17/03/2016
Thứ năm tuần 5 Mùa Chay
Bài
Ðọc I: St 17, 3-9
"Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc".
Trích sách Sáng Thế.
Trong ngày ấy, Abram sấp mình xuống đất và Thiên
Chúa phán cùng ông rằng: "Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm
tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi
là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con
cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất
thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con
cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và
của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ,
sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của
chúng".
Chúa lại phán cùng Abraham rằng: "Phần ngươi và
dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 104, 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Tới muôn
đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa,
hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã
làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.
2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con
cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta,
quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.
3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa
mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề
hứa Ngài đã thề với Isaac. - Ðáp.
Câu
Xướng Trước Phúc Âm: Am 5, 14
Các ngươi hãy tìm điều lành, chớ đừng tìm điều dữ, để
các ngươi được sống và Chúa sẽ ở cùng các ngươi.
Phúc
Âm: Ga 8, 51-59
"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ
được thấy ngày của Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng:
"Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ
không phải chết". Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết
rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói:
"Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn
hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông
cho mình là ai?"
Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính
mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người
là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi
không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta
cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các
ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và
đã vui mừng".
Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi
tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật,
quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn
mình đi ra khỏi đền thờ.
Ðó là lời Chúa.
Suy
Niệm: Toan Ném Ðá Chúa
Khi mới về nhận xứ Art, một xứ vỏn vẹn có 300 giáo
dân. Cha Vianey đã khởi sự xây dựng giáo xứ bằng những chất liệu: Cầu nguyện,
hy sinh, hãm mình. Dần dần giáo dân từ nhiều xứ đổ xô đến xứ Art nghe ngài dạy
giáo lý và nhất là để xưng tội với ngài. Các linh mục đồng nghiệp đều biết trước
đây cha Vianey rất tầm thường, học hành rất dốt. Nhưng vì bản tính con người
hay ghen tị, vì thế khi thấy giáo dân đổ xô đến xưng tội với một cha xứ hạng
bét như vậy, nên họ đã trình bày với Ðức Cha địa phận như sau: "Thưa Ðức
Cha, cha Vianey trước đây học hành rất kém mà nay lại cả gan giải tội cho giáo
dân khắp nơi. Họ bị những lời đồn thổi phóng đại, mê tín quyến rũ, nên ào ào đến
xứ Art ngày càng đông. Có thể có những nố khó, nên cha Vianey đã giải sai
nguyên tắc thần học luân lý".
Nghe các cha nói vậy, Ðức Giám Mục cũng không khỏi
lo lắng. Ngài cho gọi cha Vianey đến và trao cho cha một số trường hợp tội khó
giải, để cha về giải trên giấy tờ rồi đem nộp lại cho Tòa Giám Mục. Chỉ vài
ngày sau, cha Vianey đã đem nộp cho Tòa Giám Mục những giải đáp. Các nhà chuyên
môn luân lý thần học xem qua đều khen cha Vianey giải đáp đúng và có những lời
khuyên rất khôn ngoan. Ai nấy đều ngạc nhiên lẫn mến phục. Nhưng chưa hết, càng
ngày giáo dân càng đến xứ Art xưng tội với cha Vianey càng đông, khiến cha phải
giải tội cho giáo dân từ nửa đêm.
Có một lần kia, các linh mục ở những giáo xứ bên cạnh
làm tờ đơn kiện cha Vianey gửi thẳng về Tòa Giám Mục. Họ kiện cha quyến rũ giáo
dân các xứ khác đến xưng tội với cha, làm mất trật tự mục vụ trong các giáo xứ.
Một linh mục được trao trách nhiệm đem tờ đơn lên Tòa Giám Mục, cha dừng lại
giáo xứ Art để thăm cha Vianey và trao cho cha xem tờ đơn mà các linh mục khác
kiện để xin Ðức Cha cấm cha không được giải tội. Ðọc tờ đơn xong, cha Vianey
không tỏ chút gì giận dữ hay trách móc những anh em linh mục. Nhưng ngài bình
thản lấy bút viết vào cuối tờ đơn như sau: "Việc anh em nói trong đơn rất
đúng với sự thật. Con cũng xin ký tên vào tờ đơn đồng tình với anh em". Rồi
cha xếp tờ đơn trao lại cho cha đưa thư và cám ơn cha khách đã đến thăm để tạo
cho ngài có dịp cùng ký tên vào đơn.
Ðơn được chuyển về Tòa Giám Mục, và sau khi đọc xong
đơn và thấy bên dưới có cả chữ ký của cha Vianey nữa. Ðức Cha lấy làm lạ, hỏi vị
linh mục cầm đơn lên. Nghe ngài giải thích xong, Ðức Cha kết luận: "Các
cha xem, cha Vianey phản ứng rất khiêm tốn. Có ai lại đồng ý tự kiện mình bao
giờ? Ngài thực sự là người đạo đức. Thôi ta cứ để xem, nếu là việc Chúa thì sẽ
vững bền. Ngược lại, nếu là việc của ý riêng ngài thì thế nào cũng sụp đổ".
Cha kia về thuật lại cho các linh mục khác nghe, ai cũng ngạc nhiên nghĩ:
"Ðáng lẽ cha Vianey phải giận dữ, căm thù mình mới phải. Ai ngờ lại ký tên
vào đơn kiện ngài, thôi ta cứ chờ xem, theo như quyết định của Ðức Cha".
Anh chị em thân mến!
Các linh mục đồng nghiệp của cha Vianey đã xét đoán
theo những tiêu chuẩn phàm trần tự nhiên của lý trí, cộng thêm với những tâm
tình ghen tị, những xét đoán sai lầm đó càng làm cho các ngài trở nên mù quáng
tinh thần nhiều hơn. Thái độ sống và xét đoán như vậy không khác gì với thái độ
xét đoán mù quáng của những người Do Thái không tin Chúa, không chấp nhận những
sự thật của Chúa mạc khải cho họ, như bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: "Bây
giờ tôi mới hiểu rõ ông bị quỉ ám".
Anh chị em thân mến!
Trong cuộc đối thoại với những người Do Thái, Chúa
Giêsu càng muốn mạc khải cho biết thân thế của Ngài là ai? Về nếp sống phải có
của những ai tin nhận Ngài: "Ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết".
Trong cái nhìn phàm trần, ỷ lại vào kiến thức cũng như kinh nghiệm sống của
mình, những người Do Thái không thể nào nhìn nhận thực thể của Chúa: "Ông
là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Thật là
quá lắm đối với quan điểm hiểu biết phàm trần của họ: "Ông này quả thật là
bị quỉ ám". Một vị Thiên Chúa đã bị con người bôi nhọ chụp mũ. Bởi vì con
người dễ dàng tin theo những sự thật khác xuôi tai hơn là sự thật của Chúa. Vả
lại, sự thật của Chúa rất đòi hỏi, đòi buộc con người phải từ bỏ nếp sống cũ và
tội lỗi, những mưu tính vụ lợi cho các nhân, những ganh tị, ham quyền, ham danh
vọng.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác
giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã nhắc nhở những người con tinh thần của
mình như sau: "Ta là sự thật. Không phải báo chí là sự thật. Không phải
đài phát thanh là sự thật. Không phải Tivi là sự thật. Con theo loại sự thật
nào? Giàu hay nghèo, khen hay chê, sang hay hèn không sao cả. Chấp nhận tiến
lên theo hồng phúc để đợi ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng cứu chuộc
chúng ta. Không nhượng bộ cho xác thịt, không nhượng bộ cho lười biếng, không
nhượng bộ cho ích kỷ. Con không thể đổi đen ra trắng, xấu ra tốt, gian ra ngay
được".
Anh chị em thân mến!
Trong những giây phút gần cuối Mùa Chay, mỗi người
chúng ta hãy dừng lại xét mình về thái độ của mình trước những sự thật mạc khải
của Thiên Chúa, và trước những lời mời gọi cùng những gương sáng của Chúa Giêsu
Kitô, Ðấng đã thôi thúc chúng ta tiến lên mãi trên con đường đức tin, đức cậy
và đức mến. Hãy để cho Lời Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Lạy Chúa, xin thương ban ơn củng cố đức tin còn non
yếu và thanh tẩy con sạch mọi trở ngại, mọi tội lỗi không cho phép Chúa hiện diện
trong con, cũng như không giúp con nhìn ra Chúa nơi anh em xung quanh. Lạy
Chúa, xin thương lôi kéo con trở về với Chúa. Amen.
Veritas
Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Năm Tuần V MC
Bài
đọc: Gen 17:3-9; Jn 8:51-59.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lời Thiên Chúa hứa với Abraham được thực
hiện nơi Đức Kitô.
Hơn một nửa dân số trên địa cầu hiện nay tuyên bố tổ-phụ
Abraham là cha của họ: Do-thái giáo, Hồi-giáo, Kitô giáo (bao gồm tất cả những
ai tin vào Đức Kitô); nhưng lại không nhận nhau là anh, chị, em! Người Do-thái
cho rằng chị có họ là giòng dõi Abraham theo máu mủ của Isaac. Người Hồi-giáo
cho họ cũng là giòng dõi của Abraham vì Ismael cũng là con của Abraham. Người
Kitô giáo dựa vào giao ước Thiên Chúa đã ký kết với tổ-phụ. Một sự đọc lại bản
giao ước này cần thiết để xóa tan mọi ngộ nhận và giúp mọi người sống thân mật
với nhau.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong giao ước Thiên
Chúa ký kết với tổ-phụ Abraham. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Thế Ký tường thuật
bản giao ước Thiên Chúa ký kết với tổ-phụ Abraham. Thiên Chúa sẽ làm cho ông
thành “cha nhiều dân tộc,” chứ không phải chỉ dân tộc Israel mà thôi. Phần
Abraham và giòng dõi ông, họ phải tin và tuân giữ những gì Thiên Chúa dạy.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: Abraham đã vui mừng khi nhìn thấy ngày của
Ngài; vì nhờ Ngài, lời Thiên Chúa hứa với tổ-phụ sẽ trở thành “cha nhiều dân tộc,”
được thực hiện.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Thiên Chúa thiết lập giao ước vĩnh cửu với tổ-phụ Abraham.
1.1/ Phía của Thiên Chúa:
(1) Ngài hứa ban vô số dân tộc: Đây là một lời hứa rất
quan trọng. Chúng ta cần tìm hiểu chi tiết của lời hứa này:
- Tên Abram có nghĩa “Cha được vinh quang.” Chúa đổi
tên cho ông thành Abraham có nghĩa “Cha của một đám đông, ab hamôn.”
Tên này ám chỉ lời Thiên Chúa hứa với ông: “Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân
tộc.”
- Điều quan trọng của lời hứa là giòng dõi của ông sẽ
không còn giới hạn trong vòng Israel, nhưng lan rộng ra đến các dân tộc. Nếu chỉ
giới hạn trong vòng dân tộc Israel, Abraham không thể có con cháu nhiều như sao
trên trời và như cát ngòai bãi biển được.
- Làm sao để lời hứa này hiện thực? Thánh Phaolô
giúp chúng ta trả lời, bằng niềm tin của con người vào Đức Kitô, Con Thiên
Chúa: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều
mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự
do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô. Mà nếu
anh em thuộc về Đức Ki-tô, thì anh em là dòng dõi ông Abraham, những người thừa
kế theo lời hứa” (Gal 3:27-29).
- Vua chúa sẽ phát xuất từ ngươi: Hai nhân vật quan
trọng của giòng dõi Abraham là Vua David và Chúa Giêsu Kitô.
- Giao ước này là giao ước vĩnh cửu: không lệ thuộc
vào thời gian và không gian, được trải dài đến muôn vàn thế hệ.
(2) Ngài hứa ban Đất Hứa: “Ta sẽ ban cho ngươi và
dòng dõi ngươi sau này miền đất ngươi đang trú ngụ, tức là tất cả đất Canaan,
làm sở hữu vĩnh viễn; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.” Đất Hứa là đất Canaan
mà Joshua và con cái Israel sẽ chiếm đóng khi từ Ai-cập trở về.
1.2/ Phần của Abraham: Bổn phận chính
yếu của Abraham và tất cả giòng dõi của ông là phải luôn tin tưởng nơi Thiên
Chúa và làm những gì Ngài dạy.
2/
Phúc Âm: Sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và tổ-phụ Abraham
2.1/ Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải
chết: Chúa Giêsu cũng tuyên bố một câu tương tự với Martha khi cô cầu xin với
Ngài cho em là Lazarus được sống lại: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự
sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy,
sẽ không bao giờ phải chết" (Jn 11:25-26). Ở đây, Chúa Giêsu không có ý nói
về cuộc sống thể lý; nhưng cuộc sống về đàng thiêng liêng. Những ai đã tin và
giữ lời Chúa dạy, họ luôn sống; tuy họ sẽ phải chết về phần xác, nhưng đó chỉ
là cách để đưa họ tới cuộc sống muôn đời với Thiên Chúa. Cuộc sống muôn đời
trong tương lai đã bắt đầu ngay từ ở đời này.
Nhưng người Do-thái không hiểu ý Chúa Giêsu, nên họ
nói: "Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám. Ông Abraham đã chết,
các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói: "Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ
không bao giờ phải chết. Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông
Abraham sao? Người đã chết, các ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự xưng mình là
ai?"
2.2/ Lời hứa của Thiên Chúa với Abraham được thực hiện
nơi Đức Kitô.
(1) Chúa Giêsu biết Thiên Chúa và vâng lời Ngài:
Chúa Giêsu tuyên bố: “Các ông không biết Người; còn tôi, tôi biết Người. Nếu
tôi nói là tôi không biết Người, thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông.” Con
người có cố gắng lắm cũng chỉ biết phần nào của Thiên Chúa, Chúa Giêsu biết
Thiên Chúa như Thiên Chúa là, vì Ngài là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Nếu
con người muốn biết Thiên Chúa, họ phải tin vào những mặc khải của Chúa Giêsu.
Hơn nữa, Chúa Giêsu luôn vâng lời Thiên Chúa trong mọi sự. Nếu con người muốn
biết thế nào là tuân theo ý định của Thiên Chúa, họ cũng phải học nơi Chúa
Giêsu. Ngài hòan tòan làm theo ý định của Cha Ngài. Người Do-thái tuyên bố họ
biết Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ đã không biết và không vâng lời Ngài.
(2) Tổ-phụ Abraham và Chúa Giêsu: Chúa Giêsu đã chứng
minh cho người Do-thái trong trình thuật hôm qua: họ không phải là con cháu
Abraham, vì họ không làm những gì ông làm. Trong trình thuật hôm nay, Ngài lại
chứng minh cho họ một lần nữa: họ không phải là con cháu Abraham, vì họ không
vui mừng đón tiếp Ngài như Abraham: “Ông Abraham là cha các ông đã hớn hở vui mừng
vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ.” Làm sao để hiểu
lời tuyên bố này? Cách cắt nghĩa dễ nhất là dùng trình thuật của Lucas về dụ
ngôn người phú hộ và Lazarus (Lk 16:22-31). Abraham đang ở trên trời nhìn xuống
và thấy hết mọi sự. Nhưng đây chỉ là dụ ngôn Chúa dùng. Thực ra, truyền thống
Do-thái tin Abraham đã được Thiên Chúa cho nhìn thấy ngày Đấng Thiên Sai ra đời
và ông đã mừng rỡ. Truyền thống Giáo Hội tin Abraham và những người lành đã chết
chỉ sống lại, khi Đức Kitô xuống Ngục Tổ Tông đưa các ngài lên trong đêm vọng
Phục Sinh.
Người Do-thái phản đối: "Ông chưa được năm mươi
tuổi mà đã thấy ông Abraham!" Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các
ông: trước khi có ông Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!" Chúa Giêsu không lệ
thuộc thời gian, Ngài không nói: trước khi Abraham có, Tôi đã có; nhưng nói Tôi
Hằng Hữu. Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giêsu lánh đi và ra khỏi Đền
Thờ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Đọc lại giao ước vĩnh cửu Thiên Chúa đã ký kết với tổ-phụ
Abraham cho chúng ta thấy những điều quan trọng sau đây:
(1) Giòng dõi của tổ-phụ Abraham được mở rộng đến
các dân tộc, chứ không chỉ giới hạn trong dân tộc Israel.
(2) Mọi người đều có thể trở thành con cháu tổ-phụ
Abraham bằng niềm tin vào Đức Kitô và làm những gì Ngài dạy.
(3) Nếu một người thuộc dân tộc Israel mà không tin
và làm những gì Đức Kitô dạy, họ cũng không phải là con cháu của tổ-phụ
Abraham; vì đã không tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến.
Lm.
Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
17/03/16 THỨ NĂM TUẦN 5 MC
Th. Pát-rích, giám mục
Ga 8,51-59
Th. Pát-rích, giám mục
Ga 8,51-59
Suy niệm: Đã đến lúc Đức Giê-su nói rõ sự thật về Người,
dù sự thật này có dẫn đến thập giá. Thật vậy, người Do thái thấy những lời Đức
Giê-su nói chứa đầy nghịch lý: - chưa được năm mươi tuổi mà lại “có trước Áp-ra-ham”;
- ai tuân giữ Lời Chúa thì được sống thế mà “Áp-ra-ham
đã chết, và các ngôn sứ cũng vậy”; - và còn cả gan xưng mình là “Đấng Hằng Hữu” nữa chứ! Đúng là ‘cái miệng hại cái thân!’:
tuyên bố mình có Lời ban sự sống mà chính mình lại bị đóng đinh thập giá! Thế
nhưng nghịch lý của thập giá chỉ được giải mã khi được đẩy đến tận cùng: khi
chính Đấng chịu đóng đinh đã từ cõi chết sống lại.
Mời Bạn: “Cánh
cửa để đi vào hạnh phúc không chỉ là những suy nghĩ tích cực, mà phải là năng
lực chấp nhận thực tế” (J.Cazapinxki). Thiên Chúa mời gọi chúng ta giũ bỏ các
định kiến để mở lòng đón nhận thực tế của Ngài, một thực tế bất ngờ thậm chí
còn phi lý nữa. Ta cần trở nên khác –
suy nghĩ khác,
hành động khác.
Chỉ khi chiêm ngắm Đức Giê-su chịu đóng đinh, ta mới cảm nghiệm được Lời Chúa
là sức sống cho mình.
Mời bạn chia sẻ một
lần cảm nghiệm Lời Chúa đem lại sức sống cho bạn.
Sống Lời Chúa: Trong
những ngày chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, ta dành thêm thời giờ cho việc hồi
tâm, tĩnh tâm; bớt những cuộc vui chơi giải trí sa đà, để hiệp thông với Chúa
Giê-su trong cuộc khổ nạn và để cảm nghiệm hơn tình Chúa yêu ta.
Cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết đón nhận thập giá trong đời con để nhờ
đó con cũng nhận được sức sống của Ngài.”
Tôi hằng hữu
Đức Giêsu vẫn cương trực nói điều phải nói và làm
điều phải làm. Chúng ta xin có được sự cương trực đó khi phải làm chứng cho
Chúa.
Suy
niệm:
Bài
Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng việc Đức Giêsu bị ném đá.
Nhưng
Ngài đã ẩn mình đi và ra khỏi Đền thờ (c. 59).
Ném
đá là hình phạt của người Do thái chủ yếu dành cho kẻ phạm thượng.
Đức
Giêsu đã làm gì để bị coi là mắc tội phạm thượng,
nghĩa
là tội coi thường quyền tối thượng của Thiên Chúa?
Trước
hết Đức Giêsu đặt mình lên trên tổ phụ đáng kính Abraham.
Ngài
biết ông Abraham vui sướng mừng rỡ
vì
hy vọng được thấy ngày của Ngài, thấy những việc Ngài làm đây (c. 56).
Abraham
mừng vì chính Đức Giêsu, chứ không phải cá nhân mình,
mới
là Đấng đem phúc lành cho mọi dân tộc trên thế giới.
Dù
chưa tới năm mươi tuổi, Đức Giêsu dám coi mình là có trước ông Abraham.
“Trước
khi có Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu” (c. 58).
Ta
là Đấng Hằng Hữu là câu trả lời của Thiên Chúa cho ông Môsê
khi
ông hỏi tên của Ngài bên bụi cây bốc cháy (Xh 3, 14).
Đức
Giêsu cũng muốn trả lời câu hỏi về mình (c. 53) bằng lối nói đó.
Vì
trước khi được sinh ra ở đời làm người, thì Ngài đã hiện hữu rồi.
Ngài
là một với Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (Ga 1, 14-18),
bởi
đó Ngài có trước Abraham, người đã sống trước Ngài gần hai ngàn năm.
Chính
khẳng định bị coi là phạm thượng này đã khiến Ngài bị ném đá.
Đức
Giêsu thường bị coi là ngạo mạn, tự tôn vì những lời như vậy.
Thật
ra Ngài chẳng tự tôn vinh mình.
Chúa
Cha mới là Đấng tôn vinh Ngài qua cái chết tủi nhục (c. 54).
Đức
Giêsu cũng chẳng coi thường Thiên Chúa bao giờ.
Ngài
gọi Thiên Chúa là Cha một cách thân thương,
và
nhìn nhận: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14, 28).
Có
một sự phân biệt rất rõ giữa Chúa Cha và Đức Giêsu:
Chúa
Cha là người sai đi; Đức Giêsu là Con, là người được sai đi.
Đức
Giêsu chỉ làm điều Ngài thấy Cha làm (Ga 5, 19-20; 8, 28-29),
và
nói điều Ngài nghe Cha nói (Ga 8, 26. 40; 12, 49-50).
Triệt
để vâng phục và tùy thuộc là nét đặc trưng của Đức Giêsu.
Trong
Tin Mừng Gioan, bao lần ta gặp cụm từ không tự mình.
Đức
Giêsu không tự mình nói, cũng chẳng tự mình làm.
Ngài
đòi chúng ta tuân giữ lời Ngài (c. 51)
chỉ
vì chính Ngài cũng đã tuân giữ lời của Thiên Chúa (c. 55).
Trong
tuần lễ này, tại nhà thờ các ảnh tượng có thể được che lại.
Khi
bị ném đá, Đức Giêsu đã tránh đi vì giờ của Ngài chưa đến.
Đức
Giêsu vẫn cương trực nói điều phải nói và làm điều phải làm.
Chúng
ta xin có được sự cương trực đó khi phải làm chứng cho Chúa.
Cầu
nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin
tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi
biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để
gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để
đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để
chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay
cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để
nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để
âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
R.
Tagore
(Đỗ
Khánh Hoan dịch)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
17
Tháng Ba
Chia Sẻ Ánh Sáng Cứu Ðộ
Ngày
xưa có một người cha có ba đứa con trai. Ông vốn sinh ra nghèo khổ, nhưng nhờ
chuyên cần làm việc và cần kiệm, nên ông trở nên một điền chủ giàu có. Lúc về
già, gần đất xa trời, ông nghĩ tới chuyện chia gia tài cho các con. Nhưng ông
cũng muốn xem đứa con nào thông minh nhất để phó thác phần lớn gia sản của ông
cho nó. Ông liền gọi ba đứa con đến giường bệnh, trao cho mỗi đứa năm đồng bạc
và bảo mỗi đứa hãy mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng trơ trọi mà ông đang ở.
Ba
đứa con vâng lời cha cầm tiền ra phố. Người anh cả nghĩ rằng đây chỉ là một
công việc dễ dàng. Anh ta ra tới chợ mua ngay một bó rơm rất lớn mang ngay về
nhà. Người con thứ hai suy nghĩ kỹ lưỡng hơn: sau khi đi rảo quanh chợ một
vòng, anh ta quyết định mua những bao lông vịt rất đẹp mắt.
Còn
người con trai thứ ba, suy nghĩ đi, suy nghĩ lại: làm sao mua được cái gì với
năm đồng bạc này, để có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha mình. Sau nhiều giờ đắn
đo, bỗng mắt chàng thanh niên hớn hở, anh ta lại căn tiệm nhỏ mất hút trong đường
nhỏ gần chợ, anh ta mua cây đèn cầy và một hộp diêm. Trở về nhà, anh hồi hộp,
không biết hai anh mình đã mua được cái gì.
Ngày
hôm sau, cả ba người con trai đều họp lại trong phòng của cha già. Mỗi người
mang quà tặng của mình cho cha: Người con cả mang rơm trải trên nền nhà của căn
phòng, nhưng phòng quá lớn, rơm chỉ phủ được một góc nền nhà. Người con thứ hai
mang lông vịt ra, nhưng cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng. Người cha cóvẻ
thất vọng. Bấy giờ người con trai út mới đứng ra giữa phòng, trong tay chẳng mang
gì cả. hai người em tò mò chăm chú nhìn em, và hỏi: "Mày không mua cái gì
sao?". Bấy giờ đứa em mới từ từ rút trong túi quần ra một cây nến và hộp
diêm. Thoáng một cái, căn phòng đầy ánh sáng. Mọi người đều mỉm cười. Người cha
già rất sung sướng vì quà tặng của đứa con út. Ông quyết định giao phần lớn ruộng
đất và gia sản của mình cho con trai út, vì ông thấy anh ta đủ thông minh để quản
trị gia sản của mình và nhờ đó cũng có thể giúp đỡ các anh của nó nữa.
Ðứng
trước khó khăn thử thách, để kêu gọi sự bình tĩnh sáng suốt và tinh thần hợp
tác, người ta thường nói với nhau: thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà
nguyền rủa bóng tối.
Cuộc sống của mỗi người chúng ta, cuộc sống của những người xung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta có lẽ cũng giống như một căn phòng đen tối... Chỉ cần một người đốt lên một chút ánh sáng, những người xung quanh sẽ cảm thấy ấm cúng và phấn khởi.
Một chút ánh sáng của một cái mỉm cười. Một chút ánh sáng của một lời chào hỏi. Một chút ánh sáng của một san sẻ. Một chút ánh sáng của tha thứ. Và một chút ánh sáng của niềm tin được chiếu tỏa qua sự vui vẻ chấp nhận cuộc sống... Một chút ánh sáng ấy cũng đủ để nâng đỡ ít nhất là một người mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì không có một nghĩa cử nào được thực thi mà không ảnh hưởng đến người khác...
Cuộc sống của mỗi người chúng ta, cuộc sống của những người xung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta có lẽ cũng giống như một căn phòng đen tối... Chỉ cần một người đốt lên một chút ánh sáng, những người xung quanh sẽ cảm thấy ấm cúng và phấn khởi.
Một chút ánh sáng của một cái mỉm cười. Một chút ánh sáng của một lời chào hỏi. Một chút ánh sáng của một san sẻ. Một chút ánh sáng của tha thứ. Và một chút ánh sáng của niềm tin được chiếu tỏa qua sự vui vẻ chấp nhận cuộc sống... Một chút ánh sáng ấy cũng đủ để nâng đỡ ít nhất là một người mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì không có một nghĩa cử nào được thực thi mà không ảnh hưởng đến người khác...
Lẽ Sống
Lectio Divina: Gioan 8:51-59
Thứ Năm, 17 Tháng 3,
2016
Thứ Năm Tuần V Mùa
Chay
1. Lời nguyện mở
đầu
Lạy Chúa là Thiên Chúa
Trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô
Chúa đã ban cho chúng con một tên gọi
mới,
Tên của chính Con Một Chúa.
Nguyện xin cho chúng con có thể sống
xứng đáng với thân phận mới của chúng con,
Là những kẻ sống vì người khác
Để phục vụ và dấn thân
Cùng với Đức Giêsu
Con Chúa và là Chúa chúng con đến muôn
đời.
2. Phúc Âm – Gioan
8:51-59
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do Thái
rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì
muôn đời sẽ không phải chết”.
Người Do Thái lại nói: “Bây giờ
thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng
vậy, thế mà ông lại nói: ‘Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải
chết. Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài
đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?”
Chúa Giêsu trả lời: “Nếu Ta tự tôn
vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta
tôn vinh Ta. Người là chính Đấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các
ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết
Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các
ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là
Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy Ngày của Ta. Ông đã thấy và đã
vui mừng”.
Người Do Thái liền nói: “Ông chưa
được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?”
Chúa Giêsu trả lời: “Quả thật, quả
thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi”.
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa
Giêsu ẩn mình đi ra khỏi Đền Thờ.
3. Suy Niệm
- Chương 8 dường
như là một cuộc triển lãm các tác phẩm nghệ thuật, nơi mà người ta có thể chiêm
ngưỡng và lặng ngắm những bức tranh nổi tiếng, đặt bên cạnh nhau. Bài Tin
Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta một bức tranh, và cuộc đối thoại giữa Chúa
Giêsu và người Do Thái. Không mấy có sự liên kết từ bức tranh này sang
bức tranh kia. Chính người thưởng lãm, nhờ vào sự quan sát tường tận và
cầu nguyện của mình, mới có thể thành công khám phá chủ đề vô hình gắn kết các
bức họa, các cuộc đối thoại giữa các bức tranh. Vì vậy, chúng ta thấu sâu
vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa đang bao trùm con người của Chúa Giêsu.
- Ga 8:51: Bất
cứ ai tuân giữ lời của Chúa Giêsu thì muôn đời sẽ không phải chết.
Chúa Giêsu đưa ra một lời xác tín long trọng; các tiên tri đã nói: Sấm
ngôn của Thiên Chúa! Chúa Giêsu nói: “Quả thật, quả
thật, Ta bảo các ngươi!” Và lời khẳng định long trọng như sau:
“Ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết!” Cùng một chủ đề này
xuất hiện và tái xuất hiện nhiều lần trong sách Tin Mừng Gioan. Đây là
những lời rất sâu sắc.
- Ga
8:52-53: Abraham và các tiên tri đã chết. Phản ứng của
người Do Thái thì ngay tức thì: “Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ
ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói:
‘Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết.’ Chẳng lẽ ông lại lớn hơn
cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã
chết. Ông cho mình là ai?” Họ đã không hiểu được tầm quan trọng và
ý nghĩa của lời khẳng định của Chúa Giêsu. Đó là cuộc đối thoại với kẻ
điếc.
- Ga 8:54-56: Chính
Cha Ta tôn vinh Ta. Một lần nữa và như thường lệ, Chúa Giêsu nhấn
mạnh đến cùng một điểm: Người hiệp nhất với Chúa Cha đến nỗi mà mọi việc
Người nói hay làm không là của Người. Mọi việc thuộc về Chúa Cha.
Và Chúa Giêsu nói rằng: “Người là chính Đấng các ngươi xưng là ‘Thiên
Chúa của các ngươi’. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta
biết Người. Nếu Ta nói‘Ta không biết Người’, thì Ta cũng nói dối như các
ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là
Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấyNgày của Ta. Ông đã thấy và đã
vui mừng”. Những lời này của Chúa Giêsu phải được xem như là một nhát
cuốc làm tổn thương lòng tự trọng của người Do Thái. Nói với những người
lãnh đạo tôn giáo rằng: “Các ngươi không biết Thiên Chúa, Đấng mà các
ngươi nói các ngươi biết. Ta biết Người và các ngươi không biết
Người!” Giống như thể đó là lời tố cáo sự hoàn toàn kém hiểu biết chính
xác của họ về chủ đề mà họ nghĩ rằng họ là những nhà thông bác uyên thâm.
Và câu cuối cùng làm tăng thêm mức đo lường: “Cha các ngươi là
Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy Ngày của Ta. Ông đã thấy
và đã vui mừng”.
- Ga 8:57-59: “Ông
chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?” Họ đã hiểu
mọi chuyện theo nghĩa đen; vì thế cho thấy rằng họ đã không hiểu bất cứ điều gì
về những lời Chúa Giêsu đang nói. Và Chúa Giêsu lại dõng dạc nói một lời
xác tín long trọng khác: “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi:
Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi”
Đối với những ai tin vào Chúa Giêsu, tại
đây chúng ta tiến tới trọng tâm của mầu nhiệm câu chuyện. Một lần nữa, họ
lượm đá để định giết Chúa Giêsu. Nhưng lần này họ chưa thành công bởi vì
giờ của Chúa chưa đến. Người xác định giờ khắc đó chính là Chúa Giêsu.
4. Một vài câu
hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Cuộc đối thoại
giữa Chúa và người Do Thái là cuộc đối thoại với kẻ điếc. Thỉnh thoảng
bạn đã có kinh nghiệm nói chuyện với một người suy nghĩ hoàn toàn trái ngươc
lại với những gì bạn nghĩ và kẻ ấy lại không nhận biết được điều đó
chưa?
- Chúng ta có thể
hiểu câu nói này như thế nào: “Cha các ngươi là Abraham đã hân
hoan, vì nghĩ sẽ được thấy Ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng”?
5. Lời nguyện
kết
Hãy tìm CHÚA và sức mạnh của Người,
Chẳng khi ngừng tìm kiếm Thánh Nhan.
Hãy nhớ lại những kỳ công Người thực
hiện,
Những dấu lạ và những quyết định Người
phán ra.
(Tv 105:4-5)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét