13/08/2017
Chúa Nhật 19 thường niên năm A
(phần I)
BÀI ĐỌC I: 1 V
19, 9a. 11-13a
"Ngươi hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa".
Trích sách Các Vua
quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy,
khi Êlia đã lên núi Horeb của Thiên Chúa, ông trú ẩn trong một cái hang... Có lời
Chúa phán cùng ông rằng: "Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa".
Bỗng Chúa đi qua; có một cơn gió mạnh xé núi non và nghiền nát đá trước mặt
Chúa; nhưng Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất động; Chúa
cũng không ở trong cơn động đất. Sau cơn động đất thì có lửa; nhưng Chúa cũng
không ở trong lửa. Sau lửa thì có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe thấy, Êlia liền lấy
áo choàng che mặt lại, đi ra đứng ở cửa hang. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 84,
9ab-10. 11-12. 13-14
Đáp: Lạy Chúa, xin
tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con (c. 8).
1) Tôi sẽ nghe Chúa là
Thiên Chúa của tôi phán báo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an.
Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự
trị trong Đất Nước chúng tôi. - Đáp.
2) Lòng nhân hậu và
trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất,
đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Đáp.
3) Vâng, Chúa sẽ ban
cho mọi điều thiện hảo, và Đất Nước chúng con sẽ sinh bông trái. Đức công minh
sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. -
Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 9,
1-5
"Tôi đã ước ao được loại khỏi Đức Kitô vì phần ích anh em của
tôi".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi
xin nói thật trong Đức Kitô, tôi không nói dối: lương tâm tôi làm chứng cho tôi
trong Thánh Thần: là tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn. Chính
tôi đã ao ước được loại khỏi Đức Kitô vì phần ích anh em của tôi, là những thân
nhân của tôi về phần xác. Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử,
được vinh quang, giao ước, lề luật, việc phượng tự và lời hứa: các tổ phụ cũng
là của họ, và bởi các đấng ấy mà Đức Kitô sinh ra phần xác, Người là Thiên Chúa
trên hết mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời.Amen. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 1,
14 và 12b
Alleluia, alleluia!
- Ngôi lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì
Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt
14, 22-33
"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi dân chúng đã ăn
no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước,
trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện
một mình. Đến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị
sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người
đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng
hồn mà nói rằng: "Ma kìa!", và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức,
Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!"
Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi
trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến!" Phêrô xuống
khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh,
ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu
con!" Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin,
tại sao mà nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những
người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên
Chúa". Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Phêrô, Người
Lái Con Thuyền Ðức Tin Hội Thánh
Lời Chúa hôm nay có thể đem lại nhiều suy tư phong phú. Mỗi bài đọc là một
biển mênh mông hay một rừng bát ngát: càng suy lại càng thấy rộng. Tiếc thay,
chúng ta chỉ có thể cùng nhau đọc lướt qua và nhặt lấy một vài tư tưởng nổi bật.
Các mẫu chuyện về Êlya, Phêrô và Phaolô khi ấy có thể gợi lên cho chúng ta một
số nét trong đời sống đức tin. Chúng ta có thể nhìn thấy các phấn đấu của mình
trong đời sống của các ngài. Và như vậy, Lời Chúa hôm nay sẽ quý giá cho chúng
ta.
A. Trước Hết, Êlya Là Chiến Sĩ Vô Ðịch Về Ðức Tin
Ông sinh sống vào khoảng cuối thế kỷ IX trước Công nguyên. Có thể nói,
ông đã khai mạc thời đại các tiên tri lớn trong Cựu Ước.
Không ai biết rõ dòng họ của ông. Như Melkisêdek, có thể nói ông là người
không cha không mẹ. Ðiều khác thường này, chứng tỏ ông là người xuất chúng nếu
không phải là mầu nhiệm. Người ta biết rõ các công việc của ông vì cả triều
đình thời bấy giờ thường phải bận tâm về sự hiện diện và lời ông giảng dạy. Nói
chung, tà giáo bấy giờ đang ở thế mạnh. Vua và hoàng hậu nuôi dưỡng từng ngàn
tiên tri Baal. Dân chúng tự nhiên cũng muốn chạy theo sự dễ dãi, vì giữ được được
đức tin chân chính đòi phải phấn đấu cam go. Nhưng Êlya không sợ đi ngược lại
trào lưu. Một mình ông cương quyết bênh vực chính giáo. Lòng nhiệt thành bất
khuất ấy hiện ra rõ rệt trong câu chuyện thách đố ở trên núi Karmel.
Toàn dân tập họp lại để xem Yavê hay Baal là Chúa thật. Một bên có tế
đàn của gần 1,000 tiên tri tà giáo. Và bên kia trơ trọi một mình Êlya, ông bảo
bên họ cứ đặt của lễ lên và cầu khẩn cho to cho khỏa để xin Baal cho lửa trời
xuống đốt. Họ tụng kinh inh ỏi từ sớm tới chiều, chẳng bỏ sót một vũ khúc tôn
giáo hay một nghi thức ma thuật nào. Kết quả, Baal vẫn như ngủ, như ngơ vì quả
thật nó chỉ là ngẫu tượng do trí óc thấp kém và nô lệ của con người bày ra. Bấy
giờ Êlya mới giơ tay cầu nguyện. Lập tức Yavê cho lửa xuống thiêu của lễ. Toàn
dân kính phục Yavê và tóm cổ bọn tiên tri tà giáo trừng phạt nặng nề.
Nhưng đâu đã hết. Tiếng dân về phe với Êlya, khiến hoàng cung căm phẫn.
Hoàng hậu cho người bắn tin sẽ lấy đầu người chiến sĩ vô địch đức tin kia. Và Êlya phải mau mau lẩn trốn
vào sa mạc.
Trước đây trận địa ở trước mặt toàn dân. Êlya là người có đức tin sống động.
Và đức tin này có việc làm và đã làm việc không quản gian lao. Bây giờ chiến địa
là sa mạc. Khó khăn không phải chỉ là khí nóng và hoang vu, nhưng còn là thân
thể nhọc mệt và tinh thần chán nản. Êlya nay không còn như một Môsê quyền năng ở
đất Aicập và trước mặt Pharaô nữa; nhưng cũng như Môsê và Dân Chúa ngày trước,
ông đang đi trong sa mạc, làm lại cuộc hành trình đầy thử thách hầu đức tin được
tôi luyện như vàng trong lửa.
Êlya tưởng mình cũng không hơn gì tiền nhân, những người đã tin Chúa, thờ
Chúa, bênh Chúa, nhưng rồi đã bị bạc đãi và bắt bớ. Chính lúc ấy Thần Chúa đã đến
viếng thăm, đem bánh và nước tới như xưa Dân Chúa đã nhận được manna và nước
mát. Và Êlya đã tiếp tục đi thêm 40 đêm ngày như Dân Chúa đã đi 40 năm nơi
hoang địa để cuối cùng đến núi Khoreb cũng gọi là Sinai, hầu nhận được mạc khải
cao cả, đánh dấu cao điểm của cuộc đời đức tin vững vàng.
Bài đọc 1 hôm nay thuật lại mạc khải này. Chúa cho Êlya thấy Người, không
phải trong bão táp, sấm động hay chớp lửa, nhưng trong hơi gió nhẹ nhàng làm
mát dịu con người.
Những ai quen biết lịch sử tôn giáo đã thấy ngay đây là một tiến bộ quan trọng.
Trước đây, người ta hình dung Thiên Chúa ở đàng sau những hiện tượng kinh hoàng
trời long đất lở, sấm chớp hãi hùng. Chính Dân Chúa cũng đã nhìn thấy đỉnh núi
Sinai như một lò lửa lớn khi có tiếng Yavê đến gần. Nay với Êlya, Thiên Chúa tỏ
ra nhẹ nhàng như thời khai nguyên. Ađam-Evà trước khi phạm tội đã được sống những
giây phút thân mật với Ngài, vì vào lúc gió chiều hiu hắt, Ngài đến tản bộ với
hai ông bà. Hôm nay Ngài cũng đến với Êlya sau làn gió nhẹ, để ông trở thành mẫu
người được hưởng sự êm ái của Thiên Chúa.
Truyền thống Kitô giáo đã mau mắn nhận Êlya là tổ phụ của đời sống chiêm niệm
kết hợp với Thiên Chúa, đang khi tâm lý bình dân đã sẵn sàng tôn ông là nhà vô
địch về đức tin. Nói đúng ra cuộc đời của Êlya chứng tỏ đời sống đức tin không
đơn giản. Người tín hữu phải biết chiến đấu bên ngoài và bên trong, phải có những
hành động chứng tỏ niềm trung tín đối với Chúa, nhưng cũng biết sống lặng lẽ để
kết hiệp trong sự thân mật với Người.
Và điều này, chúng ta cũng còn thấy trong câu truyện hôm nay về Phêrô và
các môn đệ, mặc dầu bài Tin Mừng Matthêô còn muốn nói nhiều hơn nữa.
B. Phêrô, Người Lái Con Thuyền Ðức Tin Hội Thánh
Hôm ấy cũng là một ngày rất đặc biệt! Chưa bao giờ người ta được chứng kiến
một cảnh tượng như thế. Với 5 ổ bánh và 2 con cá trao vào tay các môn đệ để
phát cho dân, Ðức Yêsu đã nuôi no khoảng 5,000 người, không kể đàn bà con trẻ.
Làm sao mọi người không phấn khởi! Và tránh sao được vẻ thỏa mãn hiên ngang
trên khuôn mặt các môn đồ! Êlya trên núi Karmel chưa chắc đã thỏa mãn hơn.
Nhưng để họ khỏi sa chước cám dỗ, Ðức Yêsu buộc họ phải lên thuyền về trước bắt
chước Êlya đi vào sa mạc. Còn Người ở lại giải tán dân và lên núi cầu nguyện.
Nhưng thuyền các môn đồ vừa ra xa, thì này sống gió nổi lên dữ dội trong
đêm tối. Cho mãi tới gần sáng vẫn còn như vậy. Con thuyền Hội Thánh quả thật ba
chìm bảy nổi khi vượt biển trần gian. Chỉ một dấu hiệu khác thường cũng đủ khiến
những kẻ ở trong thuyền sợ đến tột độ. Chính vì vậy mà vừa thấy một bóng đi xa
xa trên mặt nước, họ đã la lên hoảng hốt: kìa ma! kìa ma!
Nhưng đó lại là chính Ðức Yêsu. Người đã thôi cầu nguyện với Chúa Cha trong
nơi vắng vẻ để đi cứu giúp các môn đệ. Người lên tiếng trấn an họ. Phêrô liền
xin chạy trên nước để đến với Người. Nhưng thay vì để ý luôn nhìn vào Chúa, ông
lại nghĩ đến gió thổi. Và ông sợ. Ông bắt đầu chìm xuống, đến nỗi nếu không có
cánh tay của Chúa giơ ra đỡ dậy, sóng nước đã vùi dập ông.
Câu truyện này một lần nữa lại cho chúng ta thấy đời sống đức tin luôn đòi
phải phấn đấu. Nếu mẫu truyện về Êlya đã kể lại phấn đấu của một tâm hồn, thì ở
đây chúng ta thấy toàn thể Hội Thánh cũng phải phấn đấu. Các môn đồ của Chúa phải
biết mau mau gỡ mình ra khỏi sức cám dỗ của thành công đắc chí.
Hơn nữa con thuyền của Hội Thánh trong giai đoạn Chúa đang cầu bầu cùng
Chúa Cha ở trên trời luôn gặp sóng gió và phải phấn đấu trong trần gian u tối.
Không phải vô ý mà Matthêô đã kể câu truyện này sau phép lạ bánh hóa nhiều.
Cũng như ông sẽ kể: ra khỏi phòng Tiệc ly, các Tông đồ hầu như sa ngã. Ðó là
thân phận Hội Thánh sau các buổi họp phụng vụ và đi vào thế gian.
Hội Thánh phải phấn đấu; nhưng tự mình vẫn không đạt được hạnh phúc, mà phải
là chính Chúa ban cho. Cũng như nếu không nhận được thần lương, Êlya cũng đã
ngã gục. Và cũng như phần thưởng cuối cùng ông nhận được là việc chính Chúa tự
mạc khải mình cho ông, thì ở đây, bình an cứu độ cũng đã trở về với con thuyền
Hội Thánh khi Ðức Yêsu tuyên bố: Này Ta! Người dùng lại chính lời mạc khải trên
núi Khoreb, khi Môsê xin cho được biết Danh tánh Chúa. Và như Danh Chúa đã khiến
Môsê an tâm ra đi thi hành sứ vụ cứu dân, thì nay thấy Chúa phán: Ta đây, Phêrô
cũng muốn làm được công việc phi thường. Ông đã đi được một lúc ở trên nước.
Nhưng rồi sợ hãi đã chiếm lấy ông. Ðức tin của ông giảm bớt, khiến thân xác ông
muốn chìm theo. May mà ông đã kêu lên để từ đó Hội Thánh thấy rằng chỉ có Chúa
cứu được Hội Thánh khỏi sa chìm giữa thế gian.
Bài học này có thể nói chúng ta vẫn nhớ. Ðiều chúng ta dễ quên hơn là dường
như chỉ muốn được sống yên hàn trong Hội Thánh và đúng hơn được ở trong Hội
Thánh yên hàn. Nhưng như thế là không muốn hiểu đặc tính của đời sống đức tin.
Các mẫu truyện trên đây về Êlya và Phêrô chưa làm cho chúng ta thấy rằng đức
tin đòi phải phấn đấu; và những khi gặp thử thách về đức tin, ơn cứu độ của
chúng ta nằm nơi Danh Chúa. Chúng ta phải cầu nguyện, phải tìm Chúa trong thinh
lặng và phải rước Chúa vào lòng. Như vậy cũng mới chỉ giữ đức tin thôi. Ðức tin
chân chính phải mạnh mẽ hơn nhiều. Nó còn phải nung nấu tâm hồn chúng ta theo
như lời thánh Phaolô chia sẻ trong đoạn thư hôm nay.
C. Phaolô Muốn Chết Cho Ðức Tin Ðược Lan Rộng
Ai cũng biết người phải phấn đấu rất nhiều vì chính nghĩa đức tin. Nhiều lần
người cũng như Êlya bị người ta lùng bắt chỉ vì đã làm cho nhiều người tin vào Chúa
Kitô. Các môn đệ ở Ðama phải bỏ người vào thúng và thòng qua tường thành để cho
người chạy trốn. Và nhiều lần người đã gặp sóng gió, đắm tàu và thoát chết, chứ
đâu mới chỉ lún xuống nước như Phêrô. Thật, vất vả về đức tin có thể nói ít ai
đã như người. Nhưng chính người nói Ơn Chúa vẫn đủ cho người và người luôn luôn
lao mình về đàng trước để chạy cho hết cuộc hành trình.
Ðối với người, những thử thách như vậy còn chịu được với Ơn Chúa. Duy có điều
sau đây thật là nặng nề. Ðó là việc người Dothái cứng lòng không chịu tuân phục
đức tin. Họ là đồng bào của người. Hơn nữa họ là Dân được tuyển chọn. Họ còn là
dòng dõi sinh ra Ðức Yêsu. Thế mà sao họ vẫn từ chối ơn cứu độ?
Người đã nỗ lực, có thể nói là quá sức, để lôi kéo họ. Ðặt chân đến nơi
nào, người cũng tìm đến Hội đường Dothái, làm quen với những người đồng bào của
người, trao đổi với họ về Lời Hứa dành cho Dân tộc. Nhưng mọi cố gắng hầu như
thất bại hoàn toàn. Rất ít người chấp nhận đức tin. Phần lớn con cháu Abraham
theo xác thịt, không những vẫn không ngấm mà còn chống đối và bách hại giáo lý
cứu độ.
Theo tính tự nhiên, có lần Phaolô đã phủi chân tuyên bố sẽ dứt khoát đi đến
với dân ngoại. Nhưng nói thế chứ làm sao bỏ được đồng bào và nhất là Dân tộc
mang đầy Lời Hứa! Thiên Chúa đã làm bao việc kỳ diệu để gìn giữ Dân tộc ấy; và
cuối cùng đã sai Con Ngài mặc xác thể trong dòng máu này. Làm sao Phaolô không
quằn quại săn sóc tương lai cho họ? Không những vì họ mà thôi, nhưng nhất là vì
Chúa. Dân được chọn trở thành dân bị gạt bỏ sao?
Do đó Phaolô rất buồn và đau đớn không ngừng. Có Chúa Yêsu và Thánh Thần
làm chứng như vậy. Và chứng của hai người, hơn nữa của hai Ðấng Thánh như vậy,
dĩ nhiên rất giá trị. Cuối cùng, để không ai còn có thể hồ nghi, thì này Phaolô
sẵn sàng "bị tuyệt thông" cho anh em đồng bào của người được rỗi.
Ý nghĩ đó là tận cùng rồi. Vì ở thời ấy, bị tuyệt thông, bị loại ra khỏi bộ
lạc, có nghĩa là đeo bản án vào thân, không còn quyền làm người trong bộ lạc nữa,
ai gặp cũng có thể giết mà không bị tội. Ấy là nói có người còn muốn giết! Vì
con người bị khai trừ kia cũng không đáng giết nữa. Có thể coi nó như con chó bị
đuổi ra khỏi nhà.
Khi có ý tưởng như vậy, Phaolô thật sự muốn chia sẻ tâm tình cứu thế của Ðức
Kitô, vì chính Ngài cũng đã trở nên đồ bị khai trừ vì tội lỗi chúng ta.
Do đó Phaolô không phải chỉ là chiến sĩ vô địch về đức tin như Êlya. Người
không nhượng bộ kẻ thù của Thánh giá, dù là một bước. Người cũng không lấy việc
chèo lái con thuyền các giáo đoàn qua sóng gió như Phêrô làm cực nhất. Con thuyền
đức tin ở trong tay người, sự sống đức tin nơi tâm hồn người không những trông
cậy vào ơn Chúa để lướt thắng phong ba, mà còn muốn chọc thủng bức màn còn che
mắt đồng bào Israel của người để họ nhận ra Ðức Kitô và thờ lạy Ngài. Và cho được
như vậy, người sẵn sàng dâng sinh mạng làm lễ tế cho con thuyền Hội Thánh đi được
tới đích.
Chúng ta chắc chưa có đức tin như vậy. Nhưng phải vươn lên. Phải phấn đấu
cho đức tin của mình. Phải tha thiết cầu mong cho đồng bào nhận biết Chúa. Phải
tham dự thật sự vào lễ tế dâng trên bàn thờ vì phần rỗi mọi người. Phải sống lễ
tế mà giờ đây chúng ta đứng lên để cử hành.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 19 Thường Niên, Năm A
Bài đọc: I Kgs 19:9,
11-13; Rom 9:1-5; Mt 14:22-33
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa hiện diện ở đâu trong cuộc đời chúng
ta.
Nhìn lại quãng đời đã
đi qua nhiều khi làm chúng ta kinh ngạc: Có những điều trước đây chúng ta không
bao giờ nghĩ là mình có được, thế mà bây giờ lại có! Có những nơi không bao giờ
chúng ta nghĩ mình có thể đặt chân đến đó, thế mà lại đến và sống ở đó! Có những
trở ngại mà lúc phải đương đầu chúng ta nghĩ không thể vượt qua, thế mà lại vượt
qua được... Suy nghĩ những điều này làm chúng ta tự hỏi: Lạ thật! Hình như có
người nào điều khiển cuộc đời chứ không phải chính chúng ta, vì có điều chúng
ta mong muốn lại không xảy ra, và có điều chúng ta không mong muốn lại xảy ra!
Những điều này không
chỉ xảy ra cho chúng ta trong thời đại này, nhưng nếu theo dõi kinh nghiệm của
người xưa được thuật lại trong các Bài đọc hôm nay, chúng ta có thể nhận ra những
nét quen thuộc. Trong bài đọc I, tiên tri Elijah cảm thấy nhiệt thành hăng hái
khi dự cuộc thi để làm chứng cho Đức Chúa trên núi Carmel; nhưng khi phải chạy
trốn hoàng hậu Isabel, ông cảm thấy buồn tủi và trách Thiên Chúa sao để ông phải
chạy trốn như vậy. Thiên Chúa hiện đến với ông trong làn gió nhẹ hiu hiu, để nhắc
nhở cho tiên tri biết Ngài vẫn đang hiện diện với ông. Trong bài đọc II, mặc dù
được Thiên Chúa dành đặc biệt để loan truyền Tin Mừng cho Dân Ngoại, thánh
Phaolô vẫn dành thời gian để rao truyền Đức Kitô cho người Do-thái vì lòng yêu
mến dân tộc của ông. Thánh Phaolô không thể hiểu lý do tại sao người Do-thái
không tin vào Đức Kitô mặc dù các ngôn sứ đã nói về Ngài trong Kinh Thánh. Sau
cùng, thánh Phaolô phải nhìn nhận Thiên Chúa có kế hoạch riêng cho họ. Trong
Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền cho tông đồ Phêrô được đi trên mặt nước biển mà đến
với Ngài; nhưng khi ông bắt đầu sợ hãi vì sóng gió nổi lên, ông bị chìm và kêu
cầu Chúa cứu. Ngài đưa tay đỡ ông và trách: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao
lại hoài nghi?"
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: thuật lại kinh nghiệm của tiên tri Êlijah, ông sống khoảng
960 BC.
1.1/ Lý do tiên tri
Elijah phải chạy trốn: Để hiểu Bài đọc hôm
nay, chúng ta cần đọc trở lại ít chương nữa trong Sách Các Vua, quyển I, chương
18. Ông là tiên tri duy nhất của Chúa còn sót lại và nhiệm vụ của ông là khôi
phục niềm tin vào Thiên Chúa đã mất trong Israel. Để thực hiện điều này, ông đã
bảo Vua Akhab sai triệu tập tòan thể con cái Israel trên núi Carmel. Tại đây,
ông đã thách thức 450 tiên tri của Baal để dự cuộc thi xem coi Chúa nào là Chúa
thật bằng cách mỗi bên xẻ một con bò tơ, xẻ thịt ra rồi đặt trên củi, nhưng
không châm lửa. Bên nào kêu xin thần của bên ấy, thần nào đáp lại bằng cách khiến
lửa từ trời xuống đốt cháy thịt, thần đó là Thiên Chúa; và họ đã chấp nhận dự
thi. 450 tiên tri của Baal kêu xin suốt từ sáng tới trưa mà không có lửa, nhưng
khi một mình tiên tri Êlijah kêu cầu Thánh Danh Chúa, thì Ngài đã khiến lửa từ
trời xuống thiêu rụi cả củi lẫn thịt.
Tòan dân thấy vậy thì
sấp mặt xuống đất và nói: “Yahvê chính là Thiên Chúa!” Êlijah truyền bắt trói tất
cả các tiên tri của Baal, mang xuống núi và cắt cổ họng hạ sát họ tại đó. Vì biến
cố này mà hòang hậu Isabel ra chiếu chỉ bắt giết Êlijah để đền mạng cho các
tiên tri bị hạ sát của bà, và Êlijah phải tìm đường chạy trốn từ Bắc xuống Nam,
và trèo lên núi Hôreb nơi Thiên Chúa đã trao Thập Giới cho Môisen. Phần vì sợ
hãi mệt mỏi, phần vì đường xa đói khát làm ông nản chí, ông mong được chết và
nói: "Lạy Đức Chúa! Đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con
chẳng hơn gì cha ông của con." Ông vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Có
lời Đức Chúa phán với ông: "Elijah ngươi làm gì ở đây?" Ông thưa:
"Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh nung nấu con,
vì con cái Israel đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại
các ngôn sứ của Ngài. Chỉ còn sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng
sống con." Người nói với ông: "Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt
Đức Chúa.”
1.2/ Thiên Chúa hiện đến
với ngôn sứ Elijah: Có tất cả 4 sự kiện xảy
ra được tường thuật hôm nay.
(1) Gió to bão lớn xẻ
núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn
gió bão.
(2) Sau đó là động đất,
nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất.
(3) Sau động đất là lửa,
nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa.
(4) Sau lửa có tiếng
gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Êlijah lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài
đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông: "Êlijah, ngươi làm gì ở
đây?"
Rất nhiều lần trong cuộc
đời, nhất là những lúc phải đương đầu với bao nhiêu thử thách khó khăn, chúng
ta kêu van Chúa để Ngài giúp chiến đấu; nhưng không thấy bóng dáng Ngài đâu!
Nhiều lúc quá mệt mỏi vì cố gắng xây dựng, chúng ta cũng đã phải thốt lên như
Êlijah: “Chúa ơi! Quá đủ rồi! Không còn sức để đi tiếp nữa!” Nhưng sau những
lúc ấy, khi cuộc đời bình an trở lại, chúng ta nhận ra kết quả của những gì
chúng ta làm, chúng ta nhận ra ai đã giúp chúng ta chiến đấu trong khi mọi người
bỏ rơi chúng ta! Ngài đúng là một Thiên Chúa ẩn mình! Chúng ta có thể nhận ra
Ngài trong tiếng gió hiu hiu, nhưng chưa bao giờ được thấy mặt Ngài!
2/ Bài đọc II: thuật lại kinh nghiệm của Thánh Phaolô, gần 2000 năm trước
chúng ta.
2.1/ Thánh Phaolô muốn rao giảng Tin Mừng cho cả Do-thái
cũng như cho Dân Ngoại: Thánh Phaolô, người
sống cả ngàn năm sau tiên tri Êlijah, cũng cùng tâm trạng này. Ngài đã trở lại
và trở thành tông đồ cho Dân Ngọai sau biến cố ngã ngựa và bị mù trên đường đi
Damascus để bắt bớ những tín hữu theo đạo. Lòng nhiệt thành vì muốn cho mọi người
hiểu và tin vào Chúa Kitô, ngài đã không quản ngại bất cứ một khổ cực nào để
loan truyền Lời Chúa. Mặc dù gặt hái được nhiều thành công nơi Dân Ngọai, nhưng
ngài phải đương đầu với rất nhiều chống đối và bắt bớ từ những người Do Thái đồng
hương của ngài.
Trong trình hôm nay,
ngài đã thành thực chia sẻ: “Có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi
không nói dối và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho
tôi rằng: lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi. Quả vậy, giả như
vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa
Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng.” Chúng ta đã biết Đức Kitô quan trọng thế nào
cho cuộc đời Thánh Phaolô, thế mà ngài có thể thốt lên những lời tâm huyết này
vì quá khao khát ơn Cứu Độ cho người Do Thái đồng hương của ngài.
2.2/ Thánh Phaolô không
hiểu nổi lý do nhiều người Do-thái không tin Đức Kitô: Vì họ đã được thừa hưởng các đặc ân dành cho Israel mà
Dân Ngọai không có: Họ là người Israel, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được
Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và
các lời hứa. Họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo
huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ.
Tuy nhiên, Thiên Chúa
đã có kế họach của Ngài và con người không thể hiểu kế họach đó: Chính vì sự cứng
lòng tin của họ mà Dân Ngọai được nghe Tin Mừng và được sát nhập vào làm Dân
Chúa. Chính Thánh Phaolô đã thú nhận: Sau cùng Chúa sẽ cứu Israel! Khi nào chuyện
ấy sẽ xảy ra? Thời gian là của Chúa và không ai biết được ngày ấy ngọai trừ
Chúa.
3/ Phúc Âm: Chúa truyền cho Thánh Phêrô đi trên biển để đến với Chúa.
Phép lạ trên Biển Hồ
hôm nay được tường thuật sau phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi 5000 người
ăn bởi hấu hết các Thánh Ký. Chúa Giêsu muốn các tông đồ tiếp tục công việc thường
nhật nên Ngài bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người
giải tán dân chúng vì họ muốn tôn người làm vua (trình thuật của Gioan). Giải
tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một
mình. Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược
gió.
3.1/ Các tông đồ sợ hãi
khi nhìn thấy có người đi trên mặt nước biển và tiến về phía các ông: Các tông đồ là dân chài, nên có thể không sợ hãi nhiều
vì sóng gió; nhưng khi thấy có người đi trên mặt biển thì các ông kinh hoàng vì
không người nào có thể đi trên biển ngọai trừ quyền lực siêu nhiên; nhưng Chúa
Giêsu liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!"
Sợ hãi và hồ nghi là bản
năng của con người, nhưng một khi đã được lý trí soi sáng cho biết điều gì đáng
tin và không nên sợ, con người cần vượt thắng những bản năng này. Phêrô có lý
do để tìm ra Sự Thật khi yêu cầu: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin
truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài." Đức Giêsu bảo ông:
"Cứ đến!" Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với
Đức Giêsu.
3.2/ Sự sợ hãi làm cho
Phêrô bắt đầu chìm: Phêrô đã đi được trên mặt
nước nên ông không nên hồ nghi và sợ hãi nữa vì ông đã biết rõ người đứng trước
mặt là Chúa Giêsu và uy quyền của Ngài có thể cho ông đi trên mặt nước, điều mà
con người không thể làm được. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu
chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với!" Đức Giêsu liền đưa
tay nắm lấy ông và nói: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài
nghi?" Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong
thuyền bái lạy Người và nói: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!"
Đời mỗi người chúng ta
là một cuộc hành trình trên biển như Phêrô: có lúc bình an, có lúc sóng gió, có
lúc lật thuyền gần chìm. Khi nào chúng ta có lòng tin vững mạnh vào Chúa thì
chúng ta sẽ bước đi bình an giữa muôn ngàn sóng gió; nhưng nếu chúng ta hồ nghi
sự hiện diện hay uy quyền của Chúa trong cuộc đời, chúng ta sẽ chao đảo vì sóng
gió. Những lúc như vậy, chúng ta có cảm tưởng như không thấy sự hiện diện của
Chúa hay Người đang để chúng ta chiến đâu một mình; nhưng thực ra Chúa vẫn đồng
hành ngay bên và sẵn sàng cứu vớt khi gần bị chết chìm.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Qua các bài đọc và
kinh nghiệm cá nhân, chúng ta đã học được bài học quá khứ: bàn tay Chúa luôn ở
với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc đời.
- Tương lai đi đâu, đến
chỗ nào, gặp ai, làm gì, chuyện gì sẽ xảy ra, lúc nào, thành công hay thất bại…
chúng ta mù tịt; nhưng như tổ phụ Abraham, chúng ta cứ thẳng đường tiến tới, vì
chúng ta đã có kinh nghiệm quá khứ: bàn tay Thiên Chúa không bao giờ rời chúng
ta.
- Chúng ta hãy sống
giây phút hiện tại cách an bình và làm tất cả những gì có thể. Không than thân
trách phận khi phải đương đầu với quá nhiều đau khổ. Không nóng lòng chất vấn
Chúa khi đã quá cố gắng mà chưa nhìn thấy kết quả. Không kết án cũng chẳng tiên
đoán điều gì sẽ xảy ra cho ai vì cuộc đời còn dài, và cuộc đời mỗi người nằm
trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
13/08/2017
CHÚA NHẬT
TUẦN 19 TN – A
Mt 14,22-33
Mt 14,22-33
NIỀM TIN THẮNG LO SỢ
Đức Giê-su bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14, 27).
Suy
niệm: Sợ hãi
là tâm trạng thường tình
khi ta đứng
trước những hiểm nguy, những
mối đe
dọa nghiêm
trọng. Không
ít những
sách báo hướng dẫn cách
thức đương
đầu với các mối
lo sợ để
có cuộc
sống an vui hạnh
phúc.
Chúa
Giê-su
không
xa lạ với những nỗi âu lo sợ
hãi của
con người. Chính
Ngài
trong vườn Giết-sê-ma-ni đã trải qua những giây
phút
kinh hoàng
sợ hãi.
Tuy nhiên
Phúc
Âm cho thấy,
Ngài
là Thiên Chúa
toàn
năng. Ngài đã
chiến thắng và luôn sẵn sàng để giúp
con người chiến thắng nỗi lo sợ. Ngài
có đủ uy quyền
để chế ngự mọi thế lực ác thần
và mang đến cho ta sự
bằng an, hạnh
phúc
đich thực
miễn là
ta đặt
niềm tin nơi
Ngài.
Khi các
môn đệ hốt hoảng vì
sóng to gió lớn Ngài ra lệnh
cho trời im biển
lặng và
khiển trách
Phê-rô khi ông tỏ ra kém lòng tin.
Mời Bạn: Trong đời
sống bạn không tránh khỏi những lúc lo
âu: những cám
dỗ, đau
ốm bệnh tật, nguy cơ
mất đức
tin, mất việc làm, thất
bại,.. Khi chạm
trán
với bão
tố thử thách như
thế, ta không tránh
được nỗi lo lâu sơ
sệt. Nhưng điều
quan trọng là
ta không
được phép
để cho nỗi sợ làm
tê liệt
chúng
ta, làm
cho ta không
còn ý chí
phấn đấu,
nhất là
ngã
lòng trông cậy, đánh mất
niềm tin nơi
Thiên
Chúa.
Hãy luôn tin Chúa đang
ở gần bên ta. Chúa không
bỏ rơi ta. Những lúc
gặp giông
bão trong đời là
cơ hội để cho ta được trưởng thành trong đức tin.
Sống Lời Chúa: “Bạn hãy phó thác
bản thân
trong tay Đấng
Quan Phòng
giàu
lòng thương
xót, hãy phó
thác
cho Mẹ Maria Vô Nhiễm và hãy ở trong sự bình
an.”
(Thánh
Kon-bê)
Cầu nguyện: Đọc
kinh Tin-Cậy-Mến.
(5 phút Lời Chúa)
XIN CHO CON ĐI TRÊN MẶT NƯỚC (13.8.2017 – Chúa nhật 19 Thường niên, Năm A)
Chúng ta chỉ bắt đầu hiểu tin là gì khi phải chịu lênh đênh giữa sóng gió và đêm tối chỉ vì Chúa buộc phải ra đi, khi dám xin đi trên mặt nước dù Chúa chỉ là cái bóng
trước mặt.
Suy niệm:
Giữa lúc dân chúng định
tôn Ðức Giêsu làm Vua,
sau khi đã được no nê
bánh và cá,
thì Ngài lại giải tán họ,
và buộc các môn đệ phải
chèo thuyền qua bờ bên kia.
Yên lặng trở lại với nơi
hoang vắng.
Chỉ còn một mình Ðức
Giêsu, cầu nguyện.
Ngài chìm sâu trong gặp
gỡ Cha, Ðấng sai Ngài.
Nhưng Ðức Giêsu không
quên các môn đệ.
Ngài biết họ đang vật lộn
với sóng gió, một mình.
Kinh nghiệm cam go này
thật cần cho họ.
Mãi gần sáng, Ngài mới đi
trên mặt nước mà đến.
Các môn đệ tưởng là ma,
nên kêu la sợ hãi.
Ðức Giêsu trấn an họ:
“Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ.”
Tuy còn ngờ vực, Phêrô đã
dám liều đề nghị:
“Nếu quả là Thầy, thì xin
cho con
được đi trên mặt nước mà
đến với Thầy.”
Thật là một lời đề nghị
làm ta kinh ngạc.
Phêrô có thể chỉ cần nói:
Nếu quả là Thầy, thì xin
cho sóng gió yên lặng.
Nói như thế dễ hơn nhiều,
ít nguy hiểm hơn nhiều.
Nhưng Phêrô đã chấp nhận
dấn thân nghiêm túc.
Nếu không phải là Thầy,
thì thật là dại dột.
Nhưng nếu đúng là Thầy,
thì ông tin mình cũng đi
được trên mặt nước như Thầy.
Ðức Giêsu chấp nhận đề
nghị của Phêrô: “Cứ đến.”
Thế là Phêrô bước ra, đi
trên mặt nước, đến với Ðức Giêsu.
Thật không thể tưởng
tượng nổi,
mặt nước trở nên cứng như
đá,
hay con người có đức tin
trở nên nhẹ bổng.
Phêrô đi được bao xa, ta
không rõ,
nhưng lòng ông thì cứ reo
lên sau mỗi bước đi:
“Ðúng là Thầy rồi!”
Phải tin thì mới dám xin
đi trên mặt nước,
nhưng phải dám đi trên
mặt nước, thì mới tin trọn vẹn.
Cần ngắm nhìn những bước
chân của Phêrô,
những bước chân của lòng
tin mạnh mẽ.
Nhưng khi gió lồng lên dữ
dội, nỗi sợ hãi ùa vào,
lòng tin bị chao đi với
sóng,
lúc đó Phêrô thấy mình bị
hút xuống lòng biển.
Ông chỉ kịp kêu lên: “Lạy
Thầy, xin cứu con.”
Bàn tay Chúa đưa ra nắm
lấy ông và đưa ông về thuyền.
“Người kém tin, tại sao
lại hoài nghi!”
Hoài nghi và sợ hãi đã
làm Phêrô trở nên nặng nề,
và nhận chìm ông xuống.
Chúng ta chỉ bắt đầu hiểu
tin là gì
khi phải chịu lênh đênh
giữa sóng gió và đêm tối
chỉ vì Chúa buộc phải ra
đi,
khi dám xin đi trên mặt
nước
dù Chúa chỉ là cái bóng
trước mặt.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút
con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân
xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời
chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình
bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG TÁM
Xây Dựng Một Nơi Cư
Ngụ Xứng Đáng
Cho Con Người
Con người được mời gọi
phát triển thế giới, làm việc hướng về việc phát triển tốt hơn các hệ thống
kinh tế và văn hóa. Công việc này là một phần của ơn gọi con người, vì con người
được mời gọi làm chủ trái đất. Đó là lý do tại sao sự suy nghĩ khoa học và kỹ
thuật hiện đại cũng như văn hóa và sự khôn ngoan của mọi thời phải được định
hình bởi con người để phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa đối với tạo vật của
Ngài.
Công Đồng Vatican II
nhìn nhận giá trị và chức năng của công việc và văn hóa trong thời đại chúng
ta. Thật vậy, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng mô tả tình hình xã hội và văn hóa mới
của chúng ta với những khả năng thay đổi và tiến bộ nhanh chóng của nó. Những
khả năng này làm nhiều người ngạc nhiên và đem lại niềm hy vọng cho nhiều người
khác. (MV 53-54).
Công Đồng không ngần ngại
nhìn nhận những thành tựu ngoạn mục của con người. Công Đồng đặt những thành tựu
này trong bối cảnh kế hoạch và lệnh truyền của Thiên Chúa cho con người. Công Đồng
liên hệ những thành tựu ấy với Phúc Âm về tình huynh đệ được rao giảng bởi Đức
Giê-su Kitô. “Khi cày cấy với hai bàn tay hoặc với phương tiện kỹ thuật để trái
đất nảy sinh hoa quả và trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của toàn thể gia đình
nhân loại, và khi tham dự cách ý thức vào tập thể xã hội, con người đã tuân
theo ý định của Thiên Chúa được tỏ bày ngay từ thuở đầu là loài người phải chế
ngự trái đất và hoàn tất công cuộc tạo dựng, đồng thời con người phát triển được
chính bản thân; và cùng khi ấy con người tuân giữ giới răn quan trọng của Chúa
Kitô là hiến thân phục vụ anh em” (MV 57; 63).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên
tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
13/08/2017
Gương Thánh Nhân
Thánh Pontian và
Thánh Hippolytus
(k. 235)
Vào năm 235, Maximinus
làm hoàng đế Rôma và hầu như ngay sau khi lên ngôi, ông bắt đầu bách hại người
Kitô Giáo. Một trong những hình phạt thông thường đối với các giám mục và linh
mục là các ngài bị lưu đầy đến những quặng mỏ nguy hiểm ở Sardinia, nước Ý.
Chính vì sự bách hại này mà ngày nay chúng ta mừng kính hai thánh tử đạo.
Thánh Pontian lên ngôi
giáo hoàng sau khi Ðức Urban I từ trần năm 230. Khi Maximinus lên ngôi hoàng đế,
Ðức Pontian cùng chung số phận với các Kitô Hữu khác và ngài phục vụ Giáo Hội
trong sự đau khổ ở Sardinia.
Hippolytus là một linh
mục và là học giả ở Rôma. Ngài có nhiều sáng tác về thần học và là bậc thầy tài
giỏi. Hippolytus thất vọng với Ðức Giáo Hoàng Zephyrinus (được tử đạo năm 217)
vì đức giáo hoàng không mau mắn ngăn chặn những người giảng dạy cách lầm lạc.
Khi Ðức Callistus I được bầu làm giáo hoàng kế vị Ðức Zephyrinus, Hippolytus
cũng không hài lòng. Lúc bấy giờ, rất đông người theo Hyppolytus và họ đồng
lòng bầu Hippolytus lên làm giáo hoàng. Vị thần học gia tài giỏi này đã không
chế ngự được tính kiêu ngạo và đã chấp nhận. Khi cuộc bách hại bùng nổ,
Hyppolytus bị bắt và cũng bị lưu đầy đến Sardinia.
Trong hoàn cảnh đáng
thương ấy, môät phép lạ hòa giải đã xảy ra giữa sự cười nhạo của kẻ thù. Ðức
giáo hoàng Pontian gặp gỡ với Hippolytus trong hoàn cảnh lưu đầy và vị linh mục
tài giỏi này đã cảm hóa trước sự khiêm tốn của vị giáo hoàng. Hippolytus trở về
với Giáo Hội và mọi tức giận đều tiêu tan. Ðức giáo hoàng Pontian thông cảm với
vị linh mục. Ngài nhận ra nhu cầu của mỗi người là phải giúp đỡ và khuyến khích
lẫn nhau trong tình bác ái của Ðức Giêsu Kitô. Cả hai đã được phúc tử đạo và
mãi mãi trở nên nhân chứng cho sự tha thứ và niềm hy vọng Kitô Giáo.
Nguồn :
Nguoitinhuu.com
13 Tháng Tám
Bức Tường Ô Nhục
Ngày 13/8/1961, sau nhiều cuộc thương thảo vô ích giữa
Washington và Mascơva nhằm giải quyết cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Ðông
và Tây, Kruschev, chủ tịch nhà nước Liên Xô, đã ra lệnh cho xây cất một bức tường
ngăn cách Ðông và Tây Bá Linh. Bức tường này được dựng lên không những để đánh
dấu sự đọan tuyệt giữa Ðông và Tây, nhưng còn để ngăn chặn làn sóng những người
Ðông Ðức ồ ạt chạy sang tỵ nạn tại Tây Bá Linh. Khối Ðông Âu thì giải thích rằng
bức tường này được dựng lên là để ngăn chặn những người Tây Phương có thể đến
Ðông Ðức để làm gián điệp. Còn phía Tây Phương thì lại gọi bức tường đó là bức
tường ô nhục... Nhưng dù được gọi dưới danh hiệu nào, dù được xây dựng dưới mục
đích nào, bức tường ngăn cách giữa Ðông và Tây Bá Linh vẫn mãi mãi là biểu
trưng của những chia cách giữa con người mà chính con người đã tạo nên...
Có những bức tường
ngăn cách về kinh tế, chính trị, chủng tộc, văn hóa do con người dựng lên...
Nhưng cũng có những bức tường vô hình mà mỗi người chúng ta có thể xây lên để tự
ngăn cách với người khác.
Bức tường vô hình đó
trước tiên là bức tường của nghi kỵ. Người ta thường xây kín khu vực của mình ở
bằng kín cửa cao tường là bởi vì người ta sợ con mắt dòm ngó của những người
xung quanh. Sự nghi kỵ không những ngăn ngừa người khác đến với mình, nhưng còn
giam hãm chính mình trong cô đơn...
Bức tường vô hình cũng
là bức tường của ích kỷ. Người ích kỷ chỉ biết đến thế giới của mình và khép mắt,
bịt tai trước những gì đang xảy ra cho người khác...
Bức tường đó cũng có
thể là bức tường của sự bất cảm thông. Kẻ xây tường để bao bọc mình sẽ không muốn
nhìn thấy và thông cảm với những người xung quanh...
Nhưng bức tường nào
cũng là một nấm mồ chôn kín mình trong sự cô đơn. Càng bảo vệ chính mình, con
người càng mất mát trong sự hao mòn. Trái lại, càng cởi mở, càng đến với tha
nhân càng triển nở trong nhân cách...
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét