và khôn ngoan của nhà hiền triết, anh muốn chứng
kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông.
Anh tiến đến gần
nhà hiền triết, trong tay bóp chặt một con chim nhỏ. anh đặt câu hỏi như sau:
‘Thưa ngài, trong tay tôi có cầm một con chim. Ngài là bậc thông thái biết được
mọi sự. Xin ngài nói cho tôi biết con chim tôi đang cầm trong tay sống hay chết?”.
Nhà hiền triết biết
đây là một cái bẫy mà người mục tử tinh ranh đang giăng ra. Nếu ông bảo rằng
con chim đang còn sống, thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết trước khi
mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng con chim đã chết thì lập tức con người khôn
manh ấy sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.
Sau một hồi thinh lặng,
trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết mới trả lời như sau: “Con
chim mà ngươi đang cầm trong tay ấy sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn
cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì nó chết”.
Ai trong chúng ta cũng
khao khát hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong ước được cuộc sống an bình,
vui tươi. Nhưng lắm khi chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo của hạnh phúc hơn
là hưởng nếm chính hạnh phúc đang cầm trong tầm tay của chúng ta. Hạnh phúc
đích thực chính là con chim mà mỗi người chúng ta đang có ở trong lòng tay. Con
chim ấy sống hay chết là tùy ở mỗi người chúng ta. Chúng ta được hạnh phúc,
chúng ta được an bình hay không là do chính chúng ta.
Hạnh phúc đích thực của
chúng ta, niềm vui đích thực của chúng ta chính là Thiên Chúa. Nếu chúng ta để
cho Thiên Chúa chiếm ngự, nếu chúng ta để cho Thiên Chúa lấp đầy, thì cho dẫu
ngoại cảnh có làbầu trời đen tối đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy an bình, hạnh
phúc.
Ý thức được sự hiện diện
của Chúa trong tâm hồn, để cho Chúa chiếm trọn tâm tư, lấy Chúa làm tất cả
trong cuộc sống, chúng ta sẽ có được niềm vui đích thực.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét