Trang

Thứ Năm, 6 tháng 7, 2017

07-07-2017 : THỨ SÁU - TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN

07/07/2017
Thứ sáu đầu tháng, tuần 13 thường niên.


Bài Ðọc I: (Năm I) St 23, 1-4. 19; 24, 1-8. 62-67
"Isaac yêu thương Rêbecca, cho nên ông tìm được niềm an ủi, vì thương nhớ mẹ đã qua đời".
Trích sách Sáng Thế.
Bà Sara được một trăm hai mươi bảy tuổi thì qua đời tại thành Cariatharbê, tức là Hêbron, trong đất Canaan. Ông Abra-ham đến khóc lóc thương tiếc bạn mình. Khi lo việc chôn cất, Abraham chỗi dậy nói với các con ông Hét rằng: "Tôi là ngoại bang, là khách lạ giữa quý ông, xin quý ông nhượng cho tôi một phần mộ để chôn xác người nhà tôi qua đời". Rồi Abraham chôn cất bà Sara vợ ông trong Hang Ðôi ngoài đồng ruộng, đối diện với Mambrê, tức Hêbron, trong đất Canaan.
Khi ấy, Abraham đã già nua, và Chúa đã chúc lành cho ông trong mọi sự. Abraham nói với người đầy tớ lớn tuổi nhất trong nhà, cũng là người quản lý mọi của cải của ông rằng: "Ngươi hãy đặt tay vào dưới bắp vế ta mà thề trước mặt Chúa là Thiên Chúa trời đất, sẽ không cưới cho con ta một người vợ thuộc dân Canaan mà ta đang ở chung với họ đây. Ngươi hãy đi về quê họ hàng ta, mà cưới vợ cho con ta là Isaac". Người đầy tớ thưa lại: "Nếu người phụ nữ không muốn theo tôi về xứ này, thì tôi có phải đem con trai ông về quê quán của ông chăng?" Abraham trả lời rằng: "Ngươi hãy cẩn thận chớ bao giờ dẫn con ta về đó: Chúa là Thiên Chúa, đã đưa ta ra khỏi nhà cha ta và quê quán ta, đã phán và thề hứa cùng ta rằng: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi". Thiên Chúa sẽ sai thiên thần đi trước mặt ngươi, và ngươi cưới cho con trai ta một người vợ trong xứ đó. Nếu người phụ nữ không chịu theo ngươi về, thì ngươi không còn mắc lời đoan thề mà ta bảo người đây. Chỉ có một điều là đừng dẫn con trai ta về nơi đó".
Khi ấy, Isaac đi bách bộ trên đường dẫn đến cái giếng gọi là "Ðấng Hằng Sống và Trông Thấy", vì ông cư ngụ tại mạn nam. Lúc gần tối, Isaac đi ra ngoài cánh đồng để suy ngắm. Khi ngước mắt lên nhìn, thấy những con lạc đà đang trở về từ đàng xa. Rêbecca cũng ngước mắt nhìn thấy Isaac, nàng liền nhảy xuống khỏi lạc đà, và hỏi người đầy tớ rằng: "Người đang đi trong cánh đồng để ra đón chúng ta là ai vậy?" Người đầy tớ đáp: "Người đó là chủ tôi đấy". Nàng vội vàng lấy khăn che mặt. Người đầy tớ lại kể lại cho Isaac hay mọi việc mình đã làm. Isaac đưa Rêbecca vào nhà xếp của Sara mẹ ông, ông lấy nàng làm vợ và yêu thương nàng lắm, cho nên ông tìm được niềm an ủi bớt thương nhớ mẹ đã qua đời.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 105, 1-2. 3-4a. 4b-5
Ðáp: Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu (c. 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói cho hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? - Ðáp.
2) Phúc cho ai tuân giữ những điều huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. - Ðáp.
3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.

Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 9, 9-13
"Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra là khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải là hy lễ". Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Bữa Tiệc Thân Hữu
Trong hầu hết các nền văn hóa hiện hữu trên thế giới, bữa ăn là một thời điểm, một nghi lễ đặc biệt trong đời sống con người. Con người thường chia giờ giấc trong ngày theo các bữa ăn. Bữa ăn là giờ duy nhất trong ngày, trong đó mọi thành phần trong gia đình có mặt bên nhau, do đó bàn ăn thường là biểu trương của hiệp nhất. Vì là giờ hiệp nhất, nên bữa ăn cũng là giờ linh thiêng trong cuộc sống. Người ta vẫn nói: "Trời đánh tránh bữa ăn". Bữa ăn là dấu chỉ của hiệp nhất, cho nên thời xa xưa, thỏa ước giữa các bộ lạc cũng được ký trong bữa tiệc. Ngồi đồng bàn với nhau có nghĩa là chấp nhận chia sẻ với nhau, chấp nhận tình thân hữu của nhau.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy được ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu. Phúc Âm thường ghi lại những lần Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngồi đồng bàn với người nào là muốn chia sẻ, muốn nói lên tình thân thiện của người đó. Qua những lần ngồi đồng bàn với tất cả mọi hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bộ mặt của một Thiên Chúa nhân hậu luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của con người và muốn đi vào kết hiệp thâm sâu với con người.
Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu thường mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới". Nước Trời giống như một tiệc vui. Tôn giáo mà Chúa Giêsu loan báo không phải là những nghi lễ hay những luật lệ cứng nhắc, mà là tôn giáo của tình yêu. Trích dẫn lời Tiên Tri Ôsê: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải lễ tế", Chúa Giêsu đả phá những tôn giáo chỉ xây dựng trên những nghi lễ trống rỗng, mà quên đi cái lõi của tôn giáo là tình thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta là bữa tiệc dấu chứng tình yêu của Ngài. Tham dự vào bữa tiệc ấy là tham dự vào tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần yêu thương, thì tất cả những kinh kệ, những hành động phụng vụ chỉ là trống rỗng vô ích. Của lễ đẹp lòng Chúa nhất phải chăng không là những hành động yêu thương, chia sẻ, tha thứ đó sao? Lúc đó bàn thờ của chúng ta không chỉ nằm trong bốn bức tường nhà thờ, mà còn phải là gia đình, công sở, phố chợ. Nơi nào có hành động yêu thương, tha thứ, chia sẻ, thì nơi đó có Chúa hiện diện, có bình an, có Nước Trời.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 13 TN1, Năm Lẻ
Bài đọcGen 23:1-4, 19, 24:1-8, 62-67; Mt 9:9-13.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kẻ đau yếu mới cần đến thầy thuốc.
Là những người lãnh đạo như người mục tử coi sóc đoàn chiên hay cha mẹ chăm sóc con cái, chúng ta không những phải nhận ra bệnh tình của đoàn chiên hay con cái, mà còn phải biết phương thuốc hiệu nghiệm để chữa lành. Các bài đọc hôm nay cho chúng ta những mẫu gương của cha mẹ và người mục tử tốt lành.
Trong bài đọc I, tổ phụ Abraham biết con mình rất buồn khi mất mẹ, ông lo lắng để tìm một người bạn đời tốt lành cho con để cậu có thể quên đi người mẹ, và bắt đầu xây dựng gia đình riêng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu là người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc. Ngài tìm được Matthew và đưa ông về; nhưng các Pharisees lại phê bình Ngài đồng bàn với những người tội lỗi. Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời họ: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi."

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cậu yêu thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ.
1.1/ Bà Sarah từ giã cuộc đời: Không có gì buồn hơn nỗi buồn mất người mẹ yêu quí đã hết lòng chăm sóc cho Isaac, nhất là cậu lại là người con duy nhất bà có trong lúc tuổi già. Tất cả tình thương của bà Sarah đều dành cho cậu. Sau khi đã chôn cất vợ, Abraham biết đã đến lúc ông phải kiếm một người vợ tốt lành cho con, để cậu vơi đi nỗi buồn mất mẹ.
1.2/ Niềm tin của Abraham vào Thiên Chúa trong việc cưới vợ cho Isaac: Abraham phải đương đầu với 3 khó khăn lớn:
(1) Abraham không thể tự mình về quê tìm vợ cho con vì đã quá cao niên.
(2) Abraham không muốn cưới những người con gái xứ Canaan làm vợ cho con mình. Giống như truyền thống Việt-nam, Abraham muốn cưới vợ cùng làng xóm cho con. Lý do, chuyện trăm năm là chuyện cả cuộc đời. Những người cùng làng là những người Abraham và người quản lý đã biết rõ cha mẹ và họ hàng của họ. Những người con gái xứ Canaan, Abraham không biết một tí nào về họ cả. Vì thế, Abraham bảo người lão bộc sống lâu năm nhất trong nhà ông, và cũng là người quản lý mọi tài sản của ông: "Chú hãy đặt tay dưới đùi tôi, và tôi xin chú nhân danh Đức Chúa là Chúa trời đất, mà thề rằng chú sẽ không cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ Canaan, nơi tôi đang sống. Nhưng chú sẽ về quê tôi, đến với họ hàng tôi, mà cưới vợ cho con tôi là Isaac."
(3) Abraham không muốn cho con mình về quê, nhưng phải ở lại Canaan để thừa hưởng miền Đất Hứa mà Thiên Chúa dành cho ông. Người lão bộc thưa với ông: "Có thể người đàn bà ấy không chịu đi theo tôi về đất này; vậy tôi có phải đưa cậu con trai ông về đất mà từ đó ông đã ra đi không?" Ông Abraham bảo người ấy: "Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó! Đức Chúa là Chúa Trời, Đấng đã đưa tôi ra khỏi nhà cha tôi, khỏi quê hương tôi, Đấng đã phán với tôi và thề với tôi rằng: "Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này," chính Người sẽ sai sứ thần Người đi trước mặt chú, để từ nơi đó chú cưới vợ về cho con tôi.”
Abraham biết để thỏa mãn cả hai điều kiện không phải là điều dễ dàng; vì thế, Abraham nói với người lão bộc: “Nếu người đàn bà không chịu đi theo chú, thì chú không còn buộc phải giữ lời thề với tôi nữa. Nhưng dù sao, cũng đừng đưa con tôi về đó." Abraham tin tưởng Thiên Chúa sẽ xe định một người vợ tốt lành cho Isaac. Trong suốt cuộc đời ông, Thiên Chúa luôn giữ lời hứa. Ngài đã chúc lành cho Abraham trong mọi sự.
1.3/ Issac tiếp nhận Rebekah và quên đi nỗi buồn mất mẹ. Cuộc hôn nhân của Isaac và Rebekah quả thật do sự quan phòng của Thiên Chúa. Để hiểu điều này, chúng ta phải đọc cả chương 24. Trình thuật hôm nay chỉ kể vắn tắt người lão bộc đã tìm được Rebekah và thuyết phục cô từ giã cha mẹ để lên đường qua đất Canaan gặp Isaac. Cậu Isaac đưa cô Rebekah vào lều của bà Sarah mẹ cậu; cậu lấy cô làm vợ, cậu yêu thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ.
2/ Phúc Âm: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.”
2.1/ Lòng thương xót có sức cải hóa người tội lỗi: Trong Cựu Ước, các ngôn sứ rất khó chịu với những người tội lỗi và họ thường tuyên bố án phạt dành cho tội nhân. Tuy nhiên, cũng không thiếu những sứ điệp về tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Sách ngôn sứ Jonah là một bằng chứng hùng hồn. Ngôn sứ Jonah không muốn rao giảng cho dân thành Nineveh; nhưng Thiên Chúa bắt ông phải làm chuyện đó, và Ngài cho ông biết lý do: "Ngươi, ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên; trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Nineveh, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật hay sao?" (Jon:4:10-11). Trong ngôn sứ Ezekiel chúng ta cũng thấy rõ ràng sứ điệp về lòng thương xót của Thiên Chúa: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Eze 33:11).
Chúa Giêsu là người đầu tiên rao giảng và diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi. Trong trình thuật hôm nay, Matthew bị đánh động bởi lòng nhân từ của Chúa Giêsu sâu đậm đến nỗi ông đứng dậy, lập tức bỏ mọi sự và đi theo Người. Lý do, chưa có một người Do-thái nào đối xử với ông như một nhân vị con người, trừ Chúa Giêsu. Đa số đều buộc tội và ngăn cấm không cho ông được bước chân vào Đền Thờ. Điều tương tự cũng xảy ra cho Zacchaeus, thủ lãnh của người thu thuế (Luc 19:5), hay cho Người Phụ Nữ Ngoại Tình (Joh 8:1-11). Những người tội lỗi nhiều thường dễ khiêm nhường nhận ra tội lỗi của họ để ăn năn hối cải hơn những người tự nhận mình là công chính.
2.2/ Tất cả mọi người đều cần đến lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa: vì tất cả mọi người đều có tội. Những Pharisees là những người cũng cần lòng thương xót của Thiên Chúa, vì họ cũng là những tội nhân, nhưng vì sự cứng lòng và kiêu hãnh là những lý do ngăn cản họ nhận ra tội lỗi của họ và từ chối lòng thương xót của Thiên Chúa. Hơn nữa, họ tức giận khi Chúa Giêsu và các môn đệ vào nhà Matthew và cùng đồng bàn ăn uống với ông, nên họ chất vấn các môn đệ Người rằng: "Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?"
Tiếp đến, Chúa Giêsu đưa ra sự kiện mà chúng quá rõ ràng với tất cả những ai có trí khôn lành mạnh: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.” Chẳng ai đang khỏe mạnh mà lại tốn tiền đi bác sĩ; chỉ những ai đau yếu hay thấy có những triệu chứng báo động mới cần đến bác sĩ. Chúa Giêsu không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi. Chúa Giêsu là nhà chữa bệnh tinh thần mà tất cả con người đều cần chạy tới để được Ngài chữa lành.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Là những nhà lãnh đạo, chúng ta phải sáng suốt để định bệnh cho những người Thiên Chúa đã trao cho chúng ta, đồng thời cũng phải biết phương thuốc hiệu nghiệm để chữa lành.
- Chúng ta đừng bao giờ phê bình hay ngăn cản những người tội lỗi đến cùng Thiên Chúa. Mọi người đều là tội nhân và đều cần tình thương tha thứ của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

07/07/17    TH SÁU ĐU THÁNG TUN 13 TN
Mt 9,9-13

CON CẦN ĐẾN CHÚA


“Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9,13)

Suy niệm: Cha Mark Link kể chuyện một cô bé chơi trò “ú tim” với các bạn. Cô bé tìm một chỗ thật kín để trốn. Thế nhưng, em chờ mãi, năm phút, rồi mười phút sau, chẳng thấy ai chạy tìm mình. Sau cùng, em mới phát hiện ra các bạn đã bỏ chơi, dẫn nhau đi nơi khác. Thấy em ngồi khóc, một người lớn an ủi: “Cháu đã học được một bài học quý giá. Bài học đó giúp cháu hiểu được cảm tưởng của Chúa khi chơi với loài người. Ngài chờ loài người đến tìm Ngài, nhưng từ lâu con người đã nghỉ chơi, không còn tìm Ngài nữa.” Chúa như vị lương y, tha thiết kiếm tìm chúng ta, những kẻ tội lỗi, để chữa lành căn bệnh tội lỗi của ta, đưa ta bước vào sự sống hạnh phúc muôn đời. Thế nhưng, thay vì đi tìm kiếm Chúa, ta lại lẩn tránh Ngài, khi ta không chịu nhận ra mình là bệnh nhân cần thầy thuốc, là tội nhân cần ơn Ngài cứu độ.

Mời Bạn: “Nếu bạn bước một bước đi tìm Chúa, thì Ngài nhảy mười bước đến tìm bạn” (Vô danh). Nhìn lại quá khứ để thấy rằng bạn đáp lại tiếng Chúa mời gọi thì ít, nhưng từ chối rất nhiều lần, và nhận ra Thiên Chúa kiên nhẫn biết bao khi chờ đợi sự chấp thuận “sáng nắng, chiều mưa” của bạn.

Chia sẻ: Tôi có cảm nhận mình là kẻ có tội, cần đến với Chúa để được chữa lành và cứu vớt không?

Sống Lời Chúa: Đấm ngực mình, ý thức mình là kẻ có tội mỗi khi bắt đầu tham dự thánh lễ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa không đến để kêu gọi người công chính, nhưng là kẻ tội lỗi. Xin cho con ghi nhớ lời khích lệ ấy, và nhớ rằng con cần đến Chúa để can đảm trở về mỗi khi sa ngã.

 
(5 phút Lời Chúa)


Đng dy đi theo (7.7.2017 – Th sáu Tun 13 Thường niên)
Chúng ta cũng phi có kh năng gii thiu Đc Giêsu cho người thi nay, nghĩa là biết, hiu và nói được ngôn ng ca thế gii, đ thế gii nghe và hiu được.


Suy nim:
Thầy Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên khi họ đang làm việc.
Người thì đang quăng lưới ngoài khơi,
kẻ thì đang vá lưới trong thuyền (Mt 4, 18-22).
Khi Thầy gọi Mátthêu, anh cũng đang làm việc ở trạm thu thuế.
Anh đang ngồi, vững vàng trong nghề nghiệp của mình,
dù nghề của anh thường bị coi là nghề rất xấu.
Thầy Giêsu như tình cờ đi ngang qua bàn làm việc của anh.
Ngài chỉ nói một câu rất ngắn: “Anh hãy theo tôi!”
Mátthêu không đáp lại, nhưng anh trả lời bằng hành động.
Từ vị thế đang ngồi, anh bỏ dở công việc để đứng lên và theo Thầy.
Từ vị thế vững vàng, anh bắt đầu bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.
Từ vị thế của tội nhân, anh trở thành người môn đệ thân thiết.
Mátthêu nằm trong danh sách nhóm Mười Hai (Mt 10, 3).
Thầy Giêsu không sợ mất tiếng khi nhận anh vào nhóm.
Nhóm của Thầy không chỉ gồm những người thánh thiện,
nhưng có cả những tội nhân giàu lòng hoán cải.
Mátthêu có đóng góp gì cho nhóm Mười Hai không?
Nghề thu thuế với giấy bút có giúp gì cho các ngư phủ ít học không?
Trong nhóm Mười Hai, Mátthêu có chỗ đứng đặc biệt,
người thu thuế trở nên Tác giả sách Tin Mừng.
Mátthêu làm nghề bị đồng bào của ông khinh miệt,
vì nghề này dễ dẫn người ta đến chỗ lạm thu, bỏ tiền vào túi riêng.
Nghề này còn là một sỉ nhục vì cộng tác với ngoại bang bóc lột dân,
đụng chạm đến đồng tiền ô uế và tiếp xúc với dân ngoại.
Khi trở nên môn đệ của Thầy, Mátthêu đã trở nên người phục vụ đồng bào.
Ông dùng khả năng của mình mà viết sách Tin Mừng.
Đây là Tin Mừng lớn mà ông loan báo: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.
Không phải chờ gì nữa, Đấng Mêsia đã đến rồi!
Ngài làm trọn những lời đã được loan báo trong Cựu Ước.
Mátthêu đã tìm ra ngôn ngữ để nói với Dân Chúa, sao cho họ hiểu được.
Ông đã trình bày dung mạo Đức Giêsu cho người cùng thời với ông.
Chúng ta cũng phải có khả năng giới thiệu Đức Giêsu cho người thời nay,
nghĩa là biết, hiểu và nói được ngôn ngữ của thế giới,
để thế giới nghe và hiểu được.
Chúng ta vẫn phải tiếp tục viết các sách Tin Mừng cho thời đại hôm nay,
phù hợp với não trạng và tâm thức của họ, với nền văn hóa đương đại.
Đâu là khuôn mặt Đấng Cứu độ mà con người hôm nay ngóng chờ?
Con người thời nay khỏe mạnh về nhiều mặt,
nhưng vẫn là người đau ốm cần đến thầy thuốc (c. 12).
Họ mong mình được giải phóng khỏi điều gì?
Đức Giêsu Kitô có thể đáp ứng được những khao khát đó không?
Lời rao giảng và cuộc sống của chúng ta phải cho thấy
Đức Giêsu có thể chữa lành và đem lại một thế giới hạnh phúc.
Ước gì chúng ta có lòng nhân và sự bao dung như Đức Giêsu,
dám đồng bàn với con người hôm nay để dẫn họ đến bàn tiệc thiên quốc.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7 THÁNG BẢY
Đừng Lo Lắng !
Nhận thức của chúng ta về sự quan phòng thần linh trong Cựu Ước được củng cố và được làm cho phong phú thêm trong Tân Ước. Trong tất cả những lời nói của Đức Giêsu về chủ đề này, những lời được ghi lại bởi hai Thánh Sử Matthêu và Luca sau đây đặc biệt cho ta nhiều ấn tượng: “Vậy, anh em đừng băn khoăn về những vấn đề như mình sẽ ăn gì uống gì hay mặc gì. Những kẻ không tin luôn luôn theo đuổi những thứ ấy. Nhưng Cha của anh em trên trời biết anh em cần gì. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, và mọi thứ khác sẽ được ban cho anh em” (Mt 6,31-33; Lc 12,29-31).
“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Ngài cũng đếm cả rồi.Vậ anh em đừng sợ; anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,29-31; Lc 21,18).
“Hãy xem chim trời: chúng không gieo không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quí giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!” (Mt 6,26-30; Lc 12,24-28).
Với một giáo huấn mạnh mẽ như vậy, Chúa Giê-su không chỉ củng cố giáo huấn của Cựu Ước về sự quan phòng thần linh mà thôi. Người còn cho thấy tại sao chúng ta không bao giờ được phép nghi ngờ sự quan phòng ấy. Người bảo chúng ta đừng lo lắng, bởi vì chúng ta có thể ung dung thanh thản trong tình yêu của Cha trên trời dành cho chúng ta.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II



Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 07-7
St 23, 1-4.19;24,1-8.62-67; Mt 9, 9-13.

Lời suy niệm: “Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mátthêu đang ngồi tại trạm, Người bảo ông: Anh hãy theo tôi! Ông đứng dậy đi theo Người.”
Mátthêu làm nghề thu thuế đối với người Do-thái bị xếp vào loại người ô uế, không trong sạch, là loại người phản quốc, làm tay sai cho đế quốc Rôma, ai ai cũng ghét. Nhưng đối với Chúa Giêsu, với quyền năng của Người, Người không chỉ biết một người đang như thế nào, mà Người còn biết và thấy được họ sẽ nên như thế nào.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã chọn Mátthêu từ một người thu thuế, để đi theo Chúa và được Chúa huấn luyện, để trở thành một Tông đồ, một Thánh sử, viết Tin Mừng để lại cho nhân loại, nhờ đó trong mọi thời đại con người đã nhận ra tình yêu cứu độ của Chúa. Xin cho mỗi người trong chúng con nghe được tiếng gọi của Chúa, và bước đi theo Chúa.
Mạnh Phương


07 Tháng Bảy
Ðể Cho Lòng Tha Thứ Tiếp Tục Hiện Hữu
Chuyện "Nghìn lẻ một đêm" của Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau:
Có hai người anh em ruột nọ bắt chói được thủ phạm giết cha mình. Họ lôi kéo tên sát nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt răng đền răng. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha của họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật đã quy định... Trước mặt quan tòa, tên sát nhân đã thú nhận tất cả tội lỗi của mình. Nhưng trước khi bị đem ra xử, hắn chỉ xin một ân huệ, đó là được trở về nhà trong vòng ba ngày để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Sau thời hạn đó, hắn sẽ trở lại để chịu xử tử... Quan tòa xem chừng như không tin ở lời cam kết của tên tử tội. Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì trong đám đông những người tham dự phiên tòa, có một người giơ tay cam kết: "Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thế thay cho hắn".
Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Sau đúng kỳ hạn ba ngày, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang bước ra giữa pháp trường và dõng dạc tuyên bố: "Tôi đã giải quyết mọi việc trong gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tội xin trở lại đây để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi để người ta sẽ không nói: Chữ tín không còn trên mặt đất này nữa".
Sau lời phát biểu dõng dạc của kẻ tử tội, người đàn ông đã đứng ra bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông và tuyên bố: "Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này, là vì tôi không muốn để cho người ta nói: Lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa".
Sau hai lời tuyên bố trên , đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì là cao quý nhất trong lòng người...
Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói với quan tòa: "Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không còn nói: Lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa".
Giữa sa mạc cằn cỗi, một cụm cỏ hay một cánh hoa dại là cả một bầu trời hy vọng cho những người lạc lõng. Giữa sa mạc nóng cháy, một tiếng suối róc rách là cả một nguồn hy vọng tràn trề cho những ai đang đói khát... Giữa một xã hội khô cằn tình người, giữa một xã hội mà những giá trị tinh thần và đạo đức đã bị bóp nghẹt, chứng từ của người tín hữu Kitô cần thiết hơn bao giờ hết. Giữa biển khơi mù mờ, có biết bao kẻ chới với đang cần một chiếc phao của chữ tín, của lòng thành, của lòng quảng đại, của sự tha thứ...
Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói; Niềm tin vào cuộc sống, ý nghĩa của cuốc đời vẫn còn cháy sáng giữa xã hội.
Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.
Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Con người vẫn có thể yêu thương nhau và sống cho nhau.
Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Tôn giáo không là thuốc phiện mê hoặc quần chúng, nhưng là sức mạnh để cải thiện xã hội.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét