13/06/2018
Thứ Tư tuần 10 thường niên
Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ.
* Chào đời khoảng cuối thế kỷ 12, tại Lít-bon, Bồ-đào-Nha, nhập hội kinh sĩ thánh Augustinô, nhưng sau khi làm linh mục được ít lâu, thánh Antôn hâm mộ lý tưởng sống Tin Mừng của thánh Phanxicô. Người đã đến Át-xi-di, sống bên cạnh thánh Phanxicô (năm 1221). Với tài năng giảng thuyết ngoại thường, người được phái qua Pháp là nơi các giáo thuyết của phái Ca-tha đang hoành hành. Người lập một tu viện ở Bơ-ri-vơ La Gai-ác. Thánh nhân là người đầu tiên trong dòng dạy thần học cho anh em. Người qua đời tại Pađôva sau khi giảng tĩnh tâm
mùa Chay tại đó (năm 1231).
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1 1 V 18, 20-39
"Chớ gì dân
này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa đã hoán cải lòng họ".
Trích sách Các Vua quyển
thứ nhất.
Vua Acáp sai người triệu
tập toàn thể con cái Israel và nhóm họp các tiên tri trên núi Carmel.
Bấy giờ Êlia đến cùng
toàn dân và tuyên bố rằng: "Các ngươi đi nước đôi cho đến khi nào? Nếu
Chúa là Thiên Chúa, các ngươi hãy theo Người; nếu Baal là thiên chúa, thì hãy
theo nó đi!" Dân chúng không thưa lại được lời nào. Êlia nói tiếp:
"Chỉ còn tôi là tiên tri duy nhất của Chúa, mà tiên tri của Baal thì có đến
bốn trăm năm mươi người. Hãy cho chúng tôi hai con bò đực; họ hãy chọn lấy một
con cho họ, xẻ ra từng miếng đặt trên củi, nhưng đừng đốt lửa. Phần tôi, tôi
làm thịt con bò kia, xếp trên củi và cũng không châm lửa. Ðoạn các ông hãy kêu
cầu danh các thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh Chúa của tôi. Ðấng
nào đáp lời cho lửa xuống đốt, thì Ðấng ấy là Thiên Chúa". Toàn dân đồng
thanh đáp: "Ðề nghị hay đấy!"
Vậy Êlia nói với các
tiên tri của Baal rằng: "Các ông hãy chọn lấy một con bò và làm thịt trước
đi, vì các ông đông hơn, rồi hãy kêu cầu danh thần của các ông, nhưng đừng châm
lửa". Họ liền bắt con bò người ta trao cho mà làm thịt. Họ kêu cầu danh
Baal từ sáng đến trưa và nguyện rằng: "Lạy thần Baal, xin nghe lời chúng
tôi!" Nhưng chẳng có tiếng đáp, cũng chẳng ai trả lời. Họ nhảy múa chung
quanh bàn thờ họ đã dựng lên. Khi trời đã trưa, Êlia chế diễu họ rằng:
"Hãy gào thét to hơn, vì Baal là một vị thần. Có khi Người đang là tính
công chuyện hoặc đang bận việc, hoặc đi vắng, hay đang ngủ chăng, và sẽ thức dậy".
Họ càng kêu lớn tiếng, lấy gươm giáo rạch mình theo tập tục họ, cho đến khi
mình đầy máu me. Khi đã quá trưa, họ còn đọc thần chú đến giờ dâng lễ vật thường
lệ, nhưng không có tiếng đáp, cũng chẳng có ai trả lời tỏ dấu lưu tâm đến.
Bấy giờ Êlia nói với
toàn dân rằng: "Hãy lại gần tôi". Toàn dân liền đến gần bên ông. Ông
dựng lại bàn thờ Chúa trước kia đã bị phá huỷ. Ông lấy mười hai hòn đá đúng
theo số mười hai chi tộc con cái Giacóp, là kẻ đã được nghe lời Chúa phán như
sau: "Ngươi sẽ gọi là Israel". Ông dùng các hòn đá ấy làm bàn thờ
kính danh Chúa. Rồi ông đào một cái mương, rộng chừng hai đấu hạt giống, chung
quanh bàn thờ; ông xếp củi, xẻ con bò ra từng miếng và đặt trên củi. Ðoạn ông
nói: "Hãy múc đầy bốn hũ nước và đổ trên của lễ toàn thiêu và củi".
Và họ làm như thế. Ông còn dạy: "Hãy làm như vậy một lần thứ hai".
Khi người ta đã làm như ông dạy, ông lại ra lệnh: "Hãy làm như thế một lần
thứ ba". Và họ làm lần nữa. Nước chảy chung quanh bàn thờ, mương đầy nước.
Khi đã đến giờ dâng của
lễ toàn thiêu, tiên tri Êlia tiến ra cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên
Chúa của Abraham, Isaac và Israel, xin tỏ ra Chúa là Thiên Chúa của Israel và
con là tôi tớ của Chúa, và chính vì tuân lệnh Chúa truyền mà con đã làm các việc
này. Lạy Chúa, xin nhậm lời con, xin đoái nghe lời con, hầu cho dân này nhìn nhận
Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa hoán cải lòng họ". Bấy giờ lửa Chúa giáng
xuống thiêu đốt của lễ toàn thiêu, củi, đá và cả bụi đất, đồng thời cũng hút hết
nước trong mương. Trông thấy thế, toàn dân kinh hãi sấp mặt xuống đất mà nói rằng:
"Chúa là Thiên Chúa! Chúa là Thiên Chúa!"
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a. 4.
5 và 8. 11
Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa
Chúa (c. 1).
Xướng: 1) Xin bảo toàn
con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể
con. - Ðáp.
2) Thiên hạ tăng thêm
nhiều nỗi đau thương của họ, họ là những kẻ chạy theo các thần tượng ngoại lai.
Con sẽ không dâng lễ quán bằng máu của chúng, cũng không đọc tên chúng trên
môi. - Ðáp.
3) Chúa là phần gia
nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ vận mạng của con. Con luôn
luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.
- Ðáp.
4) Chúa sẽ chỉ cho con
đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên
tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c và
5a
Alleluia, alleluia! -
Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân
lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5, 17-19
"Thầy không đến
để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật
hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Thầy bảo thật
các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng
không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những
điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất
trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể
là người cao cả trong Nước Trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Kiện toàn lề
luật
Luật cơ bản nhất trong
đời sống tu trì vốn là luật bác ái và nền tảng của luật này là sự tôn trọng và
tin tưởng lẫn nhau. Sự kiện này tiêu biểu cho chính sự tuân hành luật lệ trong
Giáo Hội. Giáo Hội có luật lệ, nhưng không bao giờ dùng sức mạnh đe dọa để cưỡng
bách người tín hữu tuân hành. Tinh thần đích thực của việc tuân hành luật lệ
trong Giáo Hội chính là tình mến; không có tình mến, thì một bộ luật, dù hoàn hảo
đến đâu, cũng không khác gì một cây khô héo.
Ý nghĩa và tinh thần ấy
của luật lệ, chúng ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm nay. Những người Biệt
phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ
tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy
có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành
người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ
những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
Chúa Giêsu không phải
là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là
tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các
người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người
công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn
Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện
toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên
tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức
là tình mến.
Luật lệ vốn là lời
loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi
chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng
các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân
hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể
loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của
Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm
tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
Nguyện xin Chúa giúp
chúng ta luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta và ban
sức mạnh để chúng ta chu toàn lề luật của Ngài.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 10 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 1
Kgs 18:20-39; Mt 5:17-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết phân biệt
những gì thuộc Thiên Chúa hay thuộc con người.
Sống trong cuộc đời
vàng thau lẫn lộn, sự thật trộn với sự sai lầm, người tín hữu cần Chúa Thánh Thần
để nhận ra sự thật từ biết bao sự sai lầm trong thế gian.
Các bài đọc hôm nay
nêu bật một số nguyên tắc giúp người tín hữu nhận ra sự thật. Trong bài đọc I,
ngôn sứ Elijah bày ra cuộc thi đấu giữa ông và tất cả nhà vua, 450 ngôn sứ của
Baal, và toàn thể nhà Israel. Mục đích của ngôn sứ là để cho tất cả nhận ra đâu
là Thiên Chúa đích thực để thờ phượng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn các môn đệ
phân biệt Luật của Thiên Chúa và luật của con người. Luật của Thiên Chúa thì bất
biến trong khi luật của con người có thể thay đổi và bị hủy diệt.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, các ngươi hãy từ bỏ thần Baal
và thờ phượng Người.
1.1/ Vua chúa và hầu hết
con cái Israel chạy theo thần Baal: Con người
rất dễ quên và hay thay đổi. Dưới thời vua Ahab, nhà vua và hầu hết dân chúng
đã chạy theo thần Baal của người Sidon và Canaan. Họ hầu như quên hẳn những gì
Thiên Chúa đã làm cho tổ tiên của họ. Một số những lý do làm cho con người quay
lưng với sự thật:
(1) Sự thật mất lòng:
Thiên Chúa đòi con người phải đi con đường hẹp, nhưng con người lại thích đường
rộng rãi thênh thang và cuộc sống dễ dãi. Đa số những người vô thần không phải
họ không biết có Thiên Chúa, nhưng họ sợ nếu tin họ phải giữ các giới răn của
Thiên Chúa, hay ít nhất họ sẽ phải cắn rứt lương tâm khi làm điều sai trái; vì
thế, họ từ chối luôn Chúa để dễ dàng phạm tội. Đã không tin Thiên Chúa thì chớ,
nhiều khi họ còn khó chịu khi thấy người khác biểu tỏ niềm tin vì làm cho lương
tâm của họ bị cắn rứt; nên họ nhân danh tự do để đòi chính phủ phải cấm luôn những
biểu lộ này. Thật vô lý khi họ được tự do để sống vô thần nhưng lại bắt các người
khác không được sống hữu thần!
(2) Lý do chính trị:
Vua Israel, sau khi đất nước bị chia đôi, không muốn dân của mình xuống
Jerusalem tham dự các lễ nghi, vì sợ họ nếu cứ xuống đó, sẽ theo vua Judah thì
sẽ mất dân; nên nhà vua đã cho làm hai tượng bò vàng bắt dân thờ: một tượng đặt
ở Bethel giữa biên giới của hai vương quốc Israel và Judah, tượng kia đặt ở Dan
giữa biên giới của Israel với Syria.
(3) Lợi nhuận và hưởng
thụ vật chất: Quỉ thần và thế gian biết chiếc mồi hiệu nghiệm nhất cho con người
là tiền của. Với sức mạnh của đồng tiền cám dỗ, ít người có thể thắng nổi.
(4) Chiều theo ý của
người khác: Nhiều người biết sự thật nhưng không có can đảm để sống theo sự thật.
Vua Ahab chiều theo ý của bà hoàng Jezebel vì sợ phật lòng mỹ nhân. Một số con
cái chiều theo ý của cha mẹ không dám theo đạo hay đi tu vì sợ mang tội bất hiếu.
1.2/ Cuộc thi đấu giữa
ngôn sứ Elijah và 450 ngôn sứ của Baal
(1) Đề nghị của ngôn sứ
Elijah: Để chứng tỏ đâu là Thiên Chúa thật, ngôn sứ Elijah đề nghị cách thức giải
quyết bằng cách mỗi bên lập đền thờ của mình, sát tế bò làm của lễ nhưng không
đốt lửa, rồi kêu cầu với Thiên Chúa của mình. Thần nào cho lửa thiêu xuống đốt
của lễ, đó là thần thật mà mọi người phải thờ phượng. Đây là:
+ Một đề nghị can đảm:
Chỉ một mình ngôn sứ Elijah chống lại vua Ahab, 450 ngôn sứ của Baal, và tất cả
con cái Israel, để làm chứng cho sự thật. Elijah mời gọi tất cả phải xét lại niềm
tin vô lý của họ: “Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu Đức
Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người; còn nếu là Baal thì cứ theo nó!”
+ Một đề nghị rất táo
bạo: nhưng nói lên niềm tin vững mạnh của ngôn sứ Elijah vào Thiên Chúa. Nếu kết
quả không như nguyện ước, ngôn sứ sẽ mất mạng vào tay vua Ahab và các ngôn sứ của
Baal.
+ Một đề nghị rất hữu
hiệu: Chẳng gì hữu hiệu cho bằng mắt thấy tai nghe. Đề nghị này chẳng những
giúp con cái Israel nhận ra uy quyền của Thiên Chúa, mà còn thấy sự vô hiệu của
việc thờ các thần khác.
1.3/ Kết quả cuộc thi đấu
(1) Cố gắng của 450
ngôn sứ của Baal: Họ kêu cầu danh thần Baal từ sáng tới trưa: “Lạy thần Baal,
xin đáp lời chúng tôi!” Nhưng không một tiếng nói, không một ai trả lời, và họ
nhảy khập khiễng bên cạnh bàn thờ họ đã dựng. Theo thói tục của họ, họ dùng
gươm, giáo rạch mình đến chảy máu. Quá trưa rồi mà họ vẫn tiếp tục nói liên
miên cho tới giờ dâng lễ; nhưng vẫn không một tiếng nói, không ai trả lời,
không người để ý. Trả lời sao được khi Baal chỉ là sản phẩm tưởng tượng do con
người làm ra!
(2) Elijah chứng tỏ
quyền năng của Thiên Chúa: Đến giờ dâng lễ, ngôn sứ Elijah tiến ra và nói: “Lạy
Đức Chúa, Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel! Ước chi hôm nay người ta biết
rằng trong Israel Ngài là Thiên Chúa và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài
phán mà con đã làm tất cả các việc này. Xin đáp lời con, lạy Đức Chúa, xin đáp
lời con, để dân này nhận biết Ngài là Đức Chúa, Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến
họ thay lòng đổi dạ.” Bấy giờ lửa của Đức Chúa ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi,
đá và bụi, cả nước trong mương cũng hút cạn luôn. Toàn dân thấy vậy, liền phủ
phục sát đất và nói: “Đức Chúa quả là Thiên Chúa! Đức Chúa quả là Thiên Chúa!”
2/ Phúc Âm: Ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn
trong Nước Trời.
Tất cả Luật và Lời
Thiên Chúa phán ra đều tốt lành và muôn đời không đổi vì phát xuất từ Thiên
Chúa và có khả năng giúp con người sống tốt lành; nhưng vấn đề là ở phía con
người. Chúa Giêsu xác quyết: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Moses
hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.
Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong
Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” Một số những
lý do làm con người hiểu sai Luật của Thiên Chúa:
(1) Không hiểu nguyên
tắc của Lề Luật và phiên dịch Luật theo ý mình: Ví dụ: Luật ngày Sabbath.
Nguyên tắc là để con người nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa; chứ không phải để
tranh luận trong những vấn đề liên quan đến sự sống như: có nên chữa bệnh nhân
trong ngày Sabbath, có nên bứt bông lúa để ăn cho khỏi đói, vì đó thuộc lãnh vực
bảo vệ sự sống.
(2) Tạo thêm nhiều Luật
khác: Những nhà làm luật của Do-thái tạo thêm 615 luật từ những Luật Chúa ban
cho Moses, ấy là chưa kể những luật bất thành văn (truyền khẩu) vì vô tình hay
vì lợi nhuận (định nghĩa thế nào là của lễ thanh sạch). Những luật do con người
làm ra có thể thay đổi hay hủy bỏ.
Khi Chúa tranh luận những
việc liên quan đến Luật, Chúa muốn con người nhận ra đâu là Luật của Thiên Chúa
và đâu là luật của con người. Các kinh sư tranh luận với Chúa muốn đánh lừa mọi
người để kết tội Chúa như người phá bỏ Luật của Thiên Chúa. Ngài cũng muốn cho
họ nhận ra nguyên lý đứng đang sau là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người,
chứ không giữ cách vụ luật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chân lý không bao giờ
lệ thuộc vào số đông người vì số đông có khuynh hướng tương đối hóa chân lý theo
sở thích. “Gió chiều nào che chiều đó” sẽ không bao giờ dẫn con người tới đích
điểm.
– Chúng ta đừng dễ
dàng chạy theo sở thích của đám đông, nhưng phải bảo vệ những gì chân thật và tốt
lành. Chúng ta phải sống làm sao để đạt mục đích cuộc đời chứ không theo những
đòi hỏi của thế gian và xác thịt.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
13/06/2018 – THỨ TƯ TUẦN 10 TN
Th. An-tôn Pa-đô-va, linh mục, tiến sĩ HT
Mt 5,17-19
KIỆN TOÀN
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Mô-sê hoặc lời
các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt
5,37)
Suy niệm: Chúa Giê-su bị các thượng
tế, kinh sư chống đối vì những việc mà họ cho là phá bỏ lề luật Mô-sê, như luật
nghỉ ngày Sa-bát, luật rửa tay trước khi ăn. Ngược lại, Chúa cho biết chính họ
mới là người phá bỏ lề luật của Thiên Chúa bằng cả một rừng luật lệ do họ đề ra
(Mt 15,1-9). Còn Ngài, Ngài đến để kiện toàn luật Mô-sê, làm cho luật ấy đạt tới
ý nghĩa toàn hảo, đồng thời là hiện thực những lời tiên báo trong Cựu Ước về
Ngài. Đây cũng là sứ vụ của Đức Giê-su, Đấng đến từ trời, “không phải để làm
theo ý riêng Ngài, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ngài” (x. Ga 6,38).
Mời Bạn: Đức Giê-su kiện toàn lề luật,
vì thế Ngài trở thành khuôn mẫu cho những ai muốn sống theo ý muốn Thiên Chúa
và trở thành người “lớn” trong Nước Trời. Sống trong thời đại sùng bái chủ
nghĩa cá nhân và tự do, chúng ta dễ bị cám dỗ muốn loại bỏ điều luật này, muốn
thay thế điều luật kia. Chủ nghĩa tự do nơi ta là vật cản làm cho ta khó thi
hành ý muốn của Thiên Chúa. Khi đề cao tự do theo ý riêng mình, ta có nguy cơ
loại bỏ luật Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Trong khi Đức
Giê-su vẫn kêu mời chúng ta tuân giữ luật Chúa do Người kiện toàn. Luật ấy
chính là giáo lý Người dạy, là con đường đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày nhắc nhớ mình
tuân giữ điều răn của Chúa với tinh thần muốn hoàn thiện bản thân.
Cầu nguyện: Lạy Thầy Giê-su,
Ngài là khuôn mẫu cho chúng con khi vâng phục ý Chúa. Xin cho chúng con biết từ
bỏ ý riêng và bước theo Thầy trên con đường thi hành ý Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
Để kiện toàn
(13.6.2018 – Thứ Tư Tuần 10 Thường niên B)
Suy niệm:
Đã có thời người ta nghĩ rằng theo Công Giáo là bất hiếu,
vì phải từ bỏ việc cúng giỗ cha mẹ tổ tiên.
Nếu người chết cũng có nhu cầu ăn uống tiêu dùng như người sống,
thì hiếu thảo đòi phải lo cho người đã khuất được đầy đủ, ấm no.
Nhiều người không dám theo đạo,
vì sợ theo đạo thì không được cúng giỗ tổ tiên, phải bỏ ông bà.
Vào thời thánh Mattheu, một số người Do thái cũng có nỗi sợ tương tự.
Họ tin vào Đức Giêsu và muốn trở thành môn đệ của Ngài,
nhưng họ lại sợ làm thế là bỏ đạo của cha ông, bỏ Do thái giáo.
Họ sợ giáo huấn mới mẻ của Đức Giêsu làm họ bỏ Luật Môsê,
và không còn thuộc về dân Thiên Chúa nữa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định:
“Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.
Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (c. 17).
Luật Môsê thật ra là Luật của Thiên Chúa trao qua trung gian ông Môsê.
Môsê đã làm nhiệm vụ trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy.
Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.
Bây giờ có một Đấng mới xuất hiện, là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Ngài biết rõ ý định của Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Đức Giêsu không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê.
Nhưng Ngài sẽ giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa,
vì chẳng ai biết rõ ý Cha bằng Con.
Trong Bài Giảng trên núi mà ta sắp nghe trong những ngày tới,
ta sẽ thấy Đức Giêsu giải thích lại Luật Môsê như thế nào.
Hành vi đó được gọi là kiện toàn hay hoàn chỉnh.
Một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã được mở ra với Đức Giêsu.
Giai đoạn chung cục này vừa liên tục, vừa vượt quá giai đoạn cũ.
Đức Giêsu mời chúng ta tuân giữ nghiêm túc Luật Thiên Chúa đã ban,
nhưng theo cách giải thích mới mẻ, hoàn chỉnh và có thẩm quyền của Ngài.
Muốn trở nên hoàn thiện, muốn đón nhận Nước Trời do Ngài khai mở,
cần sống Luật đã được Ngài giải thích lại.
Người Kitô hữu gốc Do thái khi theo Đức Giêsu thì chẳng sợ mình bỏ đạo,
bỏ Lề Luật, bỏ các Ngôn sứ hay truyền thống của cha ông
Giáo huấn của Đức Giêsu đã chứa đựng cốt lõi tinh túy của Luật ấy rồi.
Làm thế nào để các Kitô hữu Á Châu cảm thấy đức tin của mình
không tạo ra sự xung đột hay đoạn tuyệt
với những giá trị của nền văn hóa mình đã lãnh nhận và đã sống?
Làm sao để mình sống viên mãn là một Kitô hữu, một người Công Giáo Rôma,
mà vẫn chẳng mất căn tính là người Việt Nam hay người Châu Á?
Chỉ cần một điều kiện, đó là thấy Kitô giáo không phá bỏ, nhưng kiện toàn
tất cả mọi giá trị cao quý có trong các nền văn hóa và tôn giáo khác.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí.
Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG SÁU
Hơn Hết Mọi Loài Thụ
Tạo
Chúng ta vừa nới mô tả
khuôn mặt độc đáo của con người trong tư cách là kẻ có thể hiểu biết và suy lý
để đạt đến sự thật trong tận bản chất mọi sự. Con người có thể tự do chọn lựa
làm điều đúng và tốt. Như vậy, con người được mời gọi nhận định những nhu cầu
đích thực của đồng loại mình và thiết lập công lý. Và, thông thường, con người
được mời gọi đảm nhận đời sống hôn nhân, trong đó người này tự nguyện trao hiến
chính mình cho người kia và xây dựng một cộng đồng hiệp thông nhân vị. Chính mối
hiệp nhất này là nền móng của gia đình và xã hội.
Nhưng tất cả không chỉ
có vậy. con người còn được mời gọi đi vào trong một giao ước với Thiên Chúa. Quả
thật, con người không chỉ là một tạo vật của Đấng Tạo Hóa mà còn là hình ảnh của
Thiên Chúa. Mối quan hệ đặc biệt này giữa Thiên Chúa và con người làm cho việc
thiết lập giao ước trở thành có thể. Chúng ta nhận ra giao ước này trong trình
thuật về cuộc sáng tạo ở ba chương đầu Sách Sáng Thế. Chính sáng kiến đi trước
của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, lập nên giao ước này. Và giao ước này vẫn không
thay đổi xuyên qua lịch sử cứu độ cho đến khi Thiên Chúa thiết lập giao ước
vĩnh cửu với con người trong Đức Giêsu Kitô.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 13/ 6
Thánh Antôn Pađôva,
linh mục tiến sĩ Hội Thánh
1V 18, 20-39; Mt 5,
17-19.
Lời suy niệm: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật
Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện
toàn. Vì Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết
trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.”
Luật Môsê, là Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời đã truyền qua Môsê, theo như
trong Docat ở mục 12 cho chúng ta biết: “Trong Mười Điều Răn, Thiên Chúa ban
cho ta những nguyên tắc vững bền để sống một đời tốt đẹp, chúng ta có thể dựa
vào đó như cẩm nang hướng dẫn – và điều này mang đến một thế giới như Đức Chúa
đã phác họa. Nơi Mười Điều Răn, chúng ta biết các nghĩa vụ của mình, đồng thời
cũng biết các quyền lợi của mình… Mười Điều răn là những quy luật của toàn thể
đời sống trong xã hội.” Với các Tông Đồ khi thấy Chá Giêsu đặt trọng tâm yêu
thương, tha thứ trong mọi lời giảng dạy, cũng như các công việc Người làm, nên
lầm tưởng Người bãi bỏ các Lề Luật của Môsê và lời các ngôn sứ. Chúa Giêsu cho
biết Người đến để kiện toàn Lề Luật và dạy tất cả chúng ta không được bỏ bất cứ
một chi tiết nhỏ nào trong Lề Luật cũng như dạy người khác.
Lạy Chúa Giêsu. Như một vị bác sĩ Albert Schweitzer đã lãnh nhận giải Nôben hòa
bình đã phát biểu: “Tôi luôn luôn thấy làm lạ có đến hơn ba mươi triệu điều luật
trên toàn thế giới để buộc con người thi hành cho đúng chỉ Mười Điều Răn đó.”
Xin cho chúng con ghi sâu Mười Điều Răn trong tâm hồn chúng con, để sống với một
tình yêu rộng mở.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
13-06: Thánh ANTÔN PADUA
Linh mục và tiến sĩ
Hội Thánh (1195 – 1231)
Lòng tôn sùng rộng rãi
và mạnh mẽ đối với thánh Antôn Padua thật lạ lùng so với những sự kiện đời
Ngài. Ngài sinh năm 1195 có lẽ gần Lisbonne, với tên gọi là Fernandô. Cha Ngài
là hiệp sĩ và viên chức tại triều đình hoàng đế Alphongsô thứ II, vua nước Bồ
Đào Nha. Fernadô được gởi đi học trường nhà thờ chánh tòa tại Lisbonne. Nhưng
vào tuổi 15, Ngài gia nhập dòng thánh Augustinô.
Sau hai năm tại nhà
dòng, Ngài xin được chuyển về Coimbra vì bạn bè đến thăm quá đông. Tu viện
Coimbra có một trường dạy Thánh kinh rất danh tiếng. Tám năm trời Fernadô nỗ lực
học hỏi và đã trở thành học giả sâu sắc về thần học và kinh thánh.
1.
Biến cố thay đổi
Ngày kia với nhiệm vụ
tiếp khách, Ngài săn sóc cho 5 tu sĩ Phanxicô đang trên đường tới Morocco. Về
sau họ bị tàn sát dã man và thi hài họ được đưa về Coimbra để tổ chức quốc
táng. Fernadô mong ước hiến đời mình cho cánh đồng truyền giáo xa xăm.
Nôn nóng với ước vọng
mới, Fernadô phải tiến một bước bất thường đầy đau khổ là rời bỏ dòng Augustinô
để nhập dòng Phanxicô. Nhà dòng đặt tên Ngài là Antôn và chấp thuận cho Ngài tới
Moroccô. Nhưng vinh dự tử đạo không được dành riêng cho Ngài. Ngài ngã bệnh và
phải trở về nhà, Trên đường về, con tàu bị bão thổi bạt tới Messina ở Sicyly.
Thế là An tôn nhập đoàn với anh em Phanxicô nước Ý. Có lẽ thánh nhân có mặt
trong cuộc họp ở Assisi. Năm 1221, và gặp thánh Phanxicô ở đây. Ít lâu sau Ngài
được gởi tới viện tế bần ở Forli gần Emilia để làm những công việc hèn hạ.
2.
Biến cố hai.
Dầu vậy một biến cố bất
ngờ khiến người ta khám phá ra khả năng đặc biệt của thánh nhân. Trong một lễ
nghi phong chức ở Forli nhà giảng thuyết đặc biệt vắng mặt. Không ai dám thay
thế. Cha giám tỉnh truyền cho An tôn lên tòa giảng. Antôn làm cho khán giả kinh
ngạc. Người ta thấy ngay trước được rằng: Ngài là một nhà giảng thuyết bậc nhất.
Hậu quả tức thời không Ngài được chỉ định làm nhà giảng thuyết trong cả Italia.
Đây là một thời mà Giáo hội cần đến những nhà giảng thuyết hơn bao giờ hết để
chống lại các lạc thuyết.
Kể từ đó nhà tế bần
Forli không còn gặp lại Antôn nữa. Ngài du hành không ngừng bước từ miền nam nước
Ý tới miên Bắc nước Pháp, hiến trọn thời gian và năng cực cho việc giảng dạy. Sự
đáp ứng của dân chúng đã khích lệ Ngài nhiều, các nhà thờ không đủ chỗ cho người
đến nghe. Người ta phải làm bục cho Ngài đứng ngòai cửa. Nhưng rồi đường phố và
quảng trường đã lại chật hẹp quá và người ta lại phải mang bục ra khỏi thành phố
tới những cánh đồng hay sườn đồi, nơi có thể dung nạp những 20, 30, 40 ngàn người
đến nghe Ngài. Nghe tin Ngài đến đâu, thì nơi đó tiệm buôn đóng cửa, chợ hoãn
phiên họp, tòa ngưng xử án. Suốt đêm dân chúng từ khắp hướng đốt đuốc tụ về. Dường
như bất cứ ai một lần chịu ảnh hưởng của thánh Antôn thì không có gì chống lại
được sự lôi cuốn bởi các bài giảng của Ngài.
3.
Chủ trương.
Ngài thường mạnh mẽ chống
lại sự yếu đuối của hàng tu sĩ qua những tội nổi bật trong xã hội đường thời
như: tính tham lam, nếp sống xa hoa, sự độc đoán của họ. Đây là một giai thoại
điển hình: khi Ngài được mời để giảng ở hội đồng họp tại Bourges, dưới sự chủ tọa
của tổng giám mục Simon de Sully. Với những lời mở đầu “Tibi loquor cornute”
(Tôi xin thưa cùng Ngài đang mang mũ giám mục trên đầu), thánh nhân tố giác vị
giám mục mới Ngài tới, làm mọi thính giả phải kinh ngạc.
Cũng tại Bourges, nên
ghi lại một phép lạ lừng danh về một con lừa thờ lạy bí tích cực trọng. Với một
người Do thái không tin phép Bí tích Mình Thánh.
Thánh nhân nói: – Nếu
con lừa ông cưỡi mà quỳ xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình dưới hình bánh thì ông có
tin không ?
Người Do thái nhận lời
thách thức. Hai ngày ông ta không cho lừa ăn rồi dẫn tới chỗ họp chợ, giữa một
bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua, con vật
quên đói quay sang thờ lạy Chúa.
Mùa chay cuối cùng
thánh Antôn giảng ở Padua. Và người ta còn nhớ mãi về sau nhiệt tình mà thánh
nhân đã khơi dậy. Dân địa phương đã không thể nào tìm ra thức ăn lẫn chỗ ở cho
đoàn người đông đảo kéo tới. Nhưng sau mùa chay này, thánh nhân đã kiệt sức.
Ngài xin các bạn đồng hành đưa về nhà thờ Đức Maria ở Padua để khỏi làm phiền
cho chủ nhà trọ. Không nói được nữa. Ngài dừng chân ở nhà dòng Đức Mẹ người
nghèo ở Arcella.
Tại đây, người ta đặt
Ngài ngồi dậy và giúp Ngài thở. Ngài bắt đầu hát thánh thi Tạ ơn và qua đời giữa
tiếng ca ngày 13 tháng 6 năm 1231.
(daminhvn.net)
13 Tháng Sáu
Hãy Mai Táng Chính Mình
Một vị linh mục nọ
đã có một sáng kiến rất ngộ nghĩnh để đánh động giáo dân trong giáo xứ. Một buổi
sáng Chúa Nhật nọ, dân chúng bỗng nghe một lời rao báo như sau: “Một nhân vật
trong giáo xứ vừa qua đời. Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng thứ Tư tới”. Nghe lời
loan báo ấy, cả giáo xứ nhốn nháo lên. Người nào cũng muốn biết con người quan
trọng ấy là ai.
Ðúng ngày tang lễ,
mọi người trong giáo xứ nườm nượp kéo nhau đến nhà thờ. Từ cung thánh cho đến
cuối nhà thờ, không còn một chỗ trống. Người ta đến không phải để cầu nguyện
cho người quá cố cho bằng để nhìn mặt lần cuối cùng con người mà ai cũng muốn biết.
Sau thánh lễ, vị
linh mục đến mở nắp quan tài để cho mọi người đến chào từ biệt lần cuối cùng
người quá cố. Ai ai cũng sắp hàng để nhìn cho kỳ được người chết. Nhưng ai cũng
đều ngạc nhiên, bởi vì thay cho thi hài của người chết, mỗi người chỉ nhìn thấy
trong quan tài một tấm gương và dĩ nhiên, khi cúi nhìn vào quan tài, mỗi người
chỉ nhìn thấy dung nhan của mình mà thôi.
Chờ cho mọi người
làm xong nghi thức từ biệt ấy, vị linh mục mới giải thích: “Như anh chị em đã
có thể nhận thấy, tôi đã cho đặt vào trong quan tài một tấm kính. Con người mà
anh chị em nhìn thấy trong quan tài không ai khác hơn là chính mỗi người trong
chúng ta. Vâng, đúng thế, thưa anh chị em, mỗi người chúng ta cần phải mai táng
chính mình… Thánh lễ vừa rồi đã được cử hành cho tất cả chúng ta”.
Bắt đầu sứ mệnh công
khai của Ngài bằng cử chỉ dìm mình xuống dòng nước sông Giodan, Chúa Giêsu muốn
loan báo cho mọi người thấy rằng Ngài đã vâng phục Ý Chúa Cha để đi vào Cái Chết
và nhờ đó cứu rỗi nhân loại. Một cách nào đó, mầu nhiệm của Sự Chết và Sống lại
đã được diễn tả qua việc Chúa Giêsu dìm mình trong dòng nước.
Thiết lập Phép Rửa như
cửa ngõ để đưa chúng ta vào cuộc sống trường sinh, Chúa Giêsu cung muốn chúng
ta tham dự vào mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài. Dìm mình trong nước của
Phép Rửa, chúng ta khởi đầu cuộc sống Kitô hữu bằng chính cái chết. Sống đối với
chung ta có nghĩa là chết: chết cho những khuynh hướng xấu, chết cho những đam
mê xấu, chết cho tội lỗi, chết cho ích kỷ, chết cho hận thù. Cuộc sống do đó đối
với chúng ta cũng là một cuộc mai táng liên lỉ. Cũng như hạt lúa rơi xuống đất
phải thối đi, cũng thế chúng ta phải chấp nhận chôn vùi con người cũ tội lỗi của
chúng ta.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét