08/03/2016
Thứ ba tuần 4 Mùa Chay
Bài Ðọc
I: Ed 47, 1-9. 12
"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra,
và nước ấy chảy đến ai, thì tất cả đều được cứu rỗi".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà
Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng
về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên
thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng
đông, và đây nước chảy từ bên phải. Khi đó có người đàn ông đi ra về hướng
đông, tay cầm sợi dây, ông đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước tới
mắt cá chân. Ông đo một ngàn thước tay nữa và dẫn tôi đi qua dưới nước đến đầu
gối. Ông còn đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước đến ngang lưng.
Ông lại đo thêm một ngàn thước tay nữa, và đây là suối nước, tôi không thể đi
qua được, vì nước suối dâng lên cao quá, phải lội mới đi qua được, nên người ta
không thể đi qua được. Người ấy nói với tôi: "Hỡi người, hẳn ngươi đã xem
thấy". Rồi ông dẫn tôi đi, rồi dẫn trở lại trên bờ suối. Khi trở lại, tôi
thấy hai bên suối có nhiều cây cối. Người ấy lại nói với tôi: "Nước này chảy
về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển,
biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động,
nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này
chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà
suối nước chảy đến.
Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn
trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết;
mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó
dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9
Ðáp: Chúa
thiên binh hằng ở cùng ta, và ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ (c. 8).
Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của
chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không
sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.
2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm
hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển
rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.
3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa
Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực
hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Ðáp.
Câu Xướng
Trước Phúc Âm: Tv 50, 12a và 14a
Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin
ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.
Phúc
Âm: Ga 5, 1-3a. 5-16
"Tức khắc người ấy được lành bệnh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên
Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng
Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này,
có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số
đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy người ấy
nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh
không?" Người đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi
khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi". Chúa
Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về". Tức khắc người ấy được
lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người
Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh
không được phép vác chõng". Anh ta trả lời: "Chính người chữa tôi
lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi: "Ai là người đã bảo
anh "Vác chõng mà đi?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là
ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người
nói: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn
trước". Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã
chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người
đã làm như thế trong ngày Sabbat.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Chữa Kẻ Bất Toại
Ngày nay, không ai lại không biết đến Mẹ Têrêsa
Calcutta, Ðấng sáng lập dòng "Các Nữ Tu Truyền Giáo", chuyên lo việc
tông đồ bằng việc phục vụ các bệnh nhân như bệnh cùi, ốm đau, cùng khổ, đặc biệt
là những người đang hấp hối nằm la liệt trên các hè phố.
Trước đây, có lần một vị sư Phật Giáo nói với Mẹ:
"Tôi biết và yêu mến Ðức Kitô lắm, nhưng tôi ghét Giáo Hội của Ngài. Nếu
các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ trở nên một nơi hội ngộ để chúng
tôi có thể gặp gỡ Hội thánh của Ðức Kitô".
Sau một năm có dịp làm việc với Mẹ, vị sư Phật Giáo
đó phát biểu như sau: "Tôi đã quan sát các chị, bây giờ tôi thực sự tin rằng:
các chị làm việc chỉ cốt để giúp người nghèo khổ, xấu số nhất. Chúng tôi sẽ
dâng cho các chị một ngôi nhà trong khuôn viên chùa của chúng tôi để các chị
làm bệnh xá miễn phí".
Nhờ các hoạt động từ thiện bác ái, Mẹ Têrêsa
Calcutta đã nhận được nhiều giải thưởng của chính phủ Ấn Ðộ cũng như của nhiều
chính phủ và tổ chức quốc tế khác. Trong đó có giải Nobel Hòa Bình năm 1979.
Tuy nhiên, giải thưởng làm Mẹ Têrêsa Calcutta thích thú nhất và hãnh diện nhất
chính là đưa nhiều người về với Thiên Chúa, về với Giáo Hội Công Giáo và làm
cho nhiều nhìn nhận và yêu mến Chúa Kitô hơn.
Anh chị em thân mến!
Là những người đồ đệ của Ðức Kitô, mỗi người chúng
ta khi dấn thân vào công cuộc phát triển từ thiện xã hội, chúng ta không nên chỉ
dừng lại ở chiều kích vật chất phàm trần mà thôi, nhưng phải cố gắng như Mẹ
Têrêsa Calcutta để đưa anh chị em trở về với tình yêu Thiên Chúa, nhìn nhận Ðức
Kitô là Ðấng cứu chuộc nhân loại.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được dịp nhìn thấy
thái độ vừa từ thiện, vừa nâng cao tinh thần của Chúa Giêsu đối với người bất
toàn nằm bên giếng nước. Chúa chữa anh được lành bệnh, đồng thời Ngài mời gọi
anh hãy canh tân tâm hồn là đừng phạm tội nữa để khỏi phải khốn khổ hơn trước.
Có thể nói được rằng, người được Chúa Giêsu chữa
lành trong đoạn Tin Mừng hôm nay là người nghèo khổ nhất trong số những người
nghèo bệnh tật nằm bên bờ giếng gần thành Giêrusalem, lúc mà Chúa Giêsu đi
ngang qua. Anh nằm chờ từ 38 năm nay, có biết bao nhiêu người đi qua, kể cả những
vị lãnh đạo trong dân Do Thái, những kẻ thuộc nằm lòng Kinh Thánh và muốn tuân
giữ luật Chúa dạy cho đến tận cùng, với đủ mọi chi tiết. Họ đã đi ngang qua đó,
nhưng không nhìn thấy người anh em đang cần được giúp đỡ. Nhưng, Chúa Giêsu đã
nhìn thấy và Ngài đã chữa anh được lành bệnh. Ðó là việc Ngài thực hiện những dấu
lạ: cho người què được đi, cho kẻ bệnh tật được lành mạnh để kêu gọi những người
đang chờ dấu lạ của Ðấng Cứu Thế sắp đến hãy mở mắt ra và nhìn nhận Ngài là Ðấng
Cứu Thế.
Thế nhưng, không ai mở mắt tinh thần ra để nhìn sự
hiện diện của Chúa. Người được chữa lành không nhận ra Chúa và những người Do
Thái khác lãnh đạo tôn giáo đang có mặt ở đó cũng không nhận ra Chúa. Họ chỉ
nhìn thấy trường hợp lỗi luật ngày Sabat và muốn gây sự với Chúa, hơn là vui mừng
vì một người anh em được lành bệnh.
Phần Chúa Giêsu, Ngài không dừng lại ở việc chữa
lành tật bệnh thể xác, nhưng Ngài muốn tiến xa hơn nên đã kêu gọi người được chữa
lành hãy nghĩ đến phần linh hồn quan trọng hơn: "Anh đừng phạm tội nữa".
Chúa Giêsu đã thực hiện cả hai công tác phát triển và cứu rỗi chung cả nhân loại.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác
giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã lưu ý người con tinh thần của ngài như
sau:
Những người khác đang ở quanh con, cả nhân loại đang
đau thương, khấp khểnh trên đường mịt mù. Ðời con phải là hiến dâng để bắc nhịp
cầu đưa họ đến với Chúa là cùng đích, là tình yêu, là tất cả. Bên Chúa, nhân loại
không còn ai xa lạ, nhưng tất cả đều là anh em con. Món quà tuyệt hảo mà con có
thể tặng người giúp việc cho con không phải là chiếc áo đẹp, đôi giày tốt, cái
đồng hồ quí, nhưng là tình người, tình anh em mà con âm thầm tặng cho họ qua
các cử chỉ nhỏ nhặt suốt ngày sống của con.
Mỗi người chúng ta cầu xin Chúa ban cho mình có một
tâm hồn và đôi mắt như Chúa, để yêu thương và giúp đỡ khi nhìn thấy nhu cầu của
anh em xung quanh đang cần đến. Công việc tông đồ của chúng ta không phải là việc
làm của con người, nhưng là việc làm của Thiên Chúa, nên cần có những tâm tình
của Ngài.
Là chi thể của nhiệm thể, chúng ta là óc để suy tư,
là mắt để nhìn thực tại trần thế, là tai để nghe tiếng rên rỉ đòi hỏi, là vai để
gánh vác, là tay để cứu vớt, là chân để đi đến với người nghèo khổ, là quả tim
để khắc khoải yêu thương, là miệng để nói những lời bác ái, an ủi. Nhờ tông đồ
mà Hội Thánh hiện diện giữa thế giới ngày nay.
Những việc làm tốt của chúng ta góp phần giúp anh chị
em nhìn nhận Chúa và yêu mến Ngài hơn.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con quả tim như Chúa, để biết
yêu thương và phục vụ mọi người như Chúa. Amen.
Veritas
Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Ba Tuần IV MC
Bài
đọc: Eze 47:1-9; Jn 5:1-3a, 5-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại sự
sống cho con người.
Nước không thể thiếu trong đời sống con người. Tại
Jerusalem và miền nam của Israel, nước còn quan trọng hơn nữa vì nằm trên núi
và sa mạc. Nếu không có nước, con người và muôn lòai không thể sống. Nước còn
có một công dụng khác: rửa sạch mọi nhơ bẩn. Nước thánh từ Đền Thờ chảy ra là
hình ảnh của Nước Rửa Tội trong đêm Vọng Phục sinh, có thể thanh tẩy mọi ô uế
trong tâm hồn.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh sự cần thiết của nước
trong đời sống. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Ezekiel, tuy sống trong nơi lưu đày,
có một thị kiến về nước từ bên phải của Đền Thờ Jerusalem chảy ra. Nước này nhiều
đến độ làm thành một con sông lớn và chảy về phía Biển Chết và sa mạc Arabah.
Nước chảy đến đâu đem sự sống cho muôn lòai đến đó. Nước này cũng chữa lành mọi
bệnh tật của con người. Trong Phúc Âm, một người bị liệt đã 38 năm, nằm bên hồ
Bethzatha chờ mặt nước nối liền Đền Thờ được khuấy động là nhảy xuống hồ để được
chữa lành. May mắn cho anh, Chúa Giêsu đi ngang, nhìn thấy, và chữa lành. Ngài
truyền cho anh đứng dậy, vác chõng, và đi về nhà.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở
đó có sự sống.
1.1/ Thị kiến “Nước từ Đền Thờ chảy ra” của tiên-tri
Ezekiel: Nhiều tác giả đã dùng biểu tượng “Nước từ Đền Thờ chảy ra” (x/c Joel
3:18, Zech 14:8, Psa 36:8-9, Rev 22:1). Có tác giả cho đây có lẽ là một ám chỉ
của giòng nước chảy ra từ Vườn Địa Đàng (Gen 2:10-14), ngưng chảy vì tội của
Adam, xuất hiện trở lại trong cuộc Xuất Hành qua sa mạc qua biến cố “Nước chảy
ra từ Tảng Đá,” và sau cùng tái xuất hiện trong thành Jerusalem vào Ngày Cánh
Chung như một giòng sông. Phía Đông của Đền Thờ Jerusalem là thung lũng Kedron,
thường thì khô cạn, và người ta có thể băng ngang để leo lên Vườn Cây Dầu như
Chúa Giêsu và các môn đệ thường làm. Thị kiến của Ezekiel muốn nói lên sự can
thiệp của Thiên Chúa. Ngài có thể làm cho nước ngập tràn thung lũng Kedron, làm
thành một giòng sông chảy vào Biển Chết như sông Jordan.
1.2/ Nước từ Đền Thờ mang lại sự sống và chữa lành
con người: Nơi nào có nước là có sự sống. Cây trồng bên suối nước sẽ luôn xanh tươi và
sinh nhiều hoa trái. Trong thực tế, Biển Chết là nơi nước sông Jordan chảy vào;
vì không có lối thóat nên nước trở nên rất mặn, và không một sinh vật nào có thể
sống nổi. Thị kiến của tiên-tri Ezekiel có lẽ muốn nói lên sự can thiệp của
Thiên Chúa trong tương lai. Ngài sẽ làm nước từ Đền Thờ chảy ra nhiều đến nỗi
làm thành một giòng sông lấp đầy thung lũng Kedron, chảy vào Biển Chết và thông
xuống vùng sa mạc Arabah. Khi Biển Chết được thông thương, nước sẽ trở nên tinh
sạch hơn và làm cho nước biển hoá lành. Vì thế, “Sông chảy đến đâu thì mọi sinh
vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu,
thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” Một điều chắc chắn
hơn, thị kiến này ám chỉ Nước Rửa Tội mà trong đêm Vọng Phục Sinh, khi chúng ta
sẽ hát lên: “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền Thờ chảy ra; và nước ấy chảy đến
những ai, thì tất cả đều được cứu rỗi và reo lên …”
2/
Phúc Âm: Người bệnh bất tọai chờ bên hồ nước Bethzatha để được chữa lành.
2.1/ Lịch sử của hồ nước Bethzatha: Trước thế kỷ
20, các học giả của Tin Mừng Gioan cho hồ nước này chỉ là biểu tượng, chứ không
có thật tại Jerusalem, nhiều người còn chú giải 5 hành lang tượng trưng cho 5
Sách của Ngũ Kinh, 38 năm tượng trưng cho 38 năm dân Do-thái lang thang trong
sa mạc. Trường Kinh Thánh và Khảo Cổ của Dòng Đa-minh, École Biblique, tìm ra
tông tích của chiếc hồ này ở phía Tây của Đền Thờ, gần nhà thờ St. Ann hiện
nay, cùng với các các di tích lịch sử của nó. Hai cái hồ tìm thấy nằm kế cận
nhau được giải thích trong tờ hướng dẫn của các cha dòng White Friars như sau:
- Thời xa xưa, những hồ chứa nước được thiết lập
trong thung lũng này. Một cái hồ đơn giản được đào để chứa nước chảy qua thung
lũng như một cái hồ thiên nhiên. Sau này, cái hồ này được xây và biến thành hồ
nhân tạo với chiều kích 40x50 m bằng cách dùng một ống dẫn nước rộng khỏang 6
m. Nước trong hồ được dẫn vào Đền Thờ bằng một con kênh nhỏ. Sách Isa 7:3 và 2
Kgs 18:17 ám chỉ con kênh nhỏ này.
- Vào cuối thế kỷ 3rd BC, một chiếc
hồ thứ hai được thiết lập, có lẽ vào khỏang thời gian của Thượng Tế Simon (x/c
Sir 50:3). Nó được xây ở phía Nam của ống dẫn nước, con kênh nhỏ được bao phủ
và trở thành ống dẫn nước vào Đền Thờ.
- Vào giữa năm 150 BC và 70 AD, một trung tâm chữa bệnh
nổi tiếng được phát triển về phía Đông của hai cái hồ này. Một giếng nước, chỗ
tắm, và những bàn thờ cũng được thiết lập cho mục đích chữa trị và tôn giáo.
Nơi đây là nơi tụ họp của nhóm người bị cấm không cho vào trong Đền Thờ vì bệnh
tật. Họ chờ đợi khi thiên thần khuấy động nước là lăn xuống hồ để được chữa trị.
Chính tại nơi Cửa Chiên này, Chúa Giêsu đã chữa lành người bại liệt.
- Vào thế kỷ 1st AD, một cái hồ lớn
hơn, BIRKET ISRAEL, được xây gần Đền Thờ, làm cho những cái hồ ở Bethzatha không
còn quan trọng nữa. Một tường thành mới được xây dựng về phía Bắc bởi Herod
Agrippa vào năm 44 AD, ngăn cản không cho nước chảy vào Đền Thờ nữa.
2.2/ Chúa chữa lành người bại liệt đã 38 năm: Đức Giêsu thấy
anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: "Anh
có muốn khỏi bệnh không?" Bệnh nhân đáp: "Thưa Ngài, khi nước khuấy
lên, không có người đem tôi xuống hồ. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống
trước mất rồi!" Với tình trạng bệnh tật của anh, không thể nào anh là người
thứ nhất lăn xuống hồ. Chúa Giêsu biết anh đã chịu bệnh lâu năm, nên bảo:
"Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!" Người ấy liền được khỏi bệnh,
vác chõng và đi được. Hôm đó lại là ngày Sabbath.
2.3/ Tranh luận về ngày Sabbath.
(1) Vi phạm ngày Sabbath: Vác chõng đi trong ngày
Sabbath là vi phạm Lề Luật nặng nề, và có thể bị ném đá đến chết. Khi thấy anh
vác chõng, người Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: "Hôm nay là ngày
Sabbath, anh không được phép vác chõng!" Anh đáp: "Chính người chữa
tôi khỏi bệnh đã nói với tôi: "Anh hãy vác chõng mà đi!" Họ hỏi anh:
"Ai là người đã bảo anh: "Vác chõng mà đi?" Nhưng người đã được
khỏi bệnh không biết là ai.
(2) Cuộc gặp gỡ lần thứ hai: Sau đó, Đức Giêsu gặp
người ấy trong Đền Thờ và nói: "Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội
nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!" Anh ta đi nói với người Do-thái: Đức
Giêsu là người đã chữa anh khỏi bệnh. Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giêsu,
vì Người hay chữa bệnh ngày Sabbath.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Như nước cần cho sự sống phần xác thế nào, nước từ
Đền Thờ chảy ra cũng cần cho sự sống phần hồn như vậy. Nước Rửa Tội xóa sạch mọi
tội của con người và mang lại cho người lãnh nhận nhiều ân sủng của Thiên Chúa.
- Không có sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời,
con người sẽ bị khô héo lâu năm như người bại liệt. Khi có sự hiện diện của
Chúa Giêsu trong cuộc đời, Ngài sẽ chữa lành mọi bệnh tật cho con người.
Lm.
Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
08/03/16 THỨ BA TUẦN 4
MC
Th. Gio-an Thiên Chúa, tu sĩ
Ga 5,1-16
Th. Gio-an Thiên Chúa, tu sĩ
Ga 5,1-16
Suy niệm: Người
đàn ông này bị đau ốm suốt 38 năm, nay được Chúa chữa lành cho. Khi đi bộ mang
chõng về nhằm ngày sa-bát, bị người Do Thái qui tội vi phạm luật, ông đổ lỗi
cho Chúa Giê-su, người chữa lành cho ông. Người Do Thái muốn biết người chữa
lành cho ông là ai, còn ông không biết, cho đến khi Chúa tìm đến ông lần thứ
hai tại đền thờ. Ông vội vàng đi báo tin cho người Do Thái biết nơi Chúa Giê-su
hiện diện để tìm bắt Chúa. Do đó, không phải hễ có mặt ở đền thờ là thờ phượng
Thiên Chúa. Nhiều người đến nhà thờ với những động cơ lệch lạc, chẳng khác gì
những người buôn bán trong đền thờ vậy. Chúa Giê-su tìm đến ông để cảnh báo cho
ông biết tình trạng sẽ khốn hơn trước, nếu ông cứ phạm tội. Chúa kêu gọi ông
không chỉ hưởng niềm vui được chữa bệnh phần xác, mà còn phải ý thức sống sao
cho phù hợp với ơn thánh đã lãnh nhận.
Mời Bạn: Mùa
Chay thôi thúc bạn nhìn đi nhìn lại không chỉ thái độ, mà còn tâm tình của bạn
đối với Chúa. Những việc đạo đức bên ngoài sẽ chẳng mang lại lợi ích gì, nếu ý
hướng của bạn đối với Chúa tệ hại như ý hướng của người được chữa lành hôm nay.
Sống Lời Chúa: Chuyên
cần xét mình hằng ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con chân thành ca tụng Chúa hằng ngày và luôn
luôn chia sẻ với mọi người con gặp gỡ về những ơn lành Chúa đã ban cho con. Xin
đừng để con bội phản Chúa bao giờ, nhưng mến yêu Chúa luôn mãi.
Muốn trở nên lành mạnh
Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi
tôi: Con có muốn trở nên lành mạnh không? Con có muốn ra khỏi sự bất toại kinh
niên của mình không? Ngài mời tôi đứng lên và mạnh dạn bước đi, bỏ lại quá khứ
tội lỗi.
Suy
niệm:
Các
Tin Mừng Nhất lãm chẳng khi nào nói đến chuyện
Đức
Giêsu chữa bệnh cho ai ở vùng Giêrusalem.
Riêng
Tin Mừng Gioan nói đến chuyện Ngài chữa bệnh cho một anh bất toại
tại
một cái hồ, gần Cửa Chiên dẫn vào khuôn viên Đền thờ Giêrusalem.
Hồ
Bếtdatha này khá lớn, có hình chữ nhật, được ngăn làm hai phần.
Chính
vì thế có đến năm hành lang, nơi đây người bệnh nằm la liệt.
Họ
mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền khác nhau,
nhưng
ai đến đây cũng nuôi hy vọng khỏi bệnh.
Giữa
bao người ốm đau tàn tật đó, dường như Đức Giêsu chỉ thấy một mình anh.
Ngài
biết anh mắc bệnh đã lâu, nằm trên chõng một thời gian dài.
Ba
mươi tám năm, thời gian bằng một nửa đời người.
Chính
Đức Giêsu là người đến với anh và mở lời bằng một câu hỏi:
“Anh có muốn trở nên lành mạnh không?” (c. 6).
Câu
hỏi có vẻ thừa này thật ra lại chạm đến nỗi khát khao sâu thẳm của anh.
Nó
đụng đến chờ đợi mòn mỏi của anh từ nhiều năm qua.
Anh
bất toại không trả lời câu hỏi của Đức Giêsu, người với anh vẫn còn xa lạ.
Nhưng
anh lại muốn trải lòng cho người lạ này thấy cái ngõ cụt của mình,
những
lý do khiến mình phải nằm ở đây lâu đến vậy.
“Tôi không có người đem tôi xuống hồ, khi nước
động”: đó
là lý do thứ nhất.
Tôi
không có được sự trợ giúp từ phía bạn bè thân thuộc.
Tôi
cô đơn, trơ trọi một mình.
Giá
mà tôi có ai đó giúp tôi lúc cơ may đến…
“Lúc tôi tới đó, thì người khác đã xuống trước
tôi rồi”: đó
là lý do thứ hai.
Khi
phải lê đi bằng chính sức của mình, thì tôi bao giờ cũng là người đến sau.
Tôi
đã cố gắng nhiều lần, nhưng luôn phải cam chịu thất bại.
Bây
giờ tôi còn dám tin vào mình nữa không?
Anh
bất toại mong có một người bạn đem anh xuống nước đầu tiên.
Anh
mơ thấy ngày trồi lên từ hồ nước, ướt sũng, nhưng đi lại bình thường.
Anh
chẳng tin rằng ngày ấy là hôm nay.
Người
bạn anh mong đang ở gần, kéo anh ra khỏi nỗi cô đơn.
Anh
sẽ được khỏi bệnh mà người vẫn khô ráo.
“Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi !”: đây là lời mời hay mệnh
lệnh?
Bất
ngờ, nhanh chóng và dễ dàng, anh đã đứng lên và đi được.
Cái
chõng đã vác anh, bây giờ anh vác nó.
Hãy
nhìn những bước đi đầu tiên của người ba mươi tám năm bất toại.
Anh
đã trở nên lành mạnh, dù anh không xin hay bày tỏ lòng tin nào (cc.
6, 9,14).
Giêsu
đến với anh như một người bạn làm anh trở nên lành mạnh (cc.
11,15).
Vì
chữa bệnh cho anh này vào ngày sabát, Ngài đã bắt đầu bị chống đối (c.16).
Hôm
nay Đức Giêsu cũng hỏi tôi: Con có muốn trở nên lành mạnh không?
Con
có muốn ra khỏi sự bất toại kinh niên của mình không?
Ngài
mời tôi đứng lên và mạnh dạn bước đi, bỏ lại quá khứ tội lỗi.
Sau
khi được chữa lành, ngài dặn tôi đừng phạm tội nữa (c. 14).
Cầu
nguyện:
Lạy Cha,
thế
giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn
có những người bơ vơ lạc hướng
vì
không tìm được một người để tin;
vẫn
có những người đã chết từ lâu
mà
vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn
có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế
của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn
có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh
hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn
có những người bị sống bên lề xã hội,
dù
không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và
biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
08
Tháng Ba
Phục Sinh
Một
linh mục Brazil thuật lại một kinh nghiệm Phục Sinh của mình như sau: "Mỗi
ngày, khi đi ngang qua một con đường ở Rio de Janeiro, tôi đều thấy một người
đàn ông còn trẻ ngồi dựa lưng vào tường, chìa tay xin ăn. Ông ta không đi được
vì đôi chân bị tật. Vì qua lại khá thường, nên sự hiện diện và số phận của người
ăn xin què quặt không làm tôi bận tâm suy nghĩ: thế nào là không đi được".
Nhưng
một ngày kia, số phận của ông ta bỗng đánh động tâm hồn tôi mãnh liệt. Nhất là
khi dừng lại đằng xa quan sát tôi thấy có bao nhiêu người đi ngang qua mà hình
như không trông thấy ông. Tôi quyết định đến nói chuyện và hỏi ông: "Ông
có thể đứng dậy được không? Ông có muốn đi không?". Ông ta đưa cặp mắt mệt
mỏi nhìn tôi dò xét và khi đọc được sự thành thật trên khuôn mặt của tôi, ông
ta nói: "Tôi luôn luôn hy vọng là một ngày nào đó cuộc đời tôi sẽ đổi mới.
Dĩ nhiên tôi sẽ đi được nhưng chi phí mua sắm những dụng cụ quá đắt làm sao tôi
với tới. Vì thế không còn cách nào hơn là đành quên giấc mơ có thể đi được".
Nghe
xong tâm sự của ông, tôi xiết chặt tay ông giã từ và hứa: "Một ngày gần
đây, giấc mơ của ông sẽ thành sự thật".
Trong
bài giảng thánh lễ Chúa Nhật sau đó, tôi thuật về số phận của ông ăn mày và đề
nghị cộng đoàn hãy làm một cái gì để giúp ông ta. Một cuộc lạc quyên được tổ chức
và tôi vui mừng khi thấy số tiền quyên góp được vượt quá chi phí của cặp nạn và
đôi chân nhân tạo. Người hành khất càng hân hoan hơn khi tôi báo tin mừng: ông
được chuyên chở ngay đến một bệnh viện đặc biệt và trong những tuần lễ kế tiếp,
ông cố gắng tập đi đứng một mình.
Lễ
Phục Sinh đến. Tôi đi mời ông dự lễ và dành cho ông một chỗ đặc biệt gần bàn thờ.
Trong bài giảng hôm ấy, tôi lại đề cập về ông đại ý như sau: "Chúa Giêsu
đã Phục Sinh để sống một cuộc sống mới. Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta thông phần
vào khả năng trao tặng nhau những cuộc sống mới. Nhờ lòng hảo tâm của anh chị
em, ông bạn của chúng ta đã được ban cho một cuộc sống mới". Nói đến đây,
tôi mời ông đứng dậy để giới thiệu ông với cộng đoàn mà kể từ nay ông đã trở
nên một phần tử. Ông đứng dậy và chống nạng đi trước mặt mọi người. Tôi cảm thấy
bầu khí nhà thờ lúc ấy tràn đầy sức sống".
Tin mừng
thuật lại như sau: sau mẻ lưới đầy cá, Chúa Giêsu mời các môn đệ cùng điểm tâm
với Ngài và Ngài đã cầm lấy bánh và cá trao cho các ông ăn. Phần các môn đệ,
tuy không giám hỏi, nhưng họ biết rõ đó là Ngài. Ðây là phương thế Chúa Giêsu
tiếp tục hiện diện giữa những kẻ tin vào Ngài trải qua mọi thời đại: tự nhiên
như trong một bữa ăn thân mật, nhưng muốn cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài,
chúng ta phải noi gương Ngài chia sẻ cho nhau tất cả những gì mình có.
Lẽ Sống
Lectio Divina: Gioan 5:1-16
Thứ Ba, 8 Tháng 3,
2016
Thứ Ba Tuần IV Mùa
Chay
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa, là Thiên
Chúa chúng con,
Chúa đã làm dịu cơn
khát cho sự sống của chúng con
Với nước của bí tích
thanh tẩy.
Xin Chúa hãy biến sa
mạc đời sống khô cằn của chúng con
Thành thiên đường của
bình an và mừng vui,
Nguyện xin cho chúng
con có thể sinh hoa kết trái
Về thánh thiện, công
lý và bác ái.
Lạy Chúa, xin nhậm lời
chúng con cầu nguyện
Nhờ Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng con.
2. Phúc Âm – Gioan 5:1-16
Hôm đó là ngày lễ của người Do Thái,
Chúa Giêsu đến Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần cửa “Chiên”, có một
cái hồ, tiếng Do Thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong
các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù lòa, què quặt, bất toại nằm
la liệt.
Trong số đó, có một người nằm đau liệt
đã ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết anh
ta đã đau từ lâu, liền hỏi: “Anh muốn được lành bệnh
không?” Người đó thưa: “Thưa Ngài, tôi không được ai đem
xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống
trước tôi rồi”. Chúa Giêsu nói: “Anh hãy đứng dậy vác
chõng mà về”. Tức khắc, người ấy được lành bệnh. Anh ta
vác chõng và đi.
Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbát, nên
người Do Thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: “Hôm nay là ngày Sabbát,
anh không được phép vác chõng”. Anh ta trả lời: “Chính
người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: ‘Vác chõng mà đi’”. Họ
hỏi: “Ai là người đã bảo anh ‘Vác chõng mà đi’?” Nhưng kẻ
đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ
tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong Đền
Thờ, Người nói: “Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo
phải khốn khổ hơn trước”.
Anh ta đi nói cho người Do Thái biết
chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh. Vì thế, người Do Thái
gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbát.
3. Suy Niệm
- Bài Tin
Mừng hôm nay kể về chuyện Chúa Giêsu chữa lành người bại liệt, người mà đã chờ
đợi ba mươi tám năm để có một ai đó giúp đem anh ta xuống hồ để được lành
bệnh! Ba mươi tám năm! Trước việc hoàn toàn thiếu sự
tương trợ này, Chúa Giêsu làm gì? Người đã phá giới răn giữ ngày
Sabbát và chữa người bại liệt. Ngày nay, ở các nước chậm tiến, việc
trợ giúp cho người bệnh tật thì thiếu thốn, người ta cũng có cùng kinh nghiệm
của việc thiếu tương trợ. Họ sống trong cảnh hoàn toàn bị bỏ rơi,
không có sự giúp đỡ hay tương trợ của bất cứ
ai.
- Ga
5:1-2: Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem. Nhân dịp ngày lễ hội
của người Do Thái, Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem. Ở đó, gần Đền
Thờ có một hồ nước với năm hành lang. Vào thời ấy, việc thờ
phượng trong Đền Thờ đòì hỏi nhiều nước bởi vì vô vàn các con vật bị dùng làm
của lễ, đặc biệt là trong các ngày lễ lớn. Đây là lý do tại sao, gần
Đền Thờ có nhiều bể nước hứng nước mưa. Một số bể có thể chứa hơn
ngàn lít nước. Gần đó, vì nước dư tràn, có một khu nghỉ mát với nhà
tắm công cộng, nơi mà đông người bệnh tụ tập chờ đợi được giúp đỡ hoặc để được
chữa lành. Khoa khảo cổ học đã cho thấy rằng ở các vùng ngoại vi của
Đền Thờ, có nơi mà các Kinh Sư đã giảng dạy Lề Luật cho các học
viên. Một mặt, giảng dạy Lề Luật Thiên Chúa. Mặt khác, bỏ
rơi kẻ khó nghèo. Nước đã thanh tẩy Đền Thờ, nhưng nó đã không thanh
tẩy được người ta.
- Ga
5:3-4: Tình trạng bệnh nhân. Những bệnh nhân này bị lôi
cuốn bởi nước của khu nghỉ mát. Họ nói rằng thiên thần sẽ khuấy nước
lên và người đầu tiên xuống nước sau khi thiên thần khuấy nước lên, thì dù mắc
bệnh gì đi nữa cũng được khỏi. Nói cách khác, các người bệnh bị lôi
cuốn bởi một hy vọng hão huyền. Việc chữa lành chỉ dành cho một
người duy nhất. Giống như chơi sổ xố thời nay. Chỉ có một
người được thắng giải! Đa số người chơi trả tiền và chẳng thắng
gì. Một cách chính xác, trong tình huống hoàn toàn bị bỏ rơi này,
nơi hồ tắm công cộng, Chúa Giêsu gặp người bệnh.
- Ga
5:5-9: Chúa Giêsu chữa lành người bị bệnh vào ngày Thứ
Bảy. Rất gần với nơi mà việc tuân giữ Lề Luật Thiên Chúa được giảng
dạy, một người bất toại đã nằm ở đấy ba mươi tám năm, chờ đợi một ai đó sẽ giúp
anh ta xuống nước để được lành bệnh. Sự kiện này cho thấy hoàn toàn
thiếu vắng sự tương trợ và chấp nhận những kẻ bị loại trừ! Con số ba
mươi tám chỉ về thời gian của cả một thế hệ (Đnl 2:14). Cả một thế
hệ không thành công để trải nghiệm tình tương trợ, hay lòng xót
thương. Tôn giáo vào thời ấy, không có khả năng mặc khải khuôn mặt
thân thiện và đầy lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi đối diện với
tình trạng bi đát này, Chúa Giêsu đã phá giới về ngày Thứ Bảy và chăm sóc người
bất toại và nói rằng: “Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về!” Tức
khắc, anh ta vác chõng và bắt đầu đi vào giữa đám đông.
- Ga
5:10-13: Cuộc đối thoại giữa người được khỏi bệnh và những người Do
Thái. Ngay lập tức sau đó, một vài người Do Thái đến và chỉ trích
người vừa được khỏi bệnh đang vác chõng vào ngày Thứ Bảy. Người vừa
được khỏi bệnh không biết ai đã chữa mình khỏi bệnh. Anh ta không
biết Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu đi ngang qua nơi
đó, nơi những người nghèo khổ và bệnh hoạn và trông thấy người ấy; Chúa cảm
thấy tình cảnh khốn khổ của anh ta và đã chữa lành anh ta. Người
không chữa lành để cải đổi anh ta, cũng chẳng phải để anh ta tin vào Thiên
Chúa. Người chữa lành anh ta chỉ vì Người muốn giúp anh
ta. Người muốn anh ta trải nghiệm được lòng yêu thương và tình tương
trợ qua sự giúp đỡ và chấp nhận yêu thương của mình.
- Ga
5:14-16: Người được khỏi bệnh gặp lại Chúa Giêsu. Vào
trong Đền Thờ, ở giữa đám đông, Chúa Giêsu gặp lại người được khỏi bệnh và bảo
anh ta: “Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải
khốn khổ hơn trước”. Vào thời ấy, người ta nghĩ và cho
rằng: “Bệnh tật là một sự trừng phạt của Thiên Chúa. Thiên Chúa
ở cùng bạn!” Một khi người ấy được chữa lành, anh ta phải giữ không
phạm tội nữa, để việc khốn khổ hơn sẽ không xảy ra với anh ta! Nhưng
với sự ngờ nghệch của mình, anh ta đi nói với người Do Thái rằng Chúa Giêsu đã
chữa cho anh ta khỏi bệnh. Người Do Thái bắt đầu truy cứu Chúa Giêsu
tại sao Người làm những điều đó vào ngày Sabbát. Trong bài Tin Mừng
vào ngày mai, chúng ta biết những gì xảy ra sau đó.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Có bao giờ
tôi đã có một kinh nghiệm tương tự như của người bất toại chưa: nằm một
chỗ trong một thời gian mà không có ai giúp đỡ không? Tình trạng
liên quan đến việc giúp đỡ những người bệnh tật tại nơi bạn sống thì ra sao? Bạn
có nhận thấy dấu hiệu nào của sự tương trợ không?
- Việc này dạy cho
chúng ta điều gì ngày nay?
5. Lời nguyện
kết
Thiên Chúa là nơi ta
ẩn náu, là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn
sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
Nên dầu cho địa cầu
chuyển động,
Núi đồi có sập xuống
biển sâu,
Dầu cho sóng biển ầm
ầm sôi sục,
Núi đồi có lảo đảo khi
thủy triều dâng,
Ta cũng chẳng sợ gì.
(Tv 46:1-3)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét