Trang

Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2015

17-05-2015 : (phần II) LỄ THĂNG THIÊN năm B

17/05/2015
Lễ Thăng Thiên Năm B
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật VI Phục Sinh - năm B
CHÚA NHẬT THỨ 6
MÙA PHỤC SINH NĂM B
Cv 10, 25-26.34-35.44-48
1Ga 4, 7-10
Ga 15, 9-17
LIÊN KẾT TRONG TÌNH YÊU
Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào,
Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.
Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy

(Ga 15, 9)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1: Cv 10, 25-26.34-35.44-48
Trong khoảng thời gian 30 năm sau biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô, Giáo Hội thời Sơ Khai đã có bước tiến triển mạnh mẽ trong Đế Quốc Rôma. Dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần, các tín hữu, nhất là những vị tông đồ xuất chúng như Phêrô, Phaolô, Gioan, Giacôbê, Stêphanô, Barnabas, đã không ngừng làm lan tỏa Tin Mừng về Chúa Kitô Phục Sinh trên toàn Đế Quốc: từ Jerusalem đến tận Rôma. Giáo Hội đã không ngừng vươn lên, từ một định chế của các tín hữu gốc Do-thái trở thành một định chế mang tầm mức “quốc tế” bao hàm đa số các tín hữu gốc dân ngoại.
Sách Tông Đồ Công Vụ minh định: Hội Thánh Chúa không phải là một thực thể chính trị nhằm đe dọa sự tồn vong của Đế Quốc Rôma, nhưng là công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng đang kiến tạo một “vương quốc” thiêng liêng, bao gồm tất cả những ai tin vào danh Đức Giêsu Kitô.
Bài đọc 1 thuộc đơn vị văn chương 9,32 – 12,24, cho chúng ta thấy việc loan báo Tin Mừng Đức Kitô Phục Sinh đã bắt đầu khởi sự nơi dân ngoại. Thánh Phêrô đã nhận được thị kiến từ Thiên Chúa, theo đó Tin Mừng cũng sẽ được loan báo cho cả dân ngoại nữa, chứ không chỉ giới hạn cho người Do-thái. Tại nhà viên đại đội trưởng người Rôma là ông Corneliô, thánh Phêrô đã xác định rõ thánh ý cứu độ phổ quát của Thiên Chúa: “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và sống ngay lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (x. Cv 10, 35). Một khi Chúa Thánh Thần được ban xuống cho cả dân ngoại, thì Phêrô không thấy có lý do gì ngăn cản ngài làm Phép Rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô (x. Cv 10,45-48).
2. Bài đọc 2: 1Ga 4, 7-10
Theo truyền thống, vào những năm cuối đời, thánh Gioan Tông Đồ đã sống tại Êphêxô. Lá thư này có lẽ được viết cho chính Giáo Đoàn tại đây. 1Ga 2,19 cho chúng ta biết có một số kẻ “phản Kitô” đã tách khỏi Giáo Đoàn. Họ đang tìm cách lôi kéo nhiều người theo lạc thuyết của họ. Thánh Gioan đã viết thư này để giúp Giáo Đoàn phân định sự thật khỏi sự dối trá và lầm lạc cả trong giáo thuyết lẫn trong cung cách sống.
Những kẻ phản Kitô này không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (x. 2, 2). Họ cũng không tin Đức Giêsu Kitô là “Đấng đã đến và trở nên người phàm” (4, 2-3). Hơn nữa, những kẻ này nhận mình có khả năng nhận biết và có sự hiệp thông trực tiếp với Thiên Chúa, nên họ không cần đến vai trò trung gian cứu độ của Đức Giêsu Kitô (x. 1, 6; 2, 4). “Chủ nghĩa ưu tuyển thiêng liêng” này xem thường vai trò của luân lý và bác ái yêu thương trong đời sống của người tín hữu. Trái lại, họ thích đề cao vai trò của các thị kiến và mặc khải thiêng liêng nơi con người. 
Bác bỏ quan điểm của những kẻ phản Kitô, trong bài đọc 2 này, thánh Gioan dạy chúng ta ba điều vừa liên hệ đến đề tài Kitô học, cứu độ học, vừa liên hệ đến đời sống thực hành đức tin của người Ki tô hữu. Ba điểm thiết yếu đó là:  
1. Chúng ta hãy yêu thương nhau vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. c7).
2. Kẻ biết yêu thương thì nhận biết Thiên Chúa (x. c7).
3. Đức Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa đã đến trong thế gian, Ngài đã đến làm của lễ đền tội cho chúng ta, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Như thế, Thiên Chúa cho chúng ta thấy Người đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta biết yêu mến Người (x. cc9-10).
3. Bài Tin Mừng: Ga 15,9-17
Các chương 14-16 của Tin Mừng Gioan ghi lại nội dung bốn Diễn Từ Chia Tay của Chúa Giêsu với các môn đệ. Bài Tin Mừng Chúa Nhật VI Mùa Phục Sinh Năm B là phần cuối trong Diễn Từ thứ hai (x. Ga 15, 1-17). Qua Diễn Từ này, Chúa Giêsu mời gọi người môn đệ hãy “ở lại” trong tình thương của Người để họ “sinh được hoa trái”. Chúng ta có thể rút ra một số điểm chính trong bài Tin Mừng hôm nay:
1. Các môn đệ sẽ sinh được hoa thơm trái ngọt nếu họ “ở lại” trong Chúa, nghĩa là, khi họ gắn bó thân tình với Chúa và tín thác vào sự quan phòng yêu thương của Chúa, qua việc thực thi lệnh Chúa truyền. Nhưng tại sao người môn đệ phải “ở lại” trong Chúa mới sinh hoa kết trái như lòng Chúa mong ước? Nối kết với các câu trước đó trong Diễn từ thứ hai này (x. Ga 15, 1-8), câu trả lời là: khi không kết hiệp mật thiết với Chúa, thì họ chẳng khác nào cành nho tách rời khỏi cây nho; mà nếu không gắn liền với cây nho, thì cành nho không tự mình sinh hoa trái được (x. Ga 15, 4).
2. Người môn đệ ở lại trong Chúa cách đích thực khi họ thực thi mệnh lệnh Người truyền cho họ. Lệnh truyền đó chính là: họ hãy yêu thương nhau như chính Chúa đã yêu thương họ (x. c12). Tình yêu của Chúa dành cho các môn đệ chính là mẫu mực cho tình yêu của họ đối với nhau. Người môn đệ được mời gọi vươn tới tầm mức yêu thương cao cả của Đấng [sẽ] hiến mạng sống mình vì đoàn chiên (x. Ga 10, 15). Chính Chúa Giêsu sẽ thực hiện điều Người đang mời gọi các môn đệ thực thi: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì người bạn hữu của mình”. Như thế Người không chỉ truyền cho các môn đệ thực thi lệnh truyền yêu thương, nhưng chính Người còn là mẫu gương yêu thương cho các môn đệ noi theo.
3. Người ở lại trong Chúa có thể phải để mình được “cắt tỉa” như cành nho, để họ có sức sống mạnh mẽ hơn và sinh nhiều hoa trái hơn. Việc “cắt tỉa” này có thể bao hàm việc để Chúa loại đi khỏi họ những thứ “lá-nhánh” không cần thiết trong đời họ, vốn là những thứ chỉ làm tiêu hao tâm trí và sinh lực của họ cách vô ích. Việc cắt tỉa cũng có thể ám chỉ đến việc thanh luyện đức tin-cậy-mến và trọn cả con người họ, khi Chúa để cho họ trải qua nhiều thử thách, khó khăn và trở ngại trong đời hầu giúp họ vươn tới tầm mức của người hoàn toàn thuộc trọn về Chúa, còn Chúa là tất cả của họ theo nghĩa viên mãn nhất. Người môn đệ có lòng yêu mến Chúa, có niềm tin vững chắc, có niềm cậy trông sắt son, sẽ xem những thử thách họ phải đối diện, không loại trừ cả việc bị bách hại và tử vì đạo, như một diễm phúc Chúa dành cho họ để họ trở nên đồng hình đồng dạng với chính Đấng “đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi” (x. Rm 5, 8).
4. “Sinh được hoa trái” bền lâu biểu hiện sức sống và sự thành tựu nơi người môn đệ. Hoa trái mà họ sinh ra có thể được nhìn thấy qua đời sống nhiệt tâm cầu nguyện kết hiệp mật thiết với Chúa, qua việc sống các giá trị và đòi buộc của Tin Mừng, qua việc sống bác ái yêu thương mọi người, và qua việc hăng say loan báo Tin Mừng để từ đó Tin Mừng được lan tỏa ra khắp nơi (x. Cv 2, 42-47; 11, 19-26; 19, 8-10, v.v).
5. Mối tương quan thân tình giữa Chúa Giêsu và người môn đệ được họa theo mối tương quan mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu (x. thêm Ga 13, 20; 15, 18-25; 17, 18; 20, 21). Trong bài Tin Mừng hôm nay, trọng tâm đặt ở sự vâng phục và tình yêu. Vâng nghe lệnh truyền yêu thương của Chúa là mở rộng tình yêu của Chúa đến với mọi người. Việc vâng nghe lệnh truyền yêu thương này sẽ mang lại niềm vui trọn vẹn cho người môn đệ (x. c11).
II. GỢI Ý SUY TƯ PHẢN TỈNH
1. Thánh Phêrô đã minh định thánh ý cứu độ phổ quát của Thiên Chúa dành cho mọi người. Ngài cũng đã làm Phép Rửa cho gia đình viên đại đội trưởng Corneliô, mở ra một trang sử mới cho Giáo Hội, theo đó ngày càng có nhiều “dân ngoại” tin theo Đức Kitô đã được nhận làm con cái Chúa và làm thành viên của Giáo Hội. Ngày hôm nay, tôi phải làm gì để nhiều người khác nhận ra tình yêu Thiên Chúa và tin theo Đức Kitô?
2. Cộng đoàn tín hữu thời thánh Gioan phải đối diện với những vấn đề do những kẻ phản Kitô gây ra cả trong giáo thuyết lẫn thực hành. Thánh Gioan đã viết ra lá thư thứ nhất để phản bác lại những quan điểm và lối sống lầm lạc, đồng thời giúp hướng dẫn đời sống đức tin và luân lý của người tín hữu. Theo bạn, ngày hôm nay, chúng ta đang phải đối diện với những vấn đề phản Tin Mừng nào? Làm sao chúng ta có thể sống trung tín với Thiên Chúa khi phải đối diện với những vấn nạn đó?
3. Theo bạn, trong cuộc sống thường ngày, “ở lại” trong tình thương của Chúa Giêsu Kitô và “sinh được hoa trái” lâu bền nghĩa là gì? Chúng ta cần phải làm gì để có thể “ở lại” trong Chúa và “sinh được hoa trái”?
4. Phụng Vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật Thứ VI Mùa Phục Sinh cho chúng ta nghe lại ba bài đọc này. Theo bạn, ba bài đọc này cho chúng ta hiểu biết điều gì về Đức Kitô Phục Sinh, về tình yêu và về quyền năng biến đổi của Ngài? Làm thế nào chúng ta có thể làm lan tỏa tình yêu và quyền năng biến đổi ấy của Chúa cho mọi người xung quanh?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa rất giàu lòng thương xót đã muốn quy tụ tất cả chúng ta trong tình yêu của Người qua Đức Giêsu Kitô. Với lòng biết ơn và tin tưởng, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Chúa Giêsu nói: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh biết kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, sống bác ái yêu thương như Chúa truyền dạy, để Hội Thánh luôn là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
2. Thiên Chúa là tình yêu, chính Người đã yêu thương chúng ta trước. Xin cho những ai đang khó khăn thiếu thốn hay gặp khủng hoảng trong cuộc sống, luôn cảm nghiệm được tình yêu quan phòng của Thiên Chúa qua sự đồng cảm chia sẻ của những người chung quanh.
3. “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con.” Chúng ta cùng cầu xin cho những người đang dấn thân trong đời sống tu trì, cách riêng các thầy Phó tế sắp tiến chức Linh mục, luôn sống trung tín và can đảm làm chứng cho Tin Mừng phục sinh.
4. “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con.” Xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn ý thức sống theo gương khiêm tốn phục vụ của Chúa, vượt qua kỳ thị hay thành kiến, để góp phần xây dựng một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, xin nhận lời chúng con cầu nguyện, và xin ban Thánh Thần là nguồn mạch bình an, giúp chúng con luôn sống bác ái yêu thương như dấu chỉ của người môn đệ Chúa Kitô. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.


SCĐ LỄ THĂNG THIÊN
Chủ đề :
Chuyển sang một giai đoạn mới
"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ
loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo"
(Mc 16,15)

Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (Cv 1,1-11) : Những lời dạy cuối cùng của Đức Giêsu trước khi thăng thiên.
- Đáp ca (Tv 46) : Chúa lên trời, tiếng hò reo dậy đất ; Chúa lên trời, nhịp kèn sáo trổi cao.
- Tin Mừng (Mc 16,15-20) : Trước khi lên trời, Đức Giêsu sai các môn đệ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng.
- Bài đọc II (Êp 1,17-23) : Thánh Phaolô giải thích ý nghĩa việc Đức Giêsu "lên trời" : "Thiên Chúa đã tôn Đức Kitô lên"

I. Dẫn vào Thánh  lễ
Anh chị em thân mến
Việc Đức Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Đức Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Đức Giêsu đã trao sứ mạng "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần".
Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.

II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Đức Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.
- Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.
- Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I : Cv 1,1-11 : Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
- Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
- Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Đức Giêsu thực hiện lời hứa ấy : Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giêsu.

2. Đáp ca (Tv 46)
Đây là một Tv ca tụng vương quyền của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chiến thắng cái chết, Ngài xứng đáng đón nhận vương quyền. Và vương quyền này đã mở rộng khắp nơi nhờ công tác loan báo Tin Mừng của Giáo Hội.

3. Tin Mừng (Mc 16,15-20)
Những lời cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ :
- Sai các ông đi loan Tin Mừng : "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo".
- Hứa hỗ trợ đặc biệt cho các ông : "Nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu có uống phải chất độc thì cũng không bị hại ; họ đặt tay trên những người bệnh và bệnh nhân sẽ được lành mạnh". Những "dấu lạ" mà Đức Giêsu hứa có thể mang 2 nghĩa : a/ Nghĩa bóng : Chúa giúp các ông chiến thắng thế lực của sự dữ ; b/ Nghĩa đen : các ông sẽ thật sự làm được những phép lạ
Các môn đệ vâng lời Thầy, đi khắp nơi loan Tin Mừng, và những lời Chúa hứa đã thành sự thật : "Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo"

4. Bài đọc II (Êp 4,1-13)
"Thánh tông đồ gợi ý cho chúng ta một cách nhìn về sự kiện Chúa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Rực rỡ vinh quang Thiên Chúa, sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh từ nay sẽ mang những chiều kích vĩnh hằng và vũ trụ, vượt khỏi khuôn khổ không gian và thời gian, nghĩa là bây giờ và mãi mãi Chúa vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta để ban ơn cứu độ cho chúng ta" (CgvDt, số đặc biệt giáng sinh ’93)

IV. Gợi ý giảng

* 1. Quê hương thiên đàng và cuộc hành trình dương thế
Sách Tông đồ công vụ kể rằng khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy ? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.
. Cũng như một lần kia, 3 tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu  biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.
. Còn Thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau "Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe..."
. Ở Lộ Đức năm 1858, một người từ trời xuống là Đức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ "Thưa Ma sơ, Ma sơ đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ ?" Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ "Đẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa".
. Còn ở Fatima năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho 3 em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. 3 em đó cũng đơn sơ hỏi Đức mẹ "Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy ?" Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói "Từ trời xuống". 3 em liền xin "Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi". Đức Mẹ mỉm cười đáp "Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây ; còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó 2 em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết 2 em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.
Đó là một vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Những chứng nhân vừa kể chỉ thoáng thấy một vài tia sáng yếu ớt ấy là đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được hưởng thiên đàng, huống chi khi thực sự hưởng thiên đàng và hưởng trọn vẹn còn hạnh phúc ngất ngây đến chừng nào !
Khi về trời, Đức Giêsu đã hứa rằng Ngài về trời là để dọn chỗ cho chúng ta, thiên đàng hạnh phúc vô biên ấy sẽ là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.
Thế nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn ấy của chúng ta hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ ở trần thế. Tất cả những chứng nhân vừa kể trên, sau một thoáng giây chiêm ngưỡng thiên đàng đều được nhắc nhở phải trở lại với nhiệm vụ trần thế :
. Hai thiên thần đã hiện ra từ đám mây nhắc nhở các môn đệ "Hỡi những người xứ Galilê sao còn mãi mê đứng đó nhìn trời, hãy trở lại Giêrusalem và bắt đầu nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng mà Chúa đã giao phó..."
. Còn 3 ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, sau những giây phút say sưa trên núi Tabôrê, đã được Chúa thức tỉnh dẫn xuống núi để tiếp tục nhiệm vụ.
. Thánh nữ Bernadette, cũng như Nữ Tu Luxia sau khi được thấy Đức Mẹ thì được Đức Mẹ giao nhiệm vụ ở trần gian, Đức Mẹ còn cho biết trước ; chúng con sẽ phải đau khổ nhiều.
Nghĩa là làm sao ? Nghĩa là : Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này.
Trong khi chờ đợi tới ngày hưởng phúc Thiên Đàng, chúng ta vẫn còn phải tiếp tục sống ở trần gian này. Mà trần gian thì vẫn còn biết bao đau khổ : Khổ về vật chất như nghèo đói, bệnh tật ; khổ về tinh thần như ganh ghét hận thù đố kỵ nhau. Mà nguồn gốc của tất cả những khổ sở vật chất và tinh thần ấy là vì người ta còn tội lỗi, người ta còn chưa thực hành theo những Lời Chúa dạy. Chuẩn bị đi về quê trời là hết sức cố gắng góp phần xoá đi bớt những đau khổ đó ở trần gian như : chia sớt cho những người túng thiếu, chăm sóc những kẻ bệnh tật, ủi an những người đau khổ, hoà giải những kẻ bất thuận với nhau, giúp cho người ta tránh bớt tội lỗi, làm cho người ta biết Chúa và thực hành những Lời Chúa dạy.
"Hỡi những người xứ Galilê, sao còn cứ đứng đó mãi nhìn trời..." Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông làm những việc vừa kể trên. Những việc đó chính là nội dung của việc rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Người về trời "Chúng con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho nhân loại".
Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã để ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không thụ động mãi mê chiêm ngắm hạnh phúc tương lai ấy. "Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng mãi nhìn trời..." Chúa nhắc chúng ta hãy quay về với bổn phận của chúng ta trong cuộc hành trình nơi dương thế : Làm cho cuộc đời này bớt đau khổ hơn, giúp cho người đời biết thương nhau hơn, và góp phần cho cuộc sống này tươi đẹp hơn. Đó chính là bổn phận hiện tại của chúng ta trong khi chờ đến ngày ta được về quê trời hưởng hạnh phúc vô cùng với Chúa.

* 2. "Củng cố lời giảng bằng những dấu lạ kèm theo"
Việc loan Tin Mừng sẽ có sức thuyết phục hơn nếu có những dấu lạ kèm theo. Những dấu lạ này không hẳn là các phép lạ lớn lao, mà còn là cách sống có sức thu hút của chúng ta.

Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói :
- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi :
- Món quà quí giá của ngươi đâu ?
Người này điềm tĩnh trả lời :
- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói :
- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất : Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
*
Đó cũng là viễn tượng Đức Giêsu mời gọi chúng ta đem lại cho thế giới qua bài Tin mừng hôm nay : "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật" (Mc.16,15)
Chúa về trời là về với Chúa Cha – Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình, mà đích đến nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa xôi nhưng chi phối những bước chân gần gũi. Những bước chân đi đến với anh em, những bước chân đi vào lòng thế giới, những bước chân đi loan báo Tin mừng.
- Tin mừng chính là Thiên Chúa yêu thương con người.
- Tin mừng chính là ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.
- Tin mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với những dấu lạ kèm theo.
Vậy người tín hữu Kitô không chỉ ngước mắt nhìn trời, nhưng hăng say đi loan báo Tin mừng, vì trái đất còn mênh mông những đồng lúa chín vàng.
Chúa về trời, nên Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến với người cùng khổ.
Chúa về trời nhưng người vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi người tín hữu.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời những con người biết sống tận tình cho tha nhân.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn canh cánh bên lòng một ước mơ : "Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đấy với con" (Ga.17,24).
Đã ước mơ thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình mơ ước. Nếu Chúa đã ước mơ ở cùng chúng ta trên trời thì bao lâu chúng ta chưa về trời với Chúa, là bấy lâu trong lòng Chúa còn hình bóng chúng ta.
Đã ước mơ bao giờ cũng mong đạt được điều mơ ước. Nếu Chúa đã mong chúng ta có mặt nơi Chúa ngự, thì không lẽ gì chúng ta không hiện diện ở đó.
*
Lạy Chúa, con đường lên trời là con đường hẹp, con đường về trời là con đường yêu thương. Xin cho tất cả mọi nẻo đường chúng con đi, đều dẫn chúng con về quê trời. Ước gì qua cuộc sống chúng con, người ta nhận ra Nước Trời đang tỏ hiện. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

* 4. Những cách giảng đạo
Ngày xưa, một đạo sĩ gọi 6 người đệ tử của mình lại và bảo họ hãy đi khắp nơi chiêu mộ môn đệ. Một thời gian sau, tất cả đều trở về.
- Người thứ nhất trở về với 500 môn đệ. Khi được hỏi bằng cách nào anh chiêu mộ được số môn đệ đông như thế, anh trả lời : "Con rảo khắp mọi nơi nghèo nàn và hứa sẽ chu cấp mọi nhu cầu cần thiết cho ai theo đạo của chúng ta"
- Người thứ hai đem về 400 môn đệ. Anh nói : "Con hứa ai theo đạo thì sẽ được phúc thiên đàng".
- Người thứ ba đem về 300 môn đệ. Anh nói : "Con đe dọa rằng nếu ai không theo đạo thì sẽ bị phạt trong hỏa ngục. Thế nhưng người ta không tin lắm. Cho đến một hôm con đã nguyền rủa một con chó điên khiến nó chết liền tại chỗ. Thấy thế những người này đã theo con".
- Người thứ tư đem về 200 môn đệ. Anh nói : "Con tìm đến những người đơn sơ ít học và dùng nhiều lý luận khiến họ say mê và đi theo".
- Người thứ năm đem về 100 môn đệ. Anh nói : "Đây là những người trẻ. Họ đang chờ một người lãnh đạo họ. Con đã thuyết phục họ đi theo con và họ đã theo. Con nghĩ rằng nếu mình không chiêu mộ họ thì cũng có những messia giả đến chiêu dụ họ mà thôi".
- Người thứ sáu chỉ đem về 12 môn đệ. Anh giải thích : "Con không thể gieo những hạt giống ngay mà phải chờ, vì đang là mùa đông, phải đợi đến lúc tuyết tan thì đất mới mềm và gieo mới được. Thế là con chờ. Đang lúc chờ như thế, con kết bạn với một số người. Con cố gắng sống cho họ thấy cách sống của đạo chúng ta. Và con cũng chia xẻ cuộc sống của họ. Đang khi chia xẻ cuộc sống như thế, con khám phá rằng họ rất coi trọng tự do đến nỗi nếu tước mất tự do của họ thì cũng là tước đi phẩm giá của họ. Con cũng học được nơi họ những điều tốt, chẳng hạn họ rất quảng đại và không sợ hy sinh. Con thành thật nói cho họ biết cái giá phải trả nếu muốn theo đạo chúng ta, nhưng con nhấn mạnh rằng nếu họ theo đạo chúng ta thì họ có thể làm được nhiều điếu tốt cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Xem ra những điều con nói đã làm họ cảm động. Tuy nhiên khi đến lúc phải quyết định thì chỉ có 12 người này chịu theo con".
Vị đạo sĩ khen người thứ sáu này.
Năm người trước đã giảng đạo bằng cách khai thác sự yếu đuối và sợ hãi của người ta. Những cách đó thật quá dễ, nhưng lại xâm phạm đến tự do nên người ta có theo đạo cũng vì miễn cưỡng. Còn người thứ sáu thì biết kêu gọi thiện chí bằng cách kết bạn với người ta và thuyết phục họ bằng chính gương sống của mình. Cách này tuy chậm và khó nhưng kết quả sẽ vững chắc và lâu bền. (Viết theo Flor McCarthy)

* 5. Chúng ta là dụng cụ Chúa dùng
"Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc", đó là mệnh lệnh của Chúa khi Ngài từ biệt chúng ta.
Bây giờ Ngài không còn có ai trên thế gian ngoài chúng ta.
Ngài không còn tay để nâng người sa ngã ngoài tay của chúng ta.
Ngài không còn chân để đi tìm kẻ hư mất ngoài chân của chúng ta.
Ngài không còn mắt để nhìn những giọt lệ khổ đau âm thầm ngoài mắt của chúng ta.
Ngài không còn lưỡi để an ủi kẻ buồn sầu ngoài lưỡi của chúng ta.
Ngài không còn trái tim để yêu thương những người không được yêu thương ngoài trái tim của chúng ta.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con là những môn đệ nhút nhát và sợ sệt của Chúa. Xin ban cho chúng con lòng can đảm để làm chứng cho Chúa giữa thế gian, hầu Tin Mừng được rao giảng và người ta tìm được đường vào Nước của Chúa. (Flor McCarthy)

* 6. Loan Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo
Trong bài Tin Mừng này, có một câu mà nếu đọc kỹ từng lời thì ý nghĩa rất lạ. Đức Giêsu bảo "Hãy loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo".
- "Thọ tạo" nghĩa là được Thiên Chúa tạo dựng nên. Mọi loài thọ tạo là tất cả những gì đã được Thiên Chúa tạo dựng nên. Không phải chỉ là loài người, mà còn là loài động vật, loài thực vật, đất đai, sông núi, bầu trời, tinh tú… Tóm lại là tất cả.
- Trong tất cả mọi loài đó, chỉ có loài người là vừa nghe vừa hiểu vừa cảm được. Cho nên loan báo Tin Mừng cho loài người thì có thể. Còn loan báo Tin Mừng cho những loài khác, thì làm sao mà làm được ? Tôi nghĩ ra rằng tuy những loài ấy không thể đón nhận Tin Mừng theo cách của loài người đón nhận, nhưng chúng cũng có thể hưởng nhờ lợi ích của những giá trị Tin Mừng. Chính vì thế mà có những lời hô hào làm đẹp thiên nhiên, bảo vệ sinh vật, giữ sạch bầu khí quyển v.v.
- Rốt cuộc, loan báo Tin Mừng mang một chiều kích rất bao la. Loan báo Tin Mừng là sống vui bằng niềm tin của mình giữa mọi người khác, giữa thiên nhiên và giữa vũ trụ ; đồng thời làm cho tất cả chung quanh mình đều tốt đẹp, vui tươi.

V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, mầu nhiệm Đức Giêsu về trời được tôn vinh bên Chúa Cha, luôn luôn là điều khích lệ và nâng đỡ cho mọi Kitô hữu còn đang tại thế. Chúng ta cùng nhau dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây :

1. Chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người Kitô hữu / biết luôn làm vinh danh Đức Giêsu Phục sinh / trong khi thì hành những trách nhiệm trần thế nơi gia đình và xã hội.
2. Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều người trên thế giới / đang mất dần ý thức về Thiên Chúa hoặc cố tình dửng dưng với Thiên Chúa / được nhận biết Thiên Chúa là Cha và là nguồn hạnh phúc của họ.
3. Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều anh chị em chung quan chúng ta / đang gặp nhiều khó khăn thử thách trong việc xây dựng đời sống cá nhân, gia đình và xã hội / được luôn kiên trì và hy vọng rằng / Đức Giêsu Phục sinh và lên trời là bảo đảm cho hạnh phúc thật của họ.
4. Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều anh chị em chung quanh chúng ta / đang gặp nhiều khó khăn thử thách trong việc xây dựng đời sống cá nhân, gia đình và xã hội / được luôn kiên trì và hy vọng rằng / Đức Giêsu Phục sinh và lên trời là bảo đảm cho hạnh phúc thật của họ.
5. Chúng ta cầu xin Chúa cho cộng đồng xứ đạo chúng ta đã tin Đức Giêsu Phục sinh về trời / thì cũng luôn sống theo niềm tin đó / để cũng được sống lại và lên trời như Chúa.

Chủ tế  : Lạy Chúa là Cha toàn năng, Chúa đã cho Đức Giêsu Kitô phục sinh và về trời, xin giúp chúng con biết sống theo lối sống của Người, để mai sau cũng được hưởng vinh quang với Người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

VI. Trong Thánh lễ
- Kinh Tiền Tụng riêng cho lễ Thăng Thiên
- Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
- Trước lúc rước lễ : Chúng ta sắp rước Đức Giêsu vào lòng. Hãy xin Ngài thêm sức giúp chúng ta chu toàn sứ mạng Ngài trối lại cho chúng ta tiếp nối. "Đây Chiên Thiên Chúa…"

VII. Giải tán
Hôm nay Đức Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa : "Anh em hãy đi đến với muôn dân…", "Anh em hãy làm chứng cho Thầy". Chúc anh chị em bình an.

Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Lễ Thăng Thiên (B)
Chúa Nhật, 17 Tháng 5, 2015
“Đi khắp thế gian; rao giảng Tin Mừng!”
Chúa sống ở giữa chúng ta!   
Mc 16:15-20


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của mình.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đọc 

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Phần Phụng vụ ngày lễ Thăng Thiên giới thiệu chúng ta cảnh nơi Chúa Giêsu xuất hiện với các môn đệ và trao cho các ông sứ vụ đi khắp thế gian để rao giảng Tin Mừng.  Văn bản của Phúc Âm Máccô (Mc 16:9-20) là đoạn cuối của phần phụ lục của sách Tin Mừng (Mc 16:15-20).  Chúng ta khai triển phần bình giải ngắn gọn để bao gồm toàn bộ phần phụ lục.  Trong khi đọc, chúng ta cần phải chú ý đến điểm sau đây:  “Chúa Giêsu hiện ra với ai, các khía cạnh khác nhau của sứ vụ là gì và những dấu chỉ sự hiện diện của Chúa trong cộng đoàn là gì?       
b)  Phân đoạn để trợ giúp cho bài đọc:
Mc 16:9–11:  Chúa Giêsu hiện ra với bà Maria Mađalêna.
Mc 16:12–13:  Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ.
Mc 16:14–18:  Chúa Giêsu hiện ra với nhóm mười một môn đệ và ban cho các ông một sứ vụ.
Mc 16:19–20: Chúa Giêsu lên trời trước sự chứng kiến của các môn đệ.   

c)  Phúc Âm:
9 Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mađalêna, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. 10 Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. 11Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin.
12 Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. 13 Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.
14 Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa.  Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy.  Và Chúa Giêsu phán với các ông: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật. 16 Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. 17 Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, 18 cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".
19 Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo.  Amen.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

a)  Điều gì trong đoạn Tin Mừng đã làm bạn hài lòng nhất hay là tạo sự chú ý của bạn nhất?  Tại sao?
b)  Chúa Giêsu chứng tỏ cho ai thấy là Người đang sống và họ đã phản ứng ra sao?           
c)  Trong văn bản này, ai là người có khó khăn lớn nhất trong việc tin vào sự sống lại?
d)  Như thánh Phaolô nói:  “Thiên Chúa đã đem chúng ta cùng sống lại với Chúa Kitô… và cho chúng ta một nơi với Người trên trời” (Êp 2:6).  Điều khẳng định này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa Chúa Lên Trời như thế nào?
e)  Các dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa cộng đoàn là gì?  Ý nghĩa của từng dấu hiệu là gì?
f)  Ngày nay, đâu là những dấu hiệu tốt nhất để thuyết phục người ta về sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta?

5.  Chìa khóa dẫn đến bài đọc

Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề.

i)  Bối cảnh:

Phần phụ lục của Tin Mừng Máccô cung cấp một bản danh sách các cuộc hiện ra của Chúa Giêsu (Mc 16:9-12).  Có những danh sách khác nhưng chúng không luôn luôn trùng hợp.  Danh sách mà thánh Phaolô đưa ra trong thư gửi tín hữu Côrintô thì thật là khá khác nhau (1Cr 15:3-8).  Những khác biệt này cho thấy rằng vào lúc ban đầu, các Kitô hữu không phải lo ngại về việc mô tả hay chứng minh về sự sống lại.  Đối với họ, niềm tin vào sự phục sinh rất là sinh động và rõ ràng, không cần phải chứng minh điều đó.  Còn các cộng đoàn, sống và kiên trì trong rất nhiều thử thách và sự bách hại từ đế chế La Mã, là bằng chứng sống về sự thật của sự phục sinh.        

ii)  Lời bình giải về đoạn Tin Mừng:

a)  Mc 16:9-11:  Chúa Giêsu hiện ra với bà Maria Mađalêna, nhưng các môn đệ không tin bà. 
Chúa Giêsu hiện ra đầu tiên với bà Maria Mađalêna và bà loan báo điều này với các môn đệ.  Để nhập thể vào thế gian, ước muốn của Thiên Chúa phụ thuộc vào tiếng xin vâng của Đức Maria thành Nagiarét (Lc 1:38).  Để được công nhận như Đấng Hằng Sống ở giữa chúng ta, ý muốn của Người phụ thuộc vào lời của bà Maria Mađalêna là kẻ đã được Chúa trừ cho khỏi bảy quỷ ám.
Thánh Máccô nói rằng Chúa Giêsu xuất hiện lần đầu tiên với bà Maria Mađalêna. Về điều này, ông đồng ý với ba Thánh Sử kia (xem Mt 28:9-10; Ga 20:16; Lc 24:9-11).  Nhưng trên danh sách những lần hiện ra trong Thư gửi tín hữu Côrintô (1Cr 15:3-8), không có lời nào đề cập đến bất kỳ sự xuất hiện nào với những người phụ nữ.  Các Kitô hữu tiên khởi đã thấy khó mà tin được lời chứng của những người phụ nữ.

b)  Mc 16:12-13:  Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ.  
Câu chuyện của Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ khi họ đang trên đường đi về miền quê có thể là một ám chỉ đến việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ từ Emmau là những người khi trở về, chia sẻ kinh nghiệm của họ về sự sống lại với “Nhóm Mười Một và các bạn hữu của họ” (Lc 24:33-34).  Chỉ có ở đây, Máccô khác với Luca bởi vì những người khác không tin vào lời chứng của hai môn đệ này. 

c)  Mc 16:14:  Chúa Giêsu quở trách Nhóm Mười Một vì họ cứng lòng tin.
Cuối cùng Chúa Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Một môn đệ đang khi các ông dùng bữa và khiển trách các ông bởi vì các ông đã không tin những người đã trông thấy Chúa sống lại.  Đây là lần thứ ba, Máccô nhắc đến sự cứng lòng của các môn đệ không tin vào lời chứng của những người đã được gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh. Tại sao Máccô lại nhấn mạnh quá nhiều đến việc ngờ vực của các môn đệ?  Có lẽ là để giảng dạy cho hai điều.  Thứ nhất, đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh được truyền đạt qua lòng tin của những người làm chứng.  Thứ hai, người ta không cần phải từ bỏ niềm hy vọng khi mà lòng nghi ngờ hoặc bối rối dấy lên trong tim người ấy.  Ngay cả Nhóm Mười Một cũng đã có những hoài nghi!    


d)  Mc 16:15-18:  Những phép lạ đi chung với việc loan báo Tin Mừng.   
Chúa Giêsu lập tức trao sứ vụ đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.  Điều kiện cho bất cứ ai muốn được cứu rỗi là:  tin tưởng và chịu phép rửa.  Đối với những ai có can đảm tin vào Tin Mừng và chịu phép rửa, Chúa hứa hẹn những phép lạ sau đây:  (1) họ sẽ trừ quỷ, (2) họ sẽ nói được các tiếng lạ, (3) họ sẽ cầm rắn trong tay, (4) nếu họ uống phải chất độc, thì cũng không bị hề hấn gì, (5) họ sẽ đặt tay trên những người bệnh và bệnh nhân sẽ được lành mạnh.  Những phép lạ này vẫn còn xảy ra ngay cả ngày nay.    

*  Trừ quỷ:  là để chiến đấu chống lại quyền lực của sự dữ bóp nghẹt sự sống.  Đời sống của nhiều người đã được cải thiện kể từ khi họ gia nhập vào cộng đoàn và đã bắt đầu cuộc sống Tin Mừng về sự hiện diện của Thiên Chúa.  Bằng cách tham gia vào đời sống cộng đoàn, họ xua trừ ma quỷ khỏi cuộc đời họ.
*  Nói được các thứ tiếng lạ:  là bắt đầu thông tri với những người khác theo một phương cách mới.  Thỉnh thoảng chúng ta gặp một người nào đó mà chúng ta chưa hề gặp bao giờ, nhưng lại dường như chúng ta đã quen biết nhau từ lâu rồi.  Điều này bởi vì chúng ta nói cùng một ngôn ngữ của tình yêu thương.
*  Cầm rắn trong tay và khắc phục chất độc:  có rất nhiều thứ mà chất độc sống cùng.  Rất nhiều những chuyện ngôi lê đôi mách đã phá vỡ những mối quan hệ. Những người sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa có thể khắc phục được điều này và không bị ảnh hưởng bởi chất độc chết người ấy. 
*  Chữa lành người bệnh:  bất cứ nơi nào chúng ta có một nhận thức rõ ràng về sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ tìm thấy sự săn sóc ân cần cho những kẻ bị loại trừ và bị thiệt thòi, đặc biệt là các bệnh nhân.  Điều khiến cho sức khỏe phục hồi hữu hiệu nhất là sự chào đón và ân cần chăm sóc.  ‘

e)  Mc 16:19-20:  Qua cộng đoàn, Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ của mình.
Ở miền Palestine, Đức Giêsu đã đón tiếp người nghèo khó và mặc khải cho họ về tình yêu của Chúa Cha, cũng giống như Chúa Giêsu bây giờ tiếp tục hiện diện ở giữa chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta.  Qua chúng ta, Chúa tiếp tục sứ vụ của mình về mặc khải Tin Mừng của tình yêu Thiên Chúa cho người nghèo khó.  Cho đến ngày nay, sự sống lại vẫn xảy ra.  Không một quyền lực trần thế nào có thể vô hiệu hóa được sức mạnh đến từ niềm tin vào sự sống lại (Rm 8:35-38).  Một cộng đoàn muốn chứng kiến sự sống lại phải là một dấu hiệu của sự sống, phải chiến đấu chống lại quyền lực của sự chết.  Để cho thế gian có thể trở thành một nơi của sự sống, cộng đoàn phải tin rằng có đời sau.  Hơn hết cả, nơi mà sự sống người ta đang gặp nguy hiểm bởi vì một hệ thống của sự chết đang áp trị, cộng đoàn phải là một bằng chứng sống động của sự hy vọng để chinh phục thế gian, mà không sợ bất hạnh!  

iii)  Những điều biết thêm về Tin Mừng Máccô – những bất ngờ của Thiên Chúa:

Ngay từ khởi đầu, Tin Mừng Máccô đã khẳng định:  “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.  Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15).  Lời yêu cầu ban đầu này về việc hoán cải và đức tin, cho thấy nó là cánh cửa mà qua đó chúng ta có thể gặp gỡ Đức Giêsu và Tin Mừng của Thiên Chúa mà Người đem đến.  Không có con đường nào khác.  Đức tin đòi hỏi niềm tín thác vào Chúa Giêsu, vào Lời của Người, chấp nhận Người vô điều kiện.  Chúng ta được mời gọi không nên tự khép kín trong bất kỳ một danh xưng hay tước hiệu nào, bất cứ học thuyết hay phong tục nào, và giữ cho mình luôn sẵn sàng cho những sự bất ngờ của Thiên Chúa, điều này đòi hỏi một sự thay đổi liên tục.  Các danh xưng và tước hiệu, những học thuyết và phong tục, những tôn sùng và cầu xin thì giống như một tấm thẻ mà chúng ta đeo trước ngực để nhận dạng.  Thẻ này quan trọng bởi vì nó giúp chúng ta và hướng dẫn chúng ta khi cần thiết để gặp được người chúng đang tìm kiếm.  Nhưng khi đã gặp rồi, thì chúng ta không nhìn vào thẻ nữa, mà nhìn vào mặt!  Rất thường, khi chúng ta gặp được người chúng ta tìm kiếm, người ấy lại khác hẳn so với những gì chúng ta tưởng tượng từ trước.  Cuộc gặp gỡ luôn luôn mang lại những bất ngờ!  Cuộc gặp gỡ của chúng ta với Thiên Chúa trong Đức Giêsu còn nhiều bất ngờ hơn nữa.  Trong suốt quyển Tin Mừng của Máccô, có nhiều điều bất ngờ cho các môn đệ và những điều này xảy ở nơi mà các ông không mong đợi nhất:    
*  Từ một người ngoại giáo cho Phêrô một bài học bởi vì ông ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong người đang bị đóng đinh (Mc 15:39);
*  Từ người góa phụ nghèo đã dâng cúng tất cả những gì bà có để chia sẻ với những người khác (Mc 12:43-44);
*  Từ một người mù đã làm phiền các môn đệ bằng cách kêu lên và thậm chí không có một tín ngưỡng nhất định (Mc 10:46-52);
*  Từ những kẻ thiệt thòi thấp kém, nhưng là những người tin vào Đức Giêsu (Mc 9:42);
*  Từ những người dùng danh thánh Chúa Giêsu trừ quỷ nhưng không thuộc về “Giáo Hội” (Mc 9:38-40);
*  Từ một người phụ nữ vô danh làm chướng tai gai mắt các môn đệ vì phong cách hành động của cô ta (Mc 14:3-9);
*  Từ một người cha trong gia đình đã phải vác phụ cây thập giá và trở thành người môn đệ mẫu mực (Mc 15:21);
*  Từ ông Giuse xứ Arimathê là người bất chấp mọi nguy hiểm mà xin xác Chúa Giêsu đem đi mai táng (Mc 15;43);
*  Từ những người phụ nữ, vào thời ấy không thể được xem là những chứng nhân chính thức nhưng đã được chọn bởi Chúa Giêsu như những nhân chứng thành thạo về sự phục sinh của Người (Mc 15:40,47; 16:6,9-10).

Nói tóm lại:  Mười hai môn đệ, những người được Chúa Giêsu gọi cách đặc biệt (Mc 3:13-19) và được Chúa sai đi trong một sứ vụ (Mc 6:7-13), đã thất bại.  Phêrô chối Chúa (Mc 14:66-72), Giuđa phản bội Thầy (Mc 14:44-45) và tất cả đã trốn chạy (Mc 14:50).  Nhưng chính thông qua những lỗi phạm của các ông để cho thấy sức mạnh đức tin của những người khác là những kẻ không thuộc về nhóm mười hai đã được chọn.  Cộng đoàn, Giáo Hội, phải nhận thức rõ ràng rằng họ không sở hữu Chúa Giêsu cũng như họ không sở hữu tất cả các tiêu chuẩn hành động của Thiên Chúa ở giữa chúng ta.  Chúa Giêsu không thuộc về chúng ta, nhưng chúng ta, cộng đoàn, Giáo Hội, thuộc về Chúa Giêsu, và Đức Giêsu là Thiên Chúa (1Cr 3:23).  Điều ngạc nhiên lớn nhất hơn hết là sự sống lại!

6.  Thánh Vịnh 27 (26)                                                                                                   
Lòng can đảm sinh ra đức tin
CHÚA là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn sợ người nào?
CHÚA là thành lũy bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa?

Khi ác nhân xông vào, định nuốt sống thân tôi,
ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy,
lại lảo đảo té nhào.

Dù cả một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì.
Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.
Một điều tôi kiếm tôi xin,
là luôn được ở trong đền CHÚA tôi
mọi ngày trong suốt cuộc đời,
để chiêm ngưỡng CHÚA tuyệt vời cao sang,
ngắm xem thánh điện huy hoàng.

Ngày tôi gặp tai ương hoạn nạn,
Người che chở tôi trong lều thánh,
đem giấu tôi thật kín trong nhà,
đặt an toàn trên tảng đá cao.

Nên giờ đây tôi ngẩng đầu đắc ý,
nhìn quân thù vây bủa chung quanh.
Tôi sẽ dâng lễ tế trong thánh điện,
lễ tạ ơn, nhã nhạc vang lừng,
tôi sẽ đàn ca mừng kính CHÚA.

Lạy CHÚA, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu,
xin thương tình đáp lại.
Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan.
Lạy CHÚA, con tìm thánh nhan Ngài,

Xin Ngài đừng ẩn mặt.
Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy,
chính Ngài là Đấng phù trợ con.
Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi,
lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con.
Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa,
thì hãy còn có CHÚA đón nhận con.

Xin dạy con đường nẻo Ngài, lạy CHÚA,
dẫn con đi trên lối phẳng phiu,
vì có những người đang rình rập.
Xin đừng phó mặc con cho kẻ thù hung hãn,
vì lũ chứng gian đứng dậy tố con,
giương bộ mặt hằm hằm sát khí.

Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc CHÚA ban trong cõi đất dành cho kẻ sống!
Hãy cậy trông vào CHÚA, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
Hãy cậy trông vào CHÚA.

7.  Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét