Trang

Thứ Tư, 16 tháng 3, 2016

17-03-2016 : THỨ NĂM - TUẦN V MÙA CHAY

17/03/2016
Thứ năm tuần 5 Mùa Chay

Bài Ðọc I: St 17, 3-9
"Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc".
Trích sách Sáng Thế.
Trong ngày ấy, Abram sấp mình xuống đất và Thiên Chúa phán cùng ông rằng: "Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".
Chúa lại phán cùng Abraham rằng: "Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 104, 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.
2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.
3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. - Ðáp.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Am 5, 14
Các ngươi hãy tìm điều lành, chớ đừng tìm điều dữ, để các ngươi được sống và Chúa sẽ ở cùng các ngươi.

Phúc Âm: Ga 8, 51-59
"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"
Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Toan Ném Ðá Chúa
Khi mới về nhận xứ Art, một xứ vỏn vẹn có 300 giáo dân. Cha Vianey đã khởi sự xây dựng giáo xứ bằng những chất liệu: Cầu nguyện, hy sinh, hãm mình. Dần dần giáo dân từ nhiều xứ đổ xô đến xứ Art nghe ngài dạy giáo lý và nhất là để xưng tội với ngài. Các linh mục đồng nghiệp đều biết trước đây cha Vianey rất tầm thường, học hành rất dốt. Nhưng vì bản tính con người hay ghen tị, vì thế khi thấy giáo dân đổ xô đến xưng tội với một cha xứ hạng bét như vậy, nên họ đã trình bày với Ðức Cha địa phận như sau: "Thưa Ðức Cha, cha Vianey trước đây học hành rất kém mà nay lại cả gan giải tội cho giáo dân khắp nơi. Họ bị những lời đồn thổi phóng đại, mê tín quyến rũ, nên ào ào đến xứ Art ngày càng đông. Có thể có những nố khó, nên cha Vianey đã giải sai nguyên tắc thần học luân lý".
Nghe các cha nói vậy, Ðức Giám Mục cũng không khỏi lo lắng. Ngài cho gọi cha Vianey đến và trao cho cha một số trường hợp tội khó giải, để cha về giải trên giấy tờ rồi đem nộp lại cho Tòa Giám Mục. Chỉ vài ngày sau, cha Vianey đã đem nộp cho Tòa Giám Mục những giải đáp. Các nhà chuyên môn luân lý thần học xem qua đều khen cha Vianey giải đáp đúng và có những lời khuyên rất khôn ngoan. Ai nấy đều ngạc nhiên lẫn mến phục. Nhưng chưa hết, càng ngày giáo dân càng đến xứ Art xưng tội với cha Vianey càng đông, khiến cha phải giải tội cho giáo dân từ nửa đêm.
Có một lần kia, các linh mục ở những giáo xứ bên cạnh làm tờ đơn kiện cha Vianey gửi thẳng về Tòa Giám Mục. Họ kiện cha quyến rũ giáo dân các xứ khác đến xưng tội với cha, làm mất trật tự mục vụ trong các giáo xứ. Một linh mục được trao trách nhiệm đem tờ đơn lên Tòa Giám Mục, cha dừng lại giáo xứ Art để thăm cha Vianey và trao cho cha xem tờ đơn mà các linh mục khác kiện để xin Ðức Cha cấm cha không được giải tội. Ðọc tờ đơn xong, cha Vianey không tỏ chút gì giận dữ hay trách móc những anh em linh mục. Nhưng ngài bình thản lấy bút viết vào cuối tờ đơn như sau: "Việc anh em nói trong đơn rất đúng với sự thật. Con cũng xin ký tên vào tờ đơn đồng tình với anh em". Rồi cha xếp tờ đơn trao lại cho cha đưa thư và cám ơn cha khách đã đến thăm để tạo cho ngài có dịp cùng ký tên vào đơn.
Ðơn được chuyển về Tòa Giám Mục, và sau khi đọc xong đơn và thấy bên dưới có cả chữ ký của cha Vianey nữa. Ðức Cha lấy làm lạ, hỏi vị linh mục cầm đơn lên. Nghe ngài giải thích xong, Ðức Cha kết luận: "Các cha xem, cha Vianey phản ứng rất khiêm tốn. Có ai lại đồng ý tự kiện mình bao giờ? Ngài thực sự là người đạo đức. Thôi ta cứ để xem, nếu là việc Chúa thì sẽ vững bền. Ngược lại, nếu là việc của ý riêng ngài thì thế nào cũng sụp đổ". Cha kia về thuật lại cho các linh mục khác nghe, ai cũng ngạc nhiên nghĩ: "Ðáng lẽ cha Vianey phải giận dữ, căm thù mình mới phải. Ai ngờ lại ký tên vào đơn kiện ngài, thôi ta cứ chờ xem, theo như quyết định của Ðức Cha".
Anh chị em thân mến!
Các linh mục đồng nghiệp của cha Vianey đã xét đoán theo những tiêu chuẩn phàm trần tự nhiên của lý trí, cộng thêm với những tâm tình ghen tị, những xét đoán sai lầm đó càng làm cho các ngài trở nên mù quáng tinh thần nhiều hơn. Thái độ sống và xét đoán như vậy không khác gì với thái độ xét đoán mù quáng của những người Do Thái không tin Chúa, không chấp nhận những sự thật của Chúa mạc khải cho họ, như bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: "Bây giờ tôi mới hiểu rõ ông bị quỉ ám".
Anh chị em thân mến!
Trong cuộc đối thoại với những người Do Thái, Chúa Giêsu càng muốn mạc khải cho biết thân thế của Ngài là ai? Về nếp sống phải có của những ai tin nhận Ngài: "Ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Trong cái nhìn phàm trần, ỷ lại vào kiến thức cũng như kinh nghiệm sống của mình, những người Do Thái không thể nào nhìn nhận thực thể của Chúa: "Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Thật là quá lắm đối với quan điểm hiểu biết phàm trần của họ: "Ông này quả thật là bị quỉ ám". Một vị Thiên Chúa đã bị con người bôi nhọ chụp mũ. Bởi vì con người dễ dàng tin theo những sự thật khác xuôi tai hơn là sự thật của Chúa. Vả lại, sự thật của Chúa rất đòi hỏi, đòi buộc con người phải từ bỏ nếp sống cũ và tội lỗi, những mưu tính vụ lợi cho các nhân, những ganh tị, ham quyền, ham danh vọng.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã nhắc nhở những người con tinh thần của mình như sau: "Ta là sự thật. Không phải báo chí là sự thật. Không phải đài phát thanh là sự thật. Không phải Tivi là sự thật. Con theo loại sự thật nào? Giàu hay nghèo, khen hay chê, sang hay hèn không sao cả. Chấp nhận tiến lên theo hồng phúc để đợi ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng cứu chuộc chúng ta. Không nhượng bộ cho xác thịt, không nhượng bộ cho lười biếng, không nhượng bộ cho ích kỷ. Con không thể đổi đen ra trắng, xấu ra tốt, gian ra ngay được".
Anh chị em thân mến!
Trong những giây phút gần cuối Mùa Chay, mỗi người chúng ta hãy dừng lại xét mình về thái độ của mình trước những sự thật mạc khải của Thiên Chúa, và trước những lời mời gọi cùng những gương sáng của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã thôi thúc chúng ta tiến lên mãi trên con đường đức tin, đức cậy và đức mến. Hãy để cho Lời Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Lạy Chúa, xin thương ban ơn củng cố đức tin còn non yếu và thanh tẩy con sạch mọi trở ngại, mọi tội lỗi không cho phép Chúa hiện diện trong con, cũng như không giúp con nhìn ra Chúa nơi anh em xung quanh. Lạy Chúa, xin thương lôi kéo con trở về với Chúa. Amen.
Veritas Asia


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Năm Tuần V MC
Bài đọc: Gen 17:3-9; Jn 8:51-59.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lời Thiên Chúa hứa với Abraham được thực hiện nơi Đức Kitô.
Hơn một nửa dân số trên địa cầu hiện nay tuyên bố tổ-phụ Abraham là cha của họ: Do-thái giáo, Hồi-giáo, Kitô giáo (bao gồm tất cả những ai tin vào Đức Kitô); nhưng lại không nhận nhau là anh, chị, em! Người Do-thái cho rằng chị có họ là giòng dõi Abraham theo máu mủ của Isaac. Người Hồi-giáo cho họ cũng là giòng dõi của Abraham vì Ismael cũng là con của Abraham. Người Kitô giáo dựa vào giao ước Thiên Chúa đã ký kết với tổ-phụ. Một sự đọc lại bản giao ước này cần thiết để xóa tan mọi ngộ nhận và giúp mọi người sống thân mật với nhau.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong giao ước Thiên Chúa ký kết với tổ-phụ Abraham. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Thế Ký tường thuật bản giao ước Thiên Chúa ký kết với tổ-phụ Abraham. Thiên Chúa sẽ làm cho ông thành “cha nhiều dân tộc,” chứ không phải chỉ dân tộc Israel mà thôi. Phần Abraham và giòng dõi ông, họ phải tin và tuân giữ những gì Thiên Chúa dạy. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: Abraham đã vui mừng khi nhìn thấy ngày của Ngài; vì nhờ Ngài, lời Thiên Chúa hứa với tổ-phụ sẽ trở thành “cha nhiều dân tộc,” được thực hiện.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thiết lập giao ước vĩnh cửu với tổ-phụ Abraham.
1.1/ Phía của Thiên Chúa:
(1) Ngài hứa ban vô số dân tộc: Đây là một lời hứa rất quan trọng. Chúng ta cần tìm hiểu chi tiết của lời hứa này:
- Tên Abram có nghĩa “Cha được vinh quang.” Chúa đổi tên cho ông thành Abraham có nghĩa “Cha của một đám đông, ab hamôn.” Tên này ám chỉ lời Thiên Chúa hứa với ông: “Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc.”
- Điều quan trọng của lời hứa là giòng dõi của ông sẽ không còn giới hạn trong vòng Israel, nhưng lan rộng ra đến các dân tộc. Nếu chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Israel, Abraham không thể có con cháu nhiều như sao trên trời và như cát ngòai bãi biển được.
- Làm sao để lời hứa này hiện thực? Thánh Phaolô giúp chúng ta trả lời, bằng niềm tin của con người vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô. Mà nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô, thì anh em là dòng dõi ông Abraham, những người thừa kế theo lời hứa” (Gal 3:27-29).
- Vua chúa sẽ phát xuất từ ngươi: Hai nhân vật quan trọng của giòng dõi Abraham là Vua David và Chúa Giêsu Kitô.
- Giao ước này là giao ước vĩnh cửu: không lệ thuộc vào thời gian và không gian, được trải dài đến muôn vàn thế hệ.
(2) Ngài hứa ban Đất Hứa: “Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi sau này miền đất ngươi đang trú ngụ, tức là tất cả đất Canaan, làm sở hữu vĩnh viễn; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.” Đất Hứa là đất Canaan mà Joshua và con cái Israel sẽ chiếm đóng khi từ Ai-cập trở về.
1.2/ Phần của Abraham: Bổn phận chính yếu của Abraham và tất cả giòng dõi của ông là phải luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa và làm những gì Ngài dạy.
2/ Phúc Âm: Sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và tổ-phụ Abraham
2.1/ Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết: Chúa Giêsu cũng tuyên bố một câu tương tự với Martha khi cô cầu xin với Ngài cho em là Lazarus được sống lại: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Jn 11:25-26). Ở đây, Chúa Giêsu không có ý nói về cuộc sống thể lý; nhưng cuộc sống về đàng thiêng liêng. Những ai đã tin và giữ lời Chúa dạy, họ luôn sống; tuy họ sẽ phải chết về phần xác, nhưng đó chỉ là cách để đưa họ tới cuộc sống muôn đời với Thiên Chúa. Cuộc sống muôn đời trong tương lai đã bắt đầu ngay từ ở đời này.
Nhưng người Do-thái không hiểu ý Chúa Giêsu, nên họ nói: "Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám. Ông Abraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói: "Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết. Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Abraham sao? Người đã chết, các ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự xưng mình là ai?"
2.2/ Lời hứa của Thiên Chúa với Abraham được thực hiện nơi Đức Kitô.
(1) Chúa Giêsu biết Thiên Chúa và vâng lời Ngài: Chúa Giêsu tuyên bố: “Các ông không biết Người; còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi không biết Người, thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông.” Con người có cố gắng lắm cũng chỉ biết phần nào của Thiên Chúa, Chúa Giêsu biết Thiên Chúa như Thiên Chúa là, vì Ngài là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Nếu con người muốn biết Thiên Chúa, họ phải tin vào những mặc khải của Chúa Giêsu. Hơn nữa, Chúa Giêsu luôn vâng lời Thiên Chúa trong mọi sự. Nếu con người muốn biết thế nào là tuân theo ý định của Thiên Chúa, họ cũng phải học nơi Chúa Giêsu. Ngài hòan tòan làm theo ý định của Cha Ngài. Người Do-thái tuyên bố họ biết Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ đã không biết và không vâng lời Ngài.
(2) Tổ-phụ Abraham và Chúa Giêsu: Chúa Giêsu đã chứng minh cho người Do-thái trong trình thuật hôm qua: họ không phải là con cháu Abraham, vì họ không làm những gì ông làm. Trong trình thuật hôm nay, Ngài lại chứng minh cho họ một lần nữa: họ không phải là con cháu Abraham, vì họ không vui mừng đón tiếp Ngài như Abraham: “Ông Abraham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ.” Làm sao để hiểu lời tuyên bố này? Cách cắt nghĩa dễ nhất là dùng trình thuật của Lucas về dụ ngôn người phú hộ và Lazarus (Lk 16:22-31). Abraham đang ở trên trời nhìn xuống và thấy hết mọi sự. Nhưng đây chỉ là dụ ngôn Chúa dùng. Thực ra, truyền thống Do-thái tin Abraham đã được Thiên Chúa cho nhìn thấy ngày Đấng Thiên Sai ra đời và ông đã mừng rỡ. Truyền thống Giáo Hội tin Abraham và những người lành đã chết chỉ sống lại, khi Đức Kitô xuống Ngục Tổ Tông đưa các ngài lên trong đêm vọng Phục Sinh.
Người Do-thái phản đối: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Abraham!" Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!" Chúa Giêsu không lệ thuộc thời gian, Ngài không nói: trước khi Abraham có, Tôi đã có; nhưng nói Tôi Hằng Hữu. Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giêsu lánh đi và ra khỏi Đền Thờ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

Đọc lại giao ước vĩnh cửu Thiên Chúa đã ký kết với tổ-phụ Abraham cho chúng ta thấy những điều quan trọng sau đây:
(1) Giòng dõi của tổ-phụ Abraham được mở rộng đến các dân tộc, chứ không chỉ giới hạn trong dân tộc Israel.
(2) Mọi người đều có thể trở thành con cháu tổ-phụ Abraham bằng niềm tin vào Đức Kitô và làm những gì Ngài dạy.
(3) Nếu một người thuộc dân tộc Israel mà không tin và làm những gì Đức Kitô dạy, họ cũng không phải là con cháu của tổ-phụ Abraham; vì đã không tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

17/03/16 THỨ NĂM TUẦN 5 MC
Th. Pát-rích, giám mục
Ga 8,51-59

Suy niệm: Đã đến lúc Đức Giê-su nói rõ sự thật về Người, dù sự thật này có dẫn đến thập giá. Thật vậy, người Do thái thấy những lời Đức Giê-su nói chứa đầy nghịch lý: - chưa được năm mươi tuổi mà lại “có trước Áp-ra-ham”; - ai tuân giữ Lời Chúa thì được sống thế mà “Áp-ra-ham đã chết, và các ngôn sứ cũng vậy”; - và còn cả gan xưng mình là “Đấng Hằng Hữu” nữa chứ! Đúng là ‘cái miệng hại cái thân!’: tuyên bố mình có Lời ban sự sống mà chính mình lại bị đóng đinh thập giá! Thế nhưng nghịch lý của thập giá chỉ được giải mã khi được đẩy đến tận cùng: khi chính Đấng chịu đóng đinh đã từ cõi chết sống lại.
Mời Bạn: “Cánh cửa để đi vào hạnh phúc không chỉ là những suy nghĩ tích cực, mà phải là năng lực chấp nhận thực tế” (J.Cazapinxki). Thiên Chúa mời gọi chúng ta giũ bỏ các định kiến để mở lòng đón nhận thực tế của Ngài, một thực tế bất ngờ thậm chí còn phi lý nữa. Ta cần trở nên khác – suy nghĩ khác, hành động khác. Chỉ khi chiêm ngắm Đức Giê-su chịu đóng đinh, ta mới cảm nghiệm được Lời Chúa là sức sống cho mình.
Mời bạn chia sẻ một lần cảm nghiệm Lời Chúa đem lại sức sống cho bạn.
Sống Lời Chúa: Trong những ngày chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, ta dành thêm thời giờ cho việc hồi tâm, tĩnh tâm; bớt những cuộc vui chơi giải trí sa đà, để hiệp thông với Chúa Giê-su trong cuộc khổ nạn và để cảm nghiệm hơn tình Chúa yêu ta.
Cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết đón nhận thập giá trong đời con để nhờ đó con cũng nhận được sức sống của Ngài.”

Tôi hằng hữu 
Đức Giêsu vẫn cương trực nói điều phải nói và làm điều phải làm. Chúng ta xin có được sự cương trực đó khi phải làm chứng cho Chúa.


Suy nim:
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng việc Đức Giêsu bị ném đá.
Nhưng Ngài đã ẩn mình đi và ra khỏi Đền thờ (c. 59).
Ném đá là hình phạt của người Do thái chủ yếu dành cho kẻ phạm thượng.
Đức Giêsu đã làm gì để bị coi là mắc tội phạm thượng,
nghĩa là tội coi thường quyền tối thượng của Thiên Chúa?
Trước hết Đức Giêsu đặt mình lên trên tổ phụ đáng kính Abraham.
Ngài biết ông Abraham vui sướng mừng rỡ
vì hy vọng được thấy ngày của Ngài, thấy những việc Ngài làm đây (c. 56).
Abraham mừng vì chính Đức Giêsu, chứ không phải cá nhân mình,
mới là Đấng đem phúc lành cho mọi dân tộc trên thế giới.
Dù chưa tới năm mươi tuổi, Đức Giêsu dám coi mình là có trước ông Abraham.
“Trước khi có Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu” (c. 58).
Ta là Đấng Hằng Hữu là câu trả lời của Thiên Chúa cho ông Môsê
khi ông hỏi tên của Ngài bên bụi cây bốc cháy (Xh 3, 14).
Đức Giêsu cũng muốn trả lời câu hỏi về mình (c. 53) bằng lối nói đó.
Vì trước khi được sinh ra ở đời làm người, thì Ngài đã hiện hữu rồi.
Ngài là một với Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (Ga 1, 14-18),
bởi đó Ngài có trước Abraham, người đã sống trước Ngài gần hai ngàn năm.
Chính khẳng định bị coi là phạm thượng này đã khiến Ngài bị ném đá.
Đức Giêsu thường bị coi là ngạo mạn, tự tôn vì những lời như vậy.
Thật ra Ngài chẳng tự tôn vinh mình.
Chúa Cha mới là Đấng tôn vinh Ngài qua cái chết tủi nhục (c. 54).
Đức Giêsu cũng chẳng coi thường Thiên Chúa bao giờ.
Ngài gọi Thiên Chúa là Cha một cách thân thương,
và nhìn nhận: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14, 28).
Có một sự phân biệt rất rõ giữa Chúa Cha và Đức Giêsu:
Chúa Cha là người sai đi; Đức Giêsu là Con, là người được sai đi.
Đức Giêsu chỉ làm điều Ngài thấy Cha làm (Ga 5, 19-20; 8, 28-29),
và nói điều Ngài nghe Cha nói (Ga 8, 26. 40; 12, 49-50).
Triệt để vâng phục và tùy thuộc là nét đặc trưng của Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng Gioan, bao lần ta gặp cụm từ không tự mình.
Đức Giêsu không tự mình nói, cũng chẳng tự mình làm.
Ngài đòi chúng ta tuân giữ lời Ngài (c. 51)
chỉ vì chính Ngài cũng đã tuân giữ lời của Thiên Chúa (c. 55).
Trong tuần lễ này, tại nhà thờ các ảnh tượng có thể được che lại.
Khi bị ném đá, Đức Giêsu đã tránh đi vì giờ của Ngài chưa đến.
Đức Giêsu vẫn cương trực nói điều phải nói và làm điều phải làm.
Chúng ta xin có được sự cương trực đó khi phải làm chứng cho Chúa.
Cầu nguyn:

Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.

Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
R. Tagore
(Đỗ Khánh Hoan dịch)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

17 Tháng Ba
Chia Sẻ Ánh Sáng Cứu Ðộ

Ngày xưa có một người cha có ba đứa con trai. Ông vốn sinh ra nghèo khổ, nhưng nhờ chuyên cần làm việc và cần kiệm, nên ông trở nên một điền chủ giàu có. Lúc về già, gần đất xa trời, ông nghĩ tới chuyện chia gia tài cho các con. Nhưng ông cũng muốn xem đứa con nào thông minh nhất để phó thác phần lớn gia sản của ông cho nó. Ông liền gọi ba đứa con đến giường bệnh, trao cho mỗi đứa năm đồng bạc và bảo mỗi đứa hãy mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng trơ trọi mà ông đang ở.
Ba đứa con vâng lời cha cầm tiền ra phố. Người anh cả nghĩ rằng đây chỉ là một công việc dễ dàng. Anh ta ra tới chợ mua ngay một bó rơm rất lớn mang ngay về nhà. Người con thứ hai suy nghĩ kỹ lưỡng hơn: sau khi đi rảo quanh chợ một vòng, anh ta quyết định mua những bao lông vịt rất đẹp mắt. 
Còn người con trai thứ ba, suy nghĩ đi, suy nghĩ lại: làm sao mua được cái gì với năm đồng bạc này, để có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha mình. Sau nhiều giờ đắn đo, bỗng mắt chàng thanh niên hớn hở, anh ta lại căn tiệm nhỏ mất hút trong đường nhỏ gần chợ, anh ta mua cây đèn cầy và một hộp diêm. Trở về nhà, anh hồi hộp, không biết hai anh mình đã mua được cái gì.
Ngày hôm sau, cả ba người con trai đều họp lại trong phòng của cha già. Mỗi người mang quà tặng của mình cho cha: Người con cả mang rơm trải trên nền nhà của căn phòng, nhưng phòng quá lớn, rơm chỉ phủ được một góc nền nhà. Người con thứ hai mang lông vịt ra, nhưng cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng. Người cha cóvẻ thất vọng. Bấy giờ người con trai út mới đứng ra giữa phòng, trong tay chẳng mang gì cả. hai người em tò mò chăm chú nhìn em, và hỏi: "Mày không mua cái gì sao?". Bấy giờ đứa em mới từ từ rút trong túi quần ra một cây nến và hộp diêm. Thoáng một cái, căn phòng đầy ánh sáng. Mọi người đều mỉm cười. Người cha già rất sung sướng vì quà tặng của đứa con út. Ông quyết định giao phần lớn ruộng đất và gia sản của mình cho con trai út, vì ông thấy anh ta đủ thông minh để quản trị gia sản của mình và nhờ đó cũng có thể giúp đỡ các anh của nó nữa.
Ðứng trước khó khăn thử thách, để kêu gọi sự bình tĩnh sáng suốt và tinh thần hợp tác, người ta thường nói với nhau: thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.
Cuộc sống của mỗi người chúng ta, cuộc sống của những người xung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta có lẽ cũng giống như một căn phòng đen tối... Chỉ cần một người đốt lên một chút ánh sáng, những người xung quanh sẽ cảm thấy ấm cúng và phấn khởi.
Một chút ánh sáng của một cái mỉm cười. Một chút ánh sáng của một lời chào hỏi. Một chút ánh sáng của một san sẻ. Một chút ánh sáng của tha thứ. Và một chút ánh sáng của niềm tin được chiếu tỏa qua sự vui vẻ chấp nhận cuộc sống... Một chút ánh sáng ấy cũng đủ để nâng đỡ ít nhất là một người mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì không có một nghĩa cử nào được thực thi mà không ảnh hưởng đến người khác...
Lẽ  Sống

Lectio Divina: Gioan 8:51-59
Thứ Năm, 17 Tháng 3, 2016
Thứ Năm Tuần V Mùa Chay                            


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa là Thiên Chúa
Trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô
Chúa đã ban cho chúng con một tên gọi mới,
Tên của chính Con Một Chúa.
Nguyện xin cho chúng con có thể sống xứng đáng với thân phận mới của chúng con,
Là những kẻ sống vì người khác
Để phục vụ và dấn thân
Cùng với Đức Giêsu
Con Chúa và là Chúa chúng con đến muôn đời. 

2.  Phúc Âm – Gioan 8:51-59

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do Thái rằng:  “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi:  Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết”. 
Người Do Thái lại nói:  “Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám.  Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói:  ‘Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết.  Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao?  Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết.  Ông cho mình là ai?”
Chúa Giêsu trả lời:  “Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì.  Chính Cha Ta tôn vinh Ta.  Người là chính Đấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi.  Vậy mà các ngươi không biết Người.  Còn Ta, Ta biết Người.  Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi.  Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người.  Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy Ngày của Ta.  Ông đã thấy và đã vui mừng”.
Người Do Thái liền nói:  “Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?”
Chúa Giêsu trả lời:  “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi:  Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi”.
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi Đền Thờ.

3.  Suy Niệm

-  Chương 8 dường như là một cuộc triển lãm các tác phẩm nghệ thuật, nơi mà người ta có thể chiêm ngưỡng và lặng ngắm những bức tranh nổi tiếng, đặt bên cạnh nhau.  Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta một bức tranh, và cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Do Thái.  Không mấy có sự liên kết từ bức tranh này sang bức tranh kia.  Chính người thưởng lãm, nhờ vào sự quan sát tường tận và cầu nguyện của mình, mới có thể thành công khám phá chủ đề vô hình gắn kết các bức họa, các cuộc đối thoại giữa các bức tranh.  Vì vậy, chúng ta thấu sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa đang bao trùm con người của Chúa Giêsu.
-  Ga 8:51:  Bất cứ ai tuân giữ lời của Chúa Giêsu thì muôn đời sẽ không phải chết.  Chúa Giêsu đưa ra một lời xác tín long trọng; các tiên tri đã nói:  Sấm ngôn của Thiên Chúa!  Chúa Giêsu nói:  “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi!”  Và lời khẳng định long trọng như sau:  “Ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết!”  Cùng một chủ đề này xuất hiện và tái xuất hiện nhiều lần trong sách Tin Mừng Gioan.  Đây là những lời rất sâu sắc.   
-  Ga 8:52-53:  Abraham và các tiên tri đã chết.  Phản ứng của người Do Thái thì ngay tức thì:  “Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám.  Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói:  ‘Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết.’  Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao?  Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết.  Ông cho mình là ai?”  Họ đã không hiểu được tầm quan trọng và ý nghĩa của lời khẳng định của Chúa Giêsu.  Đó là cuộc đối thoại với kẻ điếc.  
-  Ga 8:54-56:  Chính Cha Ta tôn vinh Ta.  Một lần nữa và như thường lệ, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến cùng một điểm:  Người hiệp nhất với Chúa Cha đến nỗi mà mọi việc Người nói hay làm không là của Người.  Mọi việc thuộc về Chúa Cha.  Và Chúa Giêsu nói rằng:  “Người là chính Đấng các ngươi xưng là ‘Thiên Chúa của các ngươi’.  Vậy mà các ngươi không biết Người.  Còn Ta, Ta biết Người.  Nếu Ta nói‘Ta không biết Người’, thì Ta cũng nói dối như các ngươi.  Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người.  Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấyNgày của Ta.  Ông đã thấy và đã vui mừng”.  Những lời này của Chúa Giêsu phải được xem như là một nhát cuốc làm tổn thương lòng tự trọng của người Do Thái.  Nói với những người lãnh đạo tôn giáo rằng:  “Các ngươi không biết Thiên Chúa, Đấng mà các ngươi nói các ngươi biết.  Ta biết Người và các ngươi không biết Người!”  Giống như thể đó là lời tố cáo sự hoàn toàn kém hiểu biết chính xác của họ về chủ đề mà họ nghĩ rằng họ là những nhà thông bác uyên thâm.  Và câu cuối cùng làm tăng thêm mức đo lường:  “Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy Ngày của Ta.  Ông đã thấy và đã vui mừng”.
-  Ga 8:57-59:  “Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?” Họ đã hiểu mọi chuyện theo nghĩa đen; vì thế cho thấy rằng họ đã không hiểu bất cứ điều gì về những lời Chúa Giêsu đang nói.  Và Chúa Giêsu lại dõng dạc nói một lời xác tín long trọng khác:  “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi:  Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi”
Đối với những ai tin vào Chúa Giêsu, tại đây chúng ta tiến tới trọng tâm của mầu nhiệm câu chuyện.  Một lần nữa, họ lượm đá để định giết Chúa Giêsu.  Nhưng lần này họ chưa thành công bởi vì giờ của Chúa chưa đến.  Người xác định giờ khắc đó chính là Chúa Giêsu.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân

-  Cuộc đối thoại giữa Chúa và người Do Thái là cuộc đối thoại với kẻ điếc.  Thỉnh thoảng bạn đã có kinh nghiệm nói chuyện với một người suy nghĩ hoàn toàn trái ngươc lại với những gì bạn nghĩ và kẻ ấy lại không nhận biết được điều đó chưa?   
 Chúng ta có thể hiểu câu nói này như thế nào:  “Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy Ngày của Ta.  Ông đã thấy và đã vui mừng”?

5.  Lời nguyện kết

Hãy tìm CHÚA và sức mạnh của Người,
Chẳng khi ngừng tìm kiếm Thánh Nhan.
Hãy nhớ lại những kỳ công Người thực hiện,
Những dấu lạ và những quyết định Người phán ra.
(Tv 105:4-5)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét