20/03/2016
Chúa Nhật Lễ LÁ năm C
(phần Iii)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật Lễ Lá - Năm C
CHÚA NHẬT LỄ LÁ
TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA
TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA
Lc 19,28-40; Is 50,4-7; Pl
2,6-11; Lc 23,1-49
“Lạy Cha, Con xin phó thác hồn Con
trong tay Cha” (Lc 23,46)
trong tay Cha” (Lc 23,46)
Trong Chúa
Nhật Lễ Lá hôm nay, người tín hữu khắp nơi trên thế giới cùng hòa mình vào các
đoàn rước, cầm nhành lá trên tay, noi gương dân thành Giêrusalem, hoan hỷ đón
Chúa Giêsu Kitô ngự đến cộng đoàn phụng vụ của mình, ngự vào tâm hồn mỗi người
chúng ta, như Vị Vua đầy nhân hậu và khoan dung, Vị Vua vĩnh cửu, hiển trị
thiên đường. Thánh Thi mừng Chúa Kitô Vua có đoạn viết:
“Câu chúc tụng, lời tung hô vạn tuế
Kính dâng Ngài, lạy Vua Cả Kitô
Xin tôn vinh Đấng Cứu Chuộc nhân từ
Như toàn thể thiếu nhi xưa mừng Chúa”.
Kính dâng Ngài, lạy Vua Cả Kitô
Xin tôn vinh Đấng Cứu Chuộc nhân từ
Như toàn thể thiếu nhi xưa mừng Chúa”.
Ngoài
nghi thức làm phép lá và rước kiệu, phụng vụ Lời Chúa trong Thánh Lễ còn cho
chúng ta nghe lại những đoạn đoạn sách linh hứng có liên hệ đến Cuộc Thương Khó
của Chúa Giêsu Kitô, thổi bùng lên trong lòng chúng ta tình cảm mến tri ân Đấng
đã vì yêu thương chúng ta mà sẵn lòng đón nhận mọi khổ đau, thương tích và cả
cái chết ô nhục trên thập giá.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1- BÀI ĐỌC 1: Is
50,4-7
Bài đọc 1 là trích đoạn chính trong bài ca thứ ba về người Tôi
Trung của Thiên Chúa Yahweh (Is 50,4-9). Các bài ca còn lại về người Tôi Trung
này xuất hiện ở Is 42,1-4; 49,1-6; 52,13-53,12. Trong bài đọc 1 này, Người Tôi
Trung phải chịu cảnh nhục nhã ê chề, đau đớn về mặt thể lý lẫn tinh thần. Vì
muốn sống trọn lòng vâng phục của mình với Thiên Chúa, Người Tôi Trung đã vui
lòng đón nhận việc “đưa
lưng cho người ta đánh đòn, đưa má cho người ta giật râu, không che mặt khi bị
mắng nhiếc phỉ nhổ”. Quả thật, cảm nghiệm và kinh nghiệm bị người
đời đối xử bất công, bị hành hạ về thể lý, bị nhục mạ về tinh thần, vốn thường
là những hậu quả không tránh khỏi của không ít những ai muốn sống trung tín với
Thiên Chúa, với sứ mạng Người trao.
Người
Tôi Trung cảm nhận mình đã được Thiên Chúa giảng dạy, đã được Thiên Chúa mở
tai, để được lắng nghe tiếng Người. Về phía mình, Người Tôi Trung đã không
ngoảnh mặt làm ngơ trước những gì Chúa dạy. Ngài đã không thoái lui trước sứ
mạng Chúa trao. Với khả năng được Thiên Chúa trao ban cho mình, Người Tôi Trung
đã trình bày Lời Chúa như một “người môn đệ”, tức là, như người giảng dạy Lời
Chúa cho dân, phát xuất từ những kinh nghiệm thâm sâu của chính mình với “Đức
Chúa là Chúa Thượng” (3x, cc.4.5.7), là bậc tôn sư của mình. Chính từ kinh
nghiệm thân tình này với Thiên Chúa, mà Người Tôi Trung biết dùng lời lẽ “nâng
đỡ những ai kiệt sức rã rời”.
Người tín hữu chúng ta không khó nhận ra những lời này đã được
ứng nghiệm trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Chính Người đã từng dùng những lời an
ủi nâng đỡ chúng ta: “Tất
cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ
ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Với những ai đang đau khổ buồn phiền vì
mang lấy gánh nặng của tội lỗi nơi mình, Chúa Giêsu đã mang lại cho họ niềm hy
vọng và niềm tin vào lòng xót thương của Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã
ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên
án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”
(Ga 3,16-17).
Nhưng
không phải tất cả mọi người đều sẵn lòng nghe tiếng Người Tôi Trung giảng dạy.
Không ít kẻ đã tỏ thái độ thù nghịch với Người Tôi Trung. Họ đã đối xử với Ngài
bằng những hình thức bất công và bạo lực, nhằm làm lung lay tinh thần của Ngài.
Nhưng từ cảm nghiệm thiêng liêng sâu xa trong tình thân với Thiên Chúa, tức là
nghiệm thấy một đàng, những hành vi nhục mạ kia không phải do lỗi của Người Tôi
Trung, nhưng do sự ghen ghét đố kỵ của những kẻ chống lại Ngài mà ra; đàng
khác, và đây là điểm sâu xa hơn, đó là Người Tôi Trung nghiệm thấy Đức Chúa luôn
là Đấng phù trì, bênh đỡ mình ngay cả trong những hoàn cảnh tưởng chừng bi đát
nhất. Từ kinh nghiệm thiêng liêng này, mà Người Tôi Trung không tỏ ra nao núng,
nhưng cương quyết hơn bao giờ hết trước sứ mạng được Thiên Chúa trao ban.
Đối với người tín hữu chúng ta, những lời ngôn sứ về tình cảnh
đau thương của Người Tôi Trung – việc “đưa
lưng cho người ta đánh đòn, đưa má cho người ta giật râu, không che mặt khi bị
mắng nhiếc phỉ nhổ” (c6) - đã được ứng nghiệm theo nghĩa đen của
hạn từ trong Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu (x. Mt 26,57; 27,30; Mc 14,65;
15,16-20; Lc 22,63).
2- BÀI ĐỌC 2: Pl
2,6-11
Bài đọc 2 được xem là một trong những đoạn Kinh Thánh ghi đậm
nét Kitô học nhất trong toàn bộ Tân Ước. Thánh Phaolô đã trình bày bài thánh
thi này như lời mời gọi sâu xa đối với từng người tín hữu: “hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một
lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ghen tị
hay hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi
người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác”
(Pl 2,2-4).
Ngài mời gọi người tín hữu hãy học nơi Đức Giêsu Kitô gương tự
hạ hoàn toàn, xóa mình ra không, vì lợi ích phần rỗi của con người. Quả thật,
bài thánh thi này đã tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã hóa mình ra không,
Ngài là Đấng “vốn dĩ là
Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa”, nhưng đã “hoàn
toàn trút bỏ vinh quang”, nên một trong chúng ta trong mầu nhiệm
Nhập Thể của Người. Điều này không có nghĩa là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên
Chúa Nhập Thể, không còn là Thiên Chúa nữa. Không, Ngài mãi là Thiên Chúa theo
thần tính của Người. Nhưng với mầu nhiệm Nhập Thể, Ngài là Thiên Chúa theo hình
thái khác: Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa với “thân xác” như chúng ta,
nghĩa là chịu những giới hạn tự nhiên đi kèm theo thân xác ấy.
Với
thân xác như chúng ta, Đức Giêsu Kitô là “Thiên Chúa ẩn mình”. Ngay cả các môn
đệ là những người cận kề bên Người thường ngày, cũng không dễ dàng nhận ra
“thần tính” của Người. Khi Chúa Giêsu thi hành sứ vụ công khai của Người, chỉ
có ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người được Chúa Giêsu ban cho
những giây phút hạnh phúc ngất ngây nhất, khi chiêm ngắm Chúa Giêsu biến hình,
bày tỏ vinh quang Thiên Chúa rạng ngời vinh hiển của Người. Quả thật, vào thế
kỷ I, không mấy ai nhận ra vinh quang Thiên Chúa nơi Đức Giêsu tại thế, đó là
vì Người đã tự nguyện “trút bỏ vinh quang”, nghĩa là đã ẩn dấu vinh quang thần
linh ấy nơi cuộc sống thường ngày của Người.
Người
lại còn hạ mình hơn nữa, khi vâng phục đón nhận cái chết đau đớn và ô nhục trên
thập giá, vì tình yêu dành cho Thiên Chúa Cha và vì phần rỗi của từng người
chúng ta. Vì thế, hơn ai hết, Đấng đã hạ mình tột bậc, vốn thể hiện rõ nét nhất
trong Cuộc Thương Khó, nay với biến cố Phục Sinh, xứng đáng được Thiên Chúa
siêu tôn, với danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu, và được mọi loài
trên trời, dưới đất, trong nơi âm phủ bái lạy Người, tôn xưng Người là Chúa.
3- BÀI TIN MỪNG: Lc
22,14 – 23,56
Bài
đọc về Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô làm nổi bật những hình ảnh tương
phản, những nhân vật có những vai trò khác nhau. Những hình ảnh và những nhân
vật này đáng để chúng ta suy gẫm:
1. Vì
yêu thương nhân loại, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể để ở lại mãi
với chúng ta. Người muốn hiến thân mình để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Nhưng các môn đệ lại chưa hiểu được những điều tâm huyết Chúa muốn chia sẻ với
họ trước khi Người bước vào thời khắc quyết định trong Cuộc Thương Khó. Họ lại
còn cãi nhau sôi nổi xem ai là người cao trọng nhất trong nhóm.
2. Tại
Vườn Dầu, Chúa Giêsu tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha. Có lúc Người lâm cơn
xao xuyến bồi hồi, mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất. Trong khi đó,
các môn đệ lại đang ngủ, chẳng màng gì đến lời Chúa khuyên bảo họ trước đó:
“Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”.
3.
Phêrô tỏ rõ quyết tâm theo Chúa Giêsu, ông thưa với Người: “Lạy Chúa, dầu có
phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng”. Nhưng Chúa Giêsu
lại tiên báo: “hôm nay gà chưa kịp gáy, thì anh đã ba lần chối là không biết
Thầy”.
4.
Chúa Giêsu yêu mến các môn đệ của Người. Nhưng Giuđa lại bán Chúa bằng một nụ
hôn giả hình. Phêrô đủ can đảm chém đứt tai tên đầy tớ, nhưng lại không dám
tuyên nhận mình là người môn đệ của Chúa.
5.
Chúa Giêsu là một bậc thầy công chính, nhưng các thượng tế, kinh sư, kỳ mục và
đám tùy tùng lại tìm bắt Chúa như bắt một tên trộm cướp. Nhiều phiên tòa được
tổ chức vội vã để lên án tử cho Giêsu. Những câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu
đều mang tính gài bẫy, hòng tìm cách giết Người cho bằng được. Trước tòa án tôn
giáo, họ nại đủ lý do mang tính tôn giáo để tìm cách giết Người. Trước toàn án
Philatô, những kẻ tố cáo Người phát biểu lấp liếm, tạo lý do chính trị để
Philatô dễ kết án Người.
6.
Quan tổng trấn Philatô tỏ ra là một người bạc nhược, khiếp sợ trước sức ép của
dân chúng. Ông không muốn can thiệp, đứng về lẽ phải, dù ông biết rõ Chúa Giêsu
chẳng có tội gì. Để khỏi nhọc công, ông đùn đẩy vụ việc sang vua Hêrôđê. Cuối
cùng, dù thừa biết Chúa Giêsu chẳng có tội gì, và thừa biết do sự ghen tức mà
các vị lãnh đạo dân Do-thái đã nộp Người cho mình, Philatô đã cho đánh đòn để
thị uy, rồi cho giết Người để làm vui lòng dân chúng.
7. Vua
Hêrôđê gặp Chúa Giêsu thì mừng lắm, nhưng thực ra ông chỉ mong xem một vài phép
lạ Chúa làm cho vui, để thỏa chí tò mò. Ông tỏ ra mình là người biết điều tra.
Ông hỏi nhiều điều. Nhưng khi Chúa không trả lời, vua và thị vệ đều khinh dể
Người ra mặt, khoác cho Chúa một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, như thể xem Người
là người khờ khạo, chẳng biết gì, hỏi gì cũng chẳng biết đối đáp.
Qua
những nhân vật khác nhau, qua những hình ảnh tương phản, trình thuật Cuộc
Thương Khó của Chúa Giêsu như muốn làm nổi bật:
1.
Chiến thắng của tình yêu Chúa Giêsu trên lòng hận thù của các thượng tế, kinh
sư, và các kỳ mục
2.
Chiến thắng của lòng thành tín nơi Chúa Giêsu trên sự phản bội của Giuđa
3.
Chiến thắng của sự can trường nơi Chúa Giêsu trên sự khiếp nhược của Phêrô
4.
Chiến thắng của sự thật trên sự mù quáng chính trị và thói mị dân của Philatô
5.
Chiến chắng của lòng quả cảm và sự khiêm hạ nơi Chúa Giêsu trên sự hung tàn của
các người lính Rôma
6.
Chiến thắng của sự tha thứ nơi Chúa Giêsu trên sự nhục mạ của tên trộm dữ, của
bao kẻ qua lại dưới thánh giá.
7.
Chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối sự chết; của sự thiện trên sự dữ.
Trong
Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, thánh sử Luca cho chúng ta thấy vẫn có những
người đang âm thầm được tình yêu, sự khiêm hạ tột cùng, và sự tha thứ của Chúa
Giêsu thuyết phục và cảm hóa: ông Simon người Kyrênê; các phụ nữ thành
Giêrusalem; người trộm lành; viên đại đội trưởng; của bao người đã biết đấm
ngực ăn năn; của ông Giuse, người thành Arimathea, v.v.
II. CÂU HỎI GỢI Ý
1.
Chúa Giêsu đã bước vào Cuộc Thương Khó vì từng người chúng ta. Khi nhìn về cuộc
đời của mình, bạn và tôi thấy mình trong tương quan với Chúa Giêsu đang sống
hay hành xử giống với những nhân vật nào trong biến cố này?
2.
Chúa Giêsu đã chịu chết để bạn và tôi được sống. Bạn và tôi đã, đang, và sẽ làm
gì cho Chúa, để diễn tả tâm tình cảm mến tri ân Người?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Tình yêu
cứu độ của Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại đã thể hiện trọn vẹn trên thánh
giá qua cái chết của Đức Giêsu, Con Một yêu dấu của Người. Với tâm tình tri ân
cảm tạ, chúng ta cùng tin tưởng và tha thiết dâng lời nguyện xin.
1. Đức
Giêsu đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Xin Chúa cho mọi
thành phần trong Hội Thánh luôn biết hạ mình và hy sinh theo gương Thầy Chí
Thánh, dấn thân phục vụ và loan báo Tin Mừng cứu độ cho con người thời đại hôm
nay.
2. Cuộc
vượt qua của Chúa Kitô đem lại ơn giải thoát toàn diện cho nhân loại. Xin cho
những người đang đau khổ ở khắp nơi trên thế giới, tìm được nguồn an ủi nơi
cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, cho những ai đã qua đời được chia sẻ vinh quang
phục sinh cùng với Người.
3. Chúa
Giêsu nói với kẻ trộm lành: “Ngay hôm nay, anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta.”
Xin cho mọi kitô hữu, cách riêng những người trẻ, luôn đặt trọn niềm trông cậy
nơi Chúa, và siêng năng đến với Người qua việc tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận
các bí tích.
4. Chúa
Giêsu bước vào cuộc thương khó trong tâm tình vâng phục thánh ý Chúa Cha. Xin
cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta biết ý thức chu toàn ý Chúa qua bổn phận
hằng ngày, luôn tích cực loan báo niềm vui và hy vọng đích thực cho mọi người
chung quanh.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha giàu
lòng thương xót, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và dẫn đưa chúng con ngày
càng tiến sâu vào trong sự sống viên mãn mà Đức Giêsu Kitô đã đem đến cho nhân
loại nhờ sự chết và cuộc phục sinh của Người. Người hằng sống và hiển trị muôn
đời.
Lectio Divina: Chúa Nhật Lễ Lá (C)
Chúa Nhật, 20 Tháng 3,
2016
Cuộc tử nạn của Chúa
Giêsu:
Khi tình yêu đi đến
tột điểm
Lc 22:14-23,56
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa Thánh Thần,
Đấng đã được ban xuống thế gian bởi cái
chết của Chúa,
xin hãy hướng dẫn chúng con chiêm niệm
và hiểu được
con đường thập giá của Đấng Cứu Độ chúng
con
và tình yêu mà Người đã đi trên con
đường này.
Xin hãy ban cho chúng con đôi mắt và
trái tim của những người thật sự tin vào Chúa,
Để chúng con có thể cảm nhận được
Mầu nhiệm vinh quang của thập giá.
“Nhờ cây thập giá, qua đó chúng con
không còn phải lang thang trong sa mạc,
Bởi vì chúng con đã biết con đường chân
chính;
Chúng con không còn sống bên ngoài nhà
của Thiên Chúa, Vua của chúng con,
Bởi vì chúng con đã tìm thấy lối vào;
Chúng con không còn sợ những ngọn giáo
hung hăng của quỷ dữ,
Bởi vì chúng con đã tìm thấy được suối
nước.
Nhờ Người, chúng con không còn đơn côi,
Bởi vì chúng con đã tìm lại được người
phối ngẫu;
Chúng con không còn lo sợ thế gian,
Bởi vì giờ đây chúng con đã tìm được vị
Mục Tử Nhân Lành.
Nhờ cây thập giá
Những bất công của kẻ quyền thế không
làm chúng con sợ hãi nữa,
Bởi vì chúng con được ngồi vào cùng bàn
với Đấng Quân Vương” (trích thánh Gioan Kim Khẩu).
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Bối cảnh phụng vụ: truyền
thống cổ xưa của việc rao giảng Tin Mừng về cuộc Thương Khó và cái chết của
Chúa Giêsu Kitô trong dịp cử hành ngày Chúa Nhật trước lễ Phục Sinh, quay ngược
thời gian khi việc cử hành Tuần Thánh bị giảm tới mức tối thiểu. Mục
đích của bài đọc là để hướng dẫn người nghe chiêm niệm về mầu nhiệm cái chết để
chuẩn bị cho sự phục sinh của Chúa và vì thế, đó là điều kiện mà người tín hữu
tham gia vào “cuộc sống mới” trong Đức Kitô. Tập quán của việc đọc
bài Tin Mừng dài này chia thành nhiều đoạn, không những chỉ giúp cho bài đọc
bớt phần đơn điệu để tạo điều kiện cho việc chăm chú lắng nghe, mà cũng để bao
gồm cả cảm xúc thông phần của người nghe, gần như làm cho họ cảm thấy hiện diện
và dự phần trong bài tường thuật.
Hai bài đọc trước bài
Phúc Âm của Chúa Nhật tuần này giúp chúng ta với lời giải thích đưa ra một quan
điểm nhất định về văn bản: Người Tôi Tớ của Đấng Gia-Vê là Đức
Giêsu, Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng mà qua cái chết nhục nhã của Người,
đi vào vinh quang của Thiên Chúa Cha và thông hiệp chính sự sống mình với những
ai lắng nghe và tiếp nhận Người.
Bối cảnh Tin Mừng: Ai cũng
biết rằng trọng tâm môi trường văn học mà các sách Tin Mừng được viết là Lễ
Vượt Qua của Chúa: cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại của
Người. Vì vậy, chúng ta có ở đây một văn bản cổ đại và đồng nhất
trong cấu trúc văn học của nó, dù rằng nó đã được viết qua một quá trình từ
từ. Tuy nhiên, tầm quan trọng của nó thì tột bực: trong đó,
chúng ta được biết sự kiện căn bản của đức tin Kitô giáo, điều mà mọi tín hữu
phải đối diện và tuân theo (mặc dù văn bản phụng vụ của Chúa Nhật tuần này kết
thúc với việc mai táng của Chúa Giêsu).
Như thường lệ, Luca
chứng tỏ là một người kể chuyện hiệu quả và tinh tế, là người để ý đến các chi
tiết và có khả năng làm cho độc giả có ý niệm đại cương về cảm xúc và động lực
nội tâm của các nhân vật chính, hơn hết cả là Đức Giêsu. Sự đau khổ
khủng khiếp và bất công mà Chúa Giêsu gánh chịu được gạn lọc qua thái độ bất di
bất dịch của lòng thương xót đối với tất cả mọi người, ngay cả những kẻ bắt bớ
và sát hại Người. Một số những người này đã xúc động vì cách Người đối
diện với sự thống khổ và cái chết, đến nỗi mà họ cho thấy dấu hiệu của niềm tin
vào Người: sự đau khổ của cuộc thương khó được trở thành dịu dàng
bởi quyền năng tình yêu Thiên Chúa của Đức Giêsu.
Trong bối cảnh của
sách Tin Mừng thứ ba, Chúa Giêsu đi vào Thành Thánh chỉ một
lần: thời điểm quyết định đối với lịch sử nhân loại của Đức Kitô và
cho lịch sử ơn cứu độ. Toàn bộ quyển sách Tin Mừng của Luca cũng
giống như sự chuẩn bị lâu dài cho các sự kiện vào những ngày cuối cùng mà Chúa
Giêsu vào thành Giêrusalem, rao giảng và hoạt động tại những thời điểm thậm chí
một cách quy mô (đặc biệt là việc xua đuổi những kẻ buôn bán trong Đền Thờ
19:45-48), vào những lúc khác thì một cách bí ẩn hoặc trong một phong cách trêu
chọc (đặc biệt là câu trả lời liên quan đến việc nộp thuế cho Xêsarê,
20:19-26). Chẳng phải là việc tình cờ mà Thánh Sử lại xếp đặt nhiều
sự kiện và lời nói cùng với nhau trong những ngày cuối cùng này trong khi các
sách Phúc Âm Nhất Lãm khác thì đặt những nơi khác trong đời sống công khai của
Chúa Giêsu. Tất cả những điều này xảy ra trong khi mưu đồ của các
thượng tế trong xứ ngày càng phức tạp ly kỳ và trở nên hiển nhiên hơn bao giờ
hết, cho đến khi Giuđa cho họ một cơ hội bằng vàng và bất ngờ (22:2-6).
Trong giai đoạn cuối
cùng và dứt khoát này của cuộc đời Chúa, vị Thánh Sử thứ ba đã sử dụng các
thuật ngữ khác nhau như “ra đi” hay là “cuộc xuất hành” (9:31), “đi lên” (9:51)
và “hoàn tất” (13:32). Do đó, thánh Luca hướng dẫn chúng ta tìm
hiểu, trước sự việc, làm thế nào giải thích cái chết khủng khiếp và nhục nhã
của Đức Kitô là Đấng mà họ đã giao phó cuộc đời họ: Người hoàn tất
một giai đoạn đau đớn và khó hiểu, nhưng “cần thiết” trong chương trình cứu rỗi
(9:22; 13:33; 17:35; 22:37) để mang lại thành công (“hoàn thành”) cuộc hành
trình của Người hướng tới vinh quang (xem 24:26;
17:25). Cuộc hành trình này của Đức Giêsu là khuôn mẫu cho cuộc hành
trình phải đạt được bởi mỗi môn đệ của Người (Cv 14:22).
b) Phần phân đoạn văn bản để
trợ giúp cho bài đọc:
Câu chuyện bữa tiệc
ly: từ câu 22:7 đến câu 22:38;
Lời cầu nguyện của
Chúa Giêsu trong Vườn Giệtsêmani: từ câu 22:39 đến câu 22:46;
Việc bắt giữ và quá
trình tố tụng của người Do Thái: từ câu 22:47 đến câu 22:71;
Quá trình xử án trước
tổng trấn Philatô và vua Hêrôđê: từ câu 23:1 đến câu 23:35;
Bản án, việc đóng đinh
và cái chết: từ câu 23:26 đến câu 23:49;
Các sự kiện sau cái
chết: từ câu 23:50 đến câu 23:56.
c) Tin Mừng:
Câu chuyện bữa tiệc ly
14 Đến giờ, Chúa Giêsu
vào bàn ăn với mười hai tông đồ 15 và bảo các ông:
"Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu
khổ nạn. 16Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này
nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa". 17 Rồi
Người cầm chén, tạ ơn và phán: "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho
nhau: 18 Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ
nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!" 19 Đoạn
Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: "Này là Mình
Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". 20 Cùng
một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: "Chén này là
Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. 21 Vả lại này
tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. 22Đành rằng Con
Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!" 23 Bấy
giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó.
24 Giữa các ông cũng xảy
ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. 25 Nhưng
Người bảo: "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền
hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. 26 Phần các
con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người
nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. 27 Vì
người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư?
Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. 28 Còn
các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, 29 và
Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, 30 để
các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử
mười hai chi tộc Israel!"
31 Rồi Chúa nói:
"Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, 32nhưng
Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy
làm cho anh em con vững tin". 33 Ông thưa
Người: "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu
chết". 34 Nhưng Người đáp: "Phêrô, Thầy bảo cho
con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết
Thầy". 35 Và Người bảo các ông: "Khi Thầy sai
các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có
thiếu thốn sự gì không?" Các ông thưa: "Không
thiếu gì cả". 36 Vậy Người nói: "Nhưng bây giờ
ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có
gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm.37 Vì Thầy bảo
các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: 'Người đã
bị liệt vào số những kẻ gian ác'. Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn
tất". 38 Các ông thưa Người: "Thưa
Thầy, này có hai thanh gươm đây". Và Người bảo: "Đủ rồi".
Lời cầu nguyện của
Chúa Giêsu trong Vườn Giệtsêmani
39 Đoạn Người ra đi lên
núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. 40 Đến
nơi, Người bảo các ông: "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám
dỗ". 41 Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném
một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: 42 "Lạy Cha,
nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một
theo ý Cha". 43 Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra
an ủi Người. 44 Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết
tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. 45 Cầu
nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang
ngủ vì buồn sầu. 46Người liền bảo: "Các con ngủ ư? Hãy dậy
và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ".
Việc bắt giữ và quá
trình tố tụng của người Do Thái
47 Người còn đang nói,
thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn
lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. 48 Chúa Giêsu bảo hắn:
"Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?" 49 Thấy
các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền
hỏi: "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém
không?" 50 Và một người trong các ông chém tên đầy tớ
thầy thượng tế đứt tai phải. 51 Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng
bảo: "Thôi, đủ rồi". Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy
mà chữa cho y lành lại. 52 Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến
bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: "Các
ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? 53 Hằng
ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây
là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm".
54 Chúng liền bắt Người
và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa. 55Họ
đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. 56 Một
đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: "Cả ông này
cũng theo hắn". 57 Nhưng ông chối và
nói: "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy". 58 Một
lát sau, có người khác nhìn ông và nói: "Chính ông cũng là
người trong bọn đó". Nhưng Phêrô đáp: "Này anh, đâu có phải
tôi". 59 Chừng một giờ sau, một người khác lại quả
quyết rằng: "Đúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ
Galilêa". 60 Phêrô đáp: "Này anh, tôi không biết
anh muốn nói gì?" Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. 61 Chúa
Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước:
Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. 62 Phêrô liền ra
ngoài và khóc lóc thảm thiết.
63 Những kẻ canh giữ
người, nhạo cười và đánh đập Người. 64 Chúng che mặt
Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: "Hãy đoán xem ai đánh ngươi
đó". 65 Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ
Người.
66 Vừa sáng ngày, các kỳ
lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước
công nghị mà nói: 67 "Nếu ông là Đấng Kitô, hãy nói
cho chúng tôi hay". Người trả lời: "Tôi có nói, các ông cũng chẳng
tin tôi, 68 và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời
và cũng chẳng tha tôi. 69 Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ
ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng". 70 Mọi người đều
hỏi lại: "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?" Người đáp:
"Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa". 71 Bấy
giờ họ nói: "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng
nghe y nói".
Quá trình xử án trước
tổng trấn Philatô và vua Hêrôđê
1 Đoạn tất cả bọn họ
đứng dậy và giải Người đến Philatô. 2 Họ bắt đầu tố cáo
Người rằng: "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn,
ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua". 3 Philatô
hỏi Người: “Ông là Vua dân Do Thái ư? Người trả
lời: “Chính ngài nói đó.” 4 Philatô bảo các
thượng tế và đám đông rằng: "Ta không thấy người này có tội
gì". 5 Nhưng họ cố nài rằng: "Người
này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến
đây".
6 Philatô vừa nghe nói
đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa
không. 7 Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê,
quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày
ấy. 8 Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu,
ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người
làm một vài phép lạ. 9 Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời,
nhưng Người không đáp gì hết. 10 Trong khi ấy, các thượng
tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. 11 Còn Hêrôđê cùng
các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo
choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. 12 Chính ngày
đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.
13 Bấy giờ Philatô triệu
tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, 14 rồi
bảo họ: "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm
loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này
phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. 15 Cả vua
Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng
không thấy có chi đáng tội chết cả. 16 Vậy ta sẽ cho sửa
phạt, rồi tha đi".
18 Mỗi dịp lễ, quan tổng
trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên:
"Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi". 19 Tên
này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. 20 Nhưng
Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. 21 Nhưng
chúng càng la to hơn và nói: "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào
thập giá!" 22 Lần thứ ba, quan lại nói với dân
chúng: "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý
do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi". 23 Chúng
lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét
của chúng càng dữ dội hơn. 24 Philatô liền tuyên án theo
lời chúng yêu cầu. 25 Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm
tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì
quan trao phó để mặc ý chúng.
Bản án, việc đóng đinh
và cái chết
26 Khi điệu Người đi,
chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác
thập giá theo sau Chúa Giêsu. 27 Đám đông dân chúng theo
Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. 28 Nhưng
Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc
thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. 29 Vì
này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho
những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". 30 Bấy
giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng
tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi
đi". 31Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra
sao?"
32 Cùng với Người, chúng
còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. 33 Khi đã đến nơi
gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp,
một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. 34 Bấy giờ Chúa
Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc
chúng làm". Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. 35 Dân
chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà
rằng: "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó
thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". 36 Quân
lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống 37 và
nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". 38 Phía
trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau:
"Người này là vua dân Do-thái".
39 Một trong hai kẻ trộm
bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: "Nếu ông là
Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". 40 Đối
lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi
chẳng sợ Thiên Chúa sao. 41Phần chúng ta, như thế này là đích
đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm
gì xấu đâu?" 42 Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:
"Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". 43 Chúa
Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên
đàng với Ta".
44 Lúc đó vào khoảng giờ
thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. 45 Mặt
trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa
Giêsu kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay
Cha". Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng
thờ lạy trong giây lát)
47 Thấy sự việc xảy ra,
viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: "Ông này quả thật là
người công chính". 48 Và tất cả dân chúng có mặt thấy
cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về. 49 Đứng
xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa,
họ cũng chứng kiến.
Các sự kiện sau cái
chết
50 Tuy nhiên, có một công
nghị viên tên là Giuse, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, người tốt
lành và công chính. 51 Ông này đã không đồng ý với mưu
toan và hành động của các công nghị viên khác, chính ông cũng trông đợi nước
Chúa. 52 Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. 53 Đoạn
ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa
táng xác ai. 54 Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang
ngày Sabbát. 55 Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với
Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế
nào. 56 Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm.
Nhưng trong ngày Sabbát, các bà nghỉ theo đúng luật.
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để cho Lời Chúa có thể
thấm nhập vào lòng chúng ta và chiếu soi trên đời sống chúng ta.
5. Một vài
câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong
phần suy gẫm và cầu nguyện cá nhân.
a) Vào cuối
bài đọc dài này, những cảm giác nào đang xâm chiếm hồn tôi: đó có
phải là cảm giác thở ra nhẹ nhõm vì bài đọc đã kết thúc, hay sự ngưỡng mộ đối
với Chúa Giêsu, đau đớn cho nỗi đau của Người, vui mừng vì ơn cứu độ đã hoàn
thành, hay là cảm giác nào khác?
b) Tôi đọc
lại bài đọc và đặc biệt chú ý đến phương cách mà những “kẻ quyền thế” đã ứng
xử: các kỳ lão, các Luật Sĩ và Biệt Phái, tổng trấn Philatô, vua
Hêrôđê. Tôi nghĩ gì về họ? Tôi nghĩ mình sẽ suy nghĩ,
hành động, nói năng và quyết định như thế nào nếu tôi ở trong địa vị của
họ?
c) Tôi đọc
lại bài Thương Khó một lần nữa, và lần này, chú ý đến hành vi của “những kẻ nhỏ
bé”: các môn đệ, dân chúng, những cá nhân, các người phụ nữ, những
người lính và những người khác. Tôi nghĩ gì về họ? Tôi sẽ
hành xử, suy nghĩ và nói năng như thế nào nếu tôi ở trong hoàn cảnh của họ?
d) Cuối cùng,
tôi nhìn lại phong cách cư xử trong đời sống hằng ngày của tôi. Tôi
có thể nhận ra mình gần giống với nhân vật chính hoặc nhân vật phụ nào
không? Tôi muốn mình được đồng hóa với nhân vật nào đây?
5. Chìa khóa
dẫn đến bài đọc
Cho những ai muốn đào
sâu vào chủ đề.
Lời bình luận về văn
bản với sự nhấn mạnh đặc biệt trên một số điểm chính:
22:14: Đến giờ, Chúa Giêsu
vào bàn với mười hai tông đồ: Mặc dù Luca đang viết
cho một cộng đoàn Kitô hữu hầu hết có nguồn gốc là dân ngoại, nhưng ông nhấn
mạnh rằng bữa tiệc ly của Chúa Giêsu là một phần nghi thức lễ vượt qua của
người Do Thái. Ngay trước bữa ăn, ông mô tả việc chuẩn bị (các câu
7-13).
22:15: Thầy đã
ao ước được ăn lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn: Câu
này gợi nhớ lại lời trong chương 12:50: “Thầy còn một phép rửa phải
chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (xem Ga
12:32). Luca cho chúng ta một tia sáng vào chiều kích nội tâm của
Chúa Giêsu khi Người đang chuẩn bị để chịu khổ nạn và chịu
chết: điều mà đã thúc đẩy Người là, cũng như luôn luôn đối với
Người, sự chọn lựa triệt để tuân theo thánh ý của Chúa Cha (xem 2:49), nhưng
trong những lời này chúng ta thấy thoáng qua có một sự mong mỏi rất con người
vì tình huynh đệ, vì sự chia sẻ và vì nghĩa bằng hữu.
22:17: Rồi
Người cầm lấy chén, tạ ơn: Nói đúng ra, chúng ta chưa hẳn đã
tiến đến chén Thánh Thể, mà chỉ đến bốn chén rượu đầu tiên được uống tại bữa ăn
lễ vượt qua.
22:18: Thầy
bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ rượu nho này nữa cho
đến khi nước Thiên Chúa đến: Đây là điều ám chỉ rõ ràng lần thứ
hai nói về cái chết gần kề của Người. Đó là một sự lặp lại của lời
công bố liên quan đến cuộc thương khó (9:22,44; 12:50; 18:31-32) và, giống như
những lần khác, nó ám chỉ đến sự phục sinh. Tuy nhiên, lời công bố,
thậm chí ở thời điểm nghiêm trọng hơn hết, vẫn chứa đựng những gợi ý cho sự hy
vọng và niềm kỳ vọng cánh chung, cùng với điều chắc chắn rằng Chúa Cha sẽ không
bỏ rơi Người cho đến chết. Đức Giêsu nhận thức được những gì Người
phải đối mặt, nhưng lại khá thanh thản, nội tâm thư thái, chắc chắn về số phận
sau cùng của mình và về kết quả cuối cùng của những gì Người sắp sửa trải qua.
22:19-20: câu chuyện
về việc lập Phép Thánh Thể thì khá tương tự như câu chuyện được nói đến ở trong
thư của thánh Phaolô (1Cr 11:23-25) và có một nhân vật hy sinh được nhắc
tới: Đức Giêsu hiến ban thân mình, không phải là tế vật, như một của
lễ cho những ai tin vào Người.
22:21: Ngay
trên bàn này với Ta, này tay kẻ đang nộp Ta: cùng ăn với Người,
Chúa Giêsu cho phép ngay cả Giuđa được tham gia vào việc hiệp thông với Người,
nhưng Người biết rõ rằng người môn đệ này sắp sửa nộp Người một cách thẳng
tay. Sự tương phản thì rất rõ ràng và được cố ý xếp đặt bởi Thánh
Sử, cũng như ở những nơi khác trong đoạn Tin Mừng này.
22:28: Các con đã
kiên trì với Thầy trong các gian nan của Thầy: không giống như
Giuđa, các môn đệ khác “đã kiên trì với Đức Giêsu trong lúc Người bị luận án”,
bởi vì các ông đã ở lại với Người ít ra là cho đến lúc này. Khi ấy,
Chúa thừa nhận rằng họ đã đạt đến cao điểm về sự hiệp thông với Người để xứng
đáng được hưởng vinh dự đặc biệt trong vinh quang của Chúa Cha (câu 29).
Sau đó, chính Đức
Giêsu đã tạo ra sự tương đương mật thiết giữa việc hiệp thông liên tục của các
môn đệ Người (cho những người bấy giờ và cho cả những người ngày nay) với sự
khổ nạn của Người và sự chia sẻ cuối cùng và vĩnh cửu trong vinh quang của
Người (“ăn và uống”, câu 30).
22:31-37: Simon,
Simon! Này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo; nhưng Ta đã cầu
nguyện để con khỏi mất đức tin: Đoạn này dường như được
trích từ một bối cảnh khác. Lời Chúa Giêsu nói về Satan và hành động
của Người đối với các môn đệ gợi nhớ lại những gì Thánh Sử đã nói liên quan đến
nguyên nhân gây ra sự phản bội của Giuđa (22:3) và gần như song song với quan
điểm của Luca về cuộc thương khó như là sự tấn công cuối cùng của Satan chống
lại Chúa Giêsu (xem 4:13; 22:53).
Ông Phêrô thì được che
chở khỏi cạm bẫy của những cám dỗ qua lời cầu nguyện của chính Chúa Giêsu và
bởi vì ông đã quyết tâm làm môn đệ Chúa, cũng bởi vì ông có một sứ vụ đặc biệt
đối với các anh chị em mình trong đức tin (câu 32b). Chúa Giêsu vội vàng
cảnh báo ông: đối với ông, cũng như đối với các môn đệ khác, cuộc thương
khó khủng khiếp của Chúa Giêsu sẽ đòi hỏi họ một cuộc chiến đấu khó khăn chống
lại Satan và nhiều cuộc mai phục mà, trong nhiều hình thức khác nhau, sẽ tấn
công các môn đệ, những người sẽ được gần gũi với Chúa Giêsu trong các giai đoạn
khác nhau của cuộc thương khó (các câu 35-36) về sự việc của cuộc xử án kinh
hoàng mà Người sẽ phải chịu đựng (câu 37); những lời cuối này một cách rõ ràng
nói đến văn bản trong sách tiên tri Isaia liên quan đến “Người Tôi Tớ phải đau
khổ” (Is 53:12), Đấng mà Chúa Giêsu được xác định rõ ràng.
22:33-34: Lạy
Thầy… con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết… Phêrô, Thầy bảo
cho con biết, hôm nay khi gà chưa gáy thì con sẽ chối Thầy ba lần rằng con
không biết Thầy: Phêrô là một người hào phóng, cũng là người
thiếu kiên nhẫn, như chúng ta thấy trong lời nói của ông, dường như để nài ép
Chúa Giêsu nói cho ông biết về lời phủ nhận. Như trong các câu
24-27, các thày cả của cộng đoàn Kitô hữu đã phải đối diện với trách nhiệm của
họ là “các tôi tớ” của đức tin các anh chị em giao phó cho họ, cho nên giờ đây
họ được nhắc nhở về nhiệm vụ của họ là phải cẩn trọng và cảnh giác đối với bản
thân và các khuyết điểm của mình.
22:39-46: câu chuyện
về nỗi thống khổ đạo đức-tinh thần trong vườn Giệtsêmani theo sát với văn bản
của sách Tin Mừng Máccô (14:32-42), ngoại trừ một số chi tiết, đặc biệt là
những chi tiết đề cập đến việc có thiên thần hiện ra an ủi Người (câu 43).
Thời điểm khó khăn và
nguy hiểm nhất trong đời của Người đang đến gần, Chúa Giêsu tăng thêm lời cầu
nguyện. Như Luca cho biết, vườn Giệtsêmani như “thường lệ” (câu 37)
là nơi mà Chúa Giêsu thường trú qua đêm (21:37).
22:47-53: cuộc
thương khó thực sự bắt đầu với việc bắt giữ Chúa Giêsu. Đoạn này
trình bày các sự kiện sau đây như là “giờ của quyền lực tối tăm” (câu 53) và
cho thấy Chúa Giêsu như là Đấng vượt qua và sẽ chiến thắng bạo lực bằng sự kiên
nhẫn và khả năng yêu thương ngay cả với những kẻ bách hại mình (câu 51); đó là
lý do tại sao những lời buồn bã nhưng yêu thương Chúa nói với Giuđa lại nổi bật
lên: “Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?” (câu 48).
22:54-71: Việc tố
tụng của người Do Thái không tiến triển trong đêm đó. Không có điều
gì được nói về việc Chúa Giêsu bị xem như là tù nhân cho đến buổi
sáng. Việc thiếu các tin tức liên quan đến Chúa Giêsu trong thời gian ngay
sau khi bị bắt cho đến khi bắt đầu vụ án là sự tiêu biểu Phúc Âm Luca.
22:60-62: Phêrô
đáp: "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì"… Chúa Giêsu
quay lại nhìn Phêrô và Phêrô mới sực nhớ lời Chúa Giêsu đã bảo… Và
Phêrô liền ra ngoài khóc lóc thảm thiết: hai ánh mắt nhìn chạm
nhau, ai mà biết bằng cách nào chúng đã xảy ra trong lúc bối rối của đêm đen vô
tận ấy, đánh dấu thời khắc khi Phêrô trở nên ý thức: bất kể lời
tuyên bố dũng cảm về lòng trung thành của mình, ông nhận ra những gì Đức Giêsu
đã bảo cho ông biết trước đó không lâu. Trong cái nhìn ấy, Phêrô
trực tiếp trải nghiệm lòng thương xót của Chúa mà ông đã được nghe Đức Giêsu
nói đến: nó không dấu diếm được thực tế của tội lỗi, nhưng chữa lành và đem
người ta trở lại một nhận thức đầy đủ về tình trạng của họ và về tình yêu của
Thiên Chúa dành riêng cho họ.
22:70-71: Vậy ông là
Con Thiên Chúa ư?... Các ông nói đúng Ta là Con Thiên Chúa… Chúng ta
còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói: việc
tố tụng của người Do Thái chính thức bắt đầu vào tảng sáng của ngày hôm đó (câu
66) và tập trung vào việc tìm kiếm chứng cớ (có một số sự thật, trong sách
Luca, nhưng có thể xem trong sách Máccô 14:55-59) để đưa ra bản án tử hình cho
Chúa Giêsu. Sau đó, theo Tin Mừng Luca, các thượng tế người Do Thái
đã không trưng ra những lời chứng dối, nhưng – ngay cả trong ác cảm dã man của
họ đối với Chúa Giêsu – họ cư xử với Người trong một phong cách có phần nào hợp
pháp.
Để trả lời một cách
tích cực cho câu hỏi “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư”, Chúa Giêsu cho thấy rằng
Người hoàn toàn ý thức về phẩm giá thiêng liêng của mình. Qua sự nhận thức
này, nỗi đau khổ, cái chết và sự phục sinh của Người là chứng tá hùng hồn cho ý
muốn nhân từ của Chúa Cha đối với nhân loại. Tuy nhiên, như vậy
Người “ký tên” vào chính bản án tử hình của mình: đó là một sự báng
bổ làm ô uế Danh Thánh và rất Đấng Gia-Vê bởi vì Người dõng dạc tuyên bố một
cách rõ ràng là “Con Thiên Chúa”.
23:3-5: “Ông là
Vua dân Do Thái ư?... Chính ngài nói đó… Người
này đã làm náo động dân chúng với lời giảng dạy của ông ta: chúng
ta đang chuyển từ một tiến trình pháp lý của người Do Thái sang của người La
Mã: các trưởng lão người Do Thái giao nộp người bị kết án cho quan
tổng trấn để ông ta có thể thi hành bản án và, để trình cho quan một lý do khả
tín, họ “khai thác” các vận động về bản án của họ, trình bày chúng trong màu
sắc chính trị. Như vậy, Chúa Giêsu bị tố cáo như người làm náo động
dân chúng và toan tính lật đổ vương triều nhà Israel (mà lúc ấy chỉ là một dĩ
vãng và hoàn toàn hư danh).
Các phương cách được
dùng bởi Chúa Giêsu để thực hiện tội ác của Người, như có cơ hội, là lời giáo
huấn của Người: những lời của sự hòa bình và lòng thương xót mà
Người lan truyền rộng rãi giờ đây được sử dụng để chống lại Người!
Chúa Giêsu xác nhận
lời buộc tội, nhưng có điều chắc chắn rằng Người đã không bị buộc tội về việc
mưu đồ tìm kiếm vị thế hoàng tộc, mà chỉ là một trong những phản ảnh về bản
tính Thiên Chúa của mình. Tuy nhiên, về điều này thì chính Philatô
hoặc những kẻ khác cũng không thể hiểu được.
23:6-12: Quan
liền sai giải Người cho Hêrôđê: Có lẽ qua trực giác Philatô cảm
nhận rằng họ đang cố gắng chơi một “thủ thuật bẩn” với ông, vì vậy ông ta có lẽ
cố gắng lánh xa phạm nhân bằng cách viện dẫn việc tôn trọng thẩm
quyền: Chúa Giêsu đến từ một xứ, mà vào lúc thời điểm lịch sử đó,
không thuộc trách nhiệm của người La Mã mà thuộc về vua Hêrôđê Antipát.
Vua Hêrôđê thì được
trình bày trong các sách Phúc Âm như một người khá mơ hồ: ông ta ngưỡng mộ
và cùng lúc lại có ác cảm với Gioan Tiền Hô, bởi vì vị tiên tri này đã lên
tiếng khiển trách về tình trạng hôn nhân của ông ta, đó là tình trạng bất
thường và gần như là loạn luân, và cuối cùng thì vị tiên tri đã bị bắt và sau
đó bị xử tử như để không phải chặt đầu một nhân vật bất hạnh trước mặt các quan
khách dự tiệc (3:19-20; Mc 6:17-29). Sau đó ông ta ao ước gặp gỡ Đức
Giêsu vì tính hiếu kỳ, bởi vì ông ta đã nghe nói về tiếng tăm của Chúa như
người làm nhiều phép lạ, và ông ta dàn dựng chuyện tố tụng chống lại Người (câu
10). Vua đích thân tra hỏi Chúa Giêsu, nhưng khi ấy – trước sự im
lặng bướng bỉnh của Chúa Giêsu (câu 9) – đã bỏ mặc Người cho sự nhạo báng của
các quân lính, như đã xảy ra vào đoạn cuối của cuộc thượng hội đồng (22:63-65)
và như sẽ xảy ra khi Chúa Giêsu bị đóng đinh (các câu 35-38). Cuối
cùng nhà vua gởi trả Chúa Giêsu lại cho Philatô.
Luca kết thúc cảnh này
với một ghi chú thú vị: Philatô tỏ cử chỉ bắt đầu tình bạn hữu với
Hêrôđê. Những chi tiết tình huống nói lên một cách rõ ràng về sự
trong sáng của động lực cho tình bằng hữu này.
23:13-25: Các
ngươi đã nộp cho ta người này… như một kẻ xúi giục; …ta không thấy
người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo: như ông
ta đã nghi ngờ từ buổi gặp gỡ đầu tiên với Chúa Giêsu (câu 4) và như ông sẽ lặp
lại sau đó (câu 22), Philatô tuyên bố Người vô tội. Ông ta cố gắng
thuyết phục các trưởng lão và dân chúng hãy tha cho Chúa Giêsu, nhưng họ đã
quyết định rằng Người phải chết (các câu 18, 21, 23) và khăng khăng về bản án
tử hình.
Bản chất cuộc thẩm vấn
của quan tổng trấn là gì? Không nhiều, theo như một ít câu nói mà
Luca thuật lại (câu 3). Tuy nhiên, Chúa Giêsu trả lời một cách tích cực cho
Philatô, tuyên bố mình là “vua dân Do Thái”! Vào lúc này, rõ ràng là
Philatô đã không coi Chúa Giêsu như là một người nguy hiểm cho lãnh vực chính
trị, cũng chẳng cho trật tự công cộng, có lẽ bởi vì phong thái lời tuyên bố của
Chúa Giêsu đã cho thấy là không có gì nghi ngờ về những lãnh vực này.
Mục đích của Thánh Sử
thì khá rõ ràng trong đó ông tìm cách làm giảm bớt trách nhiệm của quan tổng
trấn La Mã. Tuy nhiên, sau đó dựa theo các dữ liệu lịch sử thì được
biết ông ta là “một người không nhân nhượng và, ngoài tính kiêu ngạo, khó khăn
thì ông ta chỉ có khả năng tống tiền, bạo lực, cướp bóc, tàn bạo, tra tấn, hành
quyết không cần xử án, đáng sợ và độc ác vô hạn” (Philo Alexandria) và rằng
“ông ta ưa khiêu khích các dân tộc được trao phó cho ông ta, đôi khi bằng sự
thô lỗ và vào những thời điểm khác thì bằng cách trấn áp hà khắc (Josephus
Flavius).
23:16,22: Vậy ta
sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi… : thực tế là Đức Giêsu đã được
xem như là vô tội đáng lẽ được tha khỏi bị “sự trừng phạt” nặng nề, bắt phải
chịu như vậy chẳng qua là để không làm thất vọng các trưởng lão người Do Thái.
23:16,18,25: Hãy giết nó
đi! Và tha Baraba cho chúng tôi! Quan phóng thích người
đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, và trao Chúa Giêsu cho chúng để mặc ý
chúng: cuối cùng, Philatô hoàn toàn nhượng bộ trước lời kêu cầu
van lơn của các trưởng lão, cho dù quan không hề tuyên bố một bản án chính thức
nào về Chúa Giêsu.
Baraba, một tên thực
sự phạm pháp và dấy loạn chính trị, vì thế trở thành kẻ thứ nhất được cứu rỗi
(ít ra là vào thời điểm đó) bởi sự hy sinh của Chúa Giêsu.
23:26-27: Họ bắt
một người xứ Xyrênê, tên là Simon, ở ngoài đồng về, và chúng bắt ông vác thập
giá theo sau Chúa Giêsu. Đám đông dân chúng đi theo Người, có cả mấy
người phụ nữ khóc thương Người: Simon và những người phụ nữ
không chỉ là những người được ưu tiên làm nhân chứng về cuộc thương khó, mà
trong sách Tin Mừng Luca, họ còn là những mẫu mực cho tình đồ đệ, những người
cho độc giả thấy cách để đi theo Chúa trong hành động. Ngoài ra, nhờ
họ và nhờ đám đông dân chúng, Chúa Giêsu đã không cô độc khi Người tiếp cận với
cái chết, mà được bao quanh bởi những người thân cận sâu xa và tình cảm gắn bó
với Người, dù rằng họ cần phải hoán cải, một vấn đề mà Người nhắc nhớ họ mặc dù
tình trạng khủng khiếp của Người (các câu 28-31).
Simon xứ Xyrênê đã “bị
bắt”, nhưng Luca không nói rằng ông đã ngại ngùng để giúp Chúa (xem Mc
15:20-21).
“Đám đông dân chúng”
thì cũng khá tham gia vào những gì đang xảy ra cho Chúa Giêsu. Điều
này tương phản gay gắt với đàm đông mà, trước đó không lâu, đã đòi hỏi Philatô
tuyên án tử hình Chúa.
23:34: Lạy
Cha, xin tha cho chúng; vì chúng không biết việc chúng làm: Luca
cho thấy mối quan tâm chính của Chúa chịu đóng đinh, Đấng mặc dù đang trong cơn
đau đớn thể xác cách dã man bởi việc đóng đinh vào thập giá, đã cầu nguyện với
Chúa Cha cho họ: Người đã không màng tới tình trạng của chính mình
hay là tới những nguyên nhân lịch sử đã tạo ra tình trạng ấy, mà chỉ chú trọng
tới sự cứu rỗi của cả nhân loại. Thánh Stêphanô tử đạo sẽ hành động
giống như Ngài (Cv 7:60), để cho thấy đặc tính kiểu mẫu về sự sống và cái chết
của Đức Giêsu vì sự tồn tại của mọi Kitô hữu.
Để nhấn mạnh đến xu
hướng mạnh mẽ này của Chúa Giêsu, Luca bỏ qua tiếng than ai oán được ghi lại
qua các sách Phúc Âm Nhất Lãm khác: “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, sao
Chúa đành bỏ rơi con?”
23:33,39-43: Chúng
đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp… Lạy Ngài, khi nào về
nước Ngài, xin Ngài hãy nhớ đến tôi… Quả thật, Ta bảo
ngươi… ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta: cuộc
đối thoại với một trong hai kẻ đồng chịu án của mình là một sự tiêu biểu phương
cách thánh Luca hiểu biết về cái chết của Đức Giêsu: một hành động
tự hiến mình cho tình yêu và trong tình yêu để mang lại ơn cứu độ cho vô số
người bất kể trong điều kiện hoặc tình huống nào của họ.
“Ngay hôm nay” (câu
43): tên trộm nói về việc trong tương lai, nhưng Chúa Giêsu lại trả
lời bằng cách dùng động từ trong thì hiện tại: ơn cứu độ Người ban
cho thì ngay lập tức, “ngày sau hết” bắt đầu với sự kiện cứu rỗi này.
“Ngươi sẽ ở trên thiên
đàng với Ta” (câu 43): câu nói này cho thấy sự hiệp thông hoàn toàn
mạnh mẽ giữa Chúa và những ai mà chính Ngài đón tiếp vào cõi đời đời (xem 1Tx
4:17). Theo một số các ngụy thư của cuối thời kỳ Do Thái, chính Đấng
Cứu Thế đã “mở cửa thiên đàng”.
23:44-46: Lúc đó
vào khoảng giờ thứ sáu… Chúa Giêsu kêu lên lớn tiếng rằng: Lạy
Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha. Nói đoạn, Người trút hơi
thở: những lời cuối cùng của Chúa Giêsu, bởi bản chất tốt đẹp
của nó, dường như tương phản với những lời Người kêu lớn tiếng trước đó.
Đi dần đến kết thúc
cuộc đời làm người của mình, Chúa Giêsu, làm một cử chỉ lúc lâm chung tin cậy
vào Chúa Cha, Đấng vì vâng theo ý muốn mà Người đã chịu nhiều đau
khổ. Trong những lời này, chúng ta có thể thoáng thấy một gợi ý về
sự sống lại: Chúa Cha sẽ trao lại Người sự sống này mà Chúa Giêsu
bây giờ phó thác nơi Chúa Cha (xem Tv 16:10; Cv 2:27; 13:35).
Thánh Luca đã viết một
cách rất chính xác về những khoảnh khắc cuối cùng của Chúa
Giêsu: ông không quan tâm ở những chi tiết mà sẽ đem đến sự thỏa mãn
cho một số lòng hiếu kỳ ma quái, giống như điều mà đã thu hút và vẫn còn thu
hút rất nhiều khán giả vào lúc hành quyết tại nhiều quảng trường trên thế giới.
23:47-48: Khi
thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: “Ông này
quả thật là người công chính”. Và tất cả dân chúng… đấm
ngực trở về nhà: hiệu quả ơn cứu chuộc về sự hy sinh của Chúa
Giêsu tác động gần như ngay lập tức đơn thuần dựa trên bằng chứng về những gì
đã xảy ra: dân ngoại (như viên đội trưởng chỉ huy trung đội phụ
trách việc hành hình), dân Do Thái (đám đông dân chúng) bắt đầu thay
đổi. Viên sĩ quan “ca tụng Thiên Chúa” và có vẻ như là chỉ cần một
bước nữa thì sẽ trở thành một Kitô hữu. Dân chúng Do Thái, có lẽ đã
không có ý thức, đã trở về bằng cách sử dụng cử chỉ của sự ăn năn như Chúa
Giêsu đã yêu cầu những người phụ nữ thành Giêrusalem (câu 38).
23:49: Đứng xa
xa, những kẻ quen biết Người cũng đã chứng kiến: từ một khoảng
cách thận trọng, biết rằng thái độ người La Mã cấm ngặt những cử chỉ than khóc
tang chế cho những kẻ bị kết án phải chịu đóng đinh (đau đớn vì chính mình bị
đóng đinh), nhóm các môn đệ hiện diện chết lặng vì toàn bộ khung
cảnh. Luca không đưa ra một gợi ý nào về cảm xúc hoặc thái độ của
các ông: có lẽ sự đớn đau và cảnh bạo hành đã làm họ choáng váng đến
độ khiến cho các ông không còn có khả năng phát tiết ra bên ngoài bất kỳ một
phản ứng nào.
Tương tự như vậy,
những người phụ nữ môn đệ đã không tham dự vào bất kỳ việc nào trong việc mai
táng Chúa Giêsu của ông Giuse Arimathia: họ chỉ đứng nhìn (câu 55).
23:53: Ông
Giuse hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt
Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá: Chúa Giêsu đã thực sự
trải qua cuộc tra tấn. Chúa thực sự đã chết, cũng giống như nhiều
người khác trước và sau Người, trên thập giá, trong một thân xác thông
thường. Sự kiện này, nếu không xảy ra thì sẽ không có ơn cứu rỗi hay
sự sống đời đời cho bất cứ ai, được xác nhận bởi thực tế rằng cần phải chôn cất
Người. Điều này đúng đến nỗi mà Luca thêm vào một số chi tiết liên
quan đến tốc độ mà nghi thức mai táng được thực hiện bởi ông Giuse (các câu
52-54).
23:56: Vào ngày Sabbát,
các bà nghỉ lễ như Luật truyền: như Đấng Tạo Hóa nghỉ ngơi và ngày
thứ bảy của việc sáng tạo, do đó ngày Sabbát được thánh hóa (St 2:2-3), vì vậy
giờ đây Chúa nghỉ lễ ngày Sabbát trong mồ.
Giờ đây, không có một
người nào của Chúa dường như có thể hy vọng được bất cứ điều gì: Lời
của Chúa Giêsu liên quan đến sự sống lại dường như đã bị lãng
quên. Những người phụ nữ tự giới hạn mình trong việc chuẩn bị một số
dầu và thuốc thơm dành cho việc chôn cất Chúa một cách trang nghiêm hơn.
Tin Mừng về “Ngày Chúa
Nhật Thương Khó” này kết thúc ở đây, bỏ lại câu chuyện về việc khám phá ra ngôi
mộ trống (24:1-12) và để cho chúng ta thưởng thức sự hy sinh cay đắng ngọt ngào
của Chiên Thiên Chúa, chúng ta ở lại trong tình trạng đau buồn và hụt hẫng nơi
mà chúng ta còn đắm mình, dù rằng chúng ta biết rõ kết quả cuối cùng của câu
chuyện Tin Mừng. Cái chết kinh hoàng của vị thày cả trẻ làng
Nagiarét không làm mất đi ý nghĩa về sự phục sinh của Người, nhưng thu được một
giá trị hoàn toàn mới mẻ và bất ngờ, mà không lấy đi bất cứ điều gì từ chiều
kích của việc đã bị giết chết trong sự tự nguyện hy sinh được chấp nhận bởi vì
việc tôn trọng “cách quá mức” cho quyền hạn hiểu biết của loài người chúng
ta: đó là thuần khiết mầu nhiệm.
6. Cầu Nguyện
với sách Tiên Tri Isaia 50:4-10
“Chúa là Thiên Chúa phù trợ tôi”
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng
đã cho tôi nói năng như một người môn đệ,
để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.
Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi
để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!
Này, có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội?
Này, tất cả chúng sẽ mục đi như chiếc áo, và sẽ bị mối ăn.
Ai trong các ngươi kính sợ ĐỨC CHÚA,
nghe theo tiếng tôi tớ của Người,
ai đi trong bóng tối, không một tia sáng nào chiếu rọi,
hãy tin tưởng vào danh ĐỨC CHÚA
và tìm nương tựa nơi Thiên Chúa mình thờ.
đã cho tôi nói năng như một người môn đệ,
để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.
Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi
để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!
Này, có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội?
Này, tất cả chúng sẽ mục đi như chiếc áo, và sẽ bị mối ăn.
Ai trong các ngươi kính sợ ĐỨC CHÚA,
nghe theo tiếng tôi tớ của Người,
ai đi trong bóng tối, không một tia sáng nào chiếu rọi,
hãy tin tưởng vào danh ĐỨC CHÚA
và tìm nương tựa nơi Thiên Chúa mình thờ.
7. Lời Nguyện
Kết
Trích từ Kinh nguyện
Thánh Thể cho Chúa Nhật tuần này
Lạy Thiên Chúa toàn
năng và hằng hữu, Chúa ban cho loài người chúng con Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ
chúng con như một mẫu mực của đức khiêm nhường. Người đã chu toàn thánh ý
Chúa bằng cách xuống thế làm người và hiến ban mạng sống Người trên thập
giá. Xin cho chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng cách noi gương
sự khổ nạn của Chúa Giêsu và làm cho chúng con thông phần vinh quang phục sinh
với Người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét