06/06/2018
Thứ Tư tuần 9 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm
II) 2 Tm 1, 1-3. 6-12
"Con hãy làm sống
lại ơn Thiên Chúa trong con qua việc đặt tay của cha".
Khởi đầu thư thứ hai của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timôthêu.
Phaolô, tông đồ của Ðức
Giêsu Kitô, bởi ý định của Thiên Chúa, thể theo lời hứa ban sự sống trong Ðức
Giêsu Kitô, gởi lời hỏi thăm Timôthêu, người con yêu dấu. Nguyện chúc ân sủng,
lòng từ bi và bình an của Thiên Chúa Cha và Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở
cùng con. Cha cảm tạ ơn Thiên Chúa, Ðấng cha phụng thờ như tổ tiên cha đã làm,
với một lương tâm trong sạch, ngày đêm cha luôn luôn nhớ đến con, khi cha cầu
nguyện. Vì thế, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do
việc đặt tay của cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí
nhát sợ, mà là thần trí dũng mạnh, bác ái và tiết độ. Vậy con, con chớ hổ thẹn
làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con
hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng
đã giải thoát và kêu mời chúng ta bằng ơn thiên triệu thánh của Người, không phải
do công việc chúng ta làm, mà là do sự dự định và ân sủng đã ban cho chúng ta từ
trước muôn đời trong Ðức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện
của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Chuộc chúng ta. Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự
chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng. Cha đã được đặt làm
kẻ rao giảng, làm tông đồ và làm thầy dạy các dân ngoại. Cũng do đó, cha phải
chịu những thử thách này, nhưng cha không hổ thẹn, vì cha biết cha tin vào Ðấng
nào, và cha chắc chắn rằng Người có quyền phép gìn giữ kho tàng của cha cho đến
ngày đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 122, 1-2a.
2bcd
Ðáp: Lạy Chúa, con ngước mắt nhìn lên Chúa (c. 1a).
Xướng: 1) Con ngước mắt
nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ
nhìn vào tay các vị chủ ông. - Ðáp.
2) Như mắt của những
người tỳ nữ nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa là
Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Ngài thương xót chúng tôi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! -
Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 12, 18-27
"Người không
phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có ít người phái
Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng:
"Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết
đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng
dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không
con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba
cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết.
Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người
nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ". Chúa Giêsu trả lời rằng:
"Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của
Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì
không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ
chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời
Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa
Giacóp". Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống.
Vậy các ông thật lầm lạc".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Có sự sống lại
Tin Mừng hôm nay mô tả
cuộc đụng độ đầu tiên giữa Chúa Giêsu và nhóm người Sađốc. Những người Sađốc
thuộc về hàng tư tế quí tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt
tôn giáo, họ rất bảo thủ. Ðối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm
cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau
này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại.
Do đó chẳng có gì ngạc nhiên khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.
Thật thế, dựa vào niềm
tin mà họ cho là đúng đắn, những người Sađốc bắt đầu hỏi Chúa Giêsu bằng bộ luật
Môsê, theo đó khi người chồng chết, nếu người vợ anh ta chưa có con, thì người
anh (hoặc em) chồng phải cưới bà này để nối dõi tông đường.
Họ đặt ra trường hợp một
người đàn bà có bảy đời chồng, vào lúc sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy
người anh em vì tất cả đã lấy bà làm vợ? Những người Sađốc hỏi thế, không phải
vì thành tâm tìm kiếm để sống theo sự thật, mà chỉ để đùa giỡn với sự thật mà
thôi.
Chúa Giêsu biết rõ họ
ngoan cố và cố ý thử thách Ngài, nhưng Ngài vẫn điềm tĩnh và chỉ cho họ thấy sự
dốt nát lầm lẫn của họ: Thứ nhất, họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh và quyền năng của
Thiên Chúa; thứ hai, hoàn cảnh con người sau khi sống lại hoàn toàn thay đổi,
không giống như lúc còn sống ở trần gian này. Chúa Giêsu nói rõ có sự sống lại,
nhưng sở dĩ họ không tin là vì họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Thật thế, trong
sách Môsê, đoạn nói về bụi gai, Thiên Chúa phán: "Ta là Chúa của Abraham,
Chúa của Isaac, Chúa của Yacob", Ngài không là Chúa của kẻ chết, mà là của
kẻ sống. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài
không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa,
vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết,
thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống
như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải chết và cũng chẳng phải dựng vợ gả
chồng nữa.
Từ khi Chúa Giêsu mạc
khải về sự thật này, biết bao người đã tin vào Thiên Chúa và đã sống trọn vẹn với
niềm tin đó; biết bao người đã can đảm sống sự thật được mạc khải, dù phải hy
sinh mạng sống, dù phải từ bỏ mọi danh lợi trần gian. Ðó là gương của những vị
anh hùng tử đạo qua bao thế hệ nơi các dân tộc.
Nguyện xin Chúa soi lòng
mở trí chúng ta hiểu biết và mộ mến Lời Chúa dạy trong sách Kinh Thánh, để
chúng ta am tường các mầu nhiệm của Chúa và thực thi thánh ý Chúa. Xin cho
chúng ta trân trọng sự sống, trau dồi cuộc sống tại thế tốt đẹp để được sống đời
đời với Chúa.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 9 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 2
Tim 1:1-3, 6-12; Mk 12:18-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng cắt
nghĩa rõ ràng phúc trường sinh bất tử.
Sự sống đời đời hay
phúc trường sinh bất tử là yếu tố quyết định làm con người sống thế nào trong
cuộc sống đời này. Nếu một người không tin có sự sống đời đời, người đó sẽ làm
mọi cách để hưởng thụ cuộc sống ngắn ngủi đời này, vì đó là quãng thời gian duy
nhất họ có để hưởng thụ. Họ sợ đau khổ, sợ mất những gì họ có, và nhất là sợ chết
vì chết là mất tất cả. Ngược lại, nếu một người tin có cuộc sống trường sinh bất
tử, người đó sẽ làm mọi cách cho được hưởng cuộc sống hạnh phúc đời sau cho dẫu
phải hy sinh chịu đau khổ ở đời này. Họ sẽ không quan tâm lắm đến việc hưởng thụ
cuộc sống đời này vì họ biết còn cả một cuộc sống đời đời để hưởng hạnh phúc với
Thiên Chúa.
Các bài đọc hôm nay muốn
nêu bật câu hỏi có cuộc sống trường sinh bất tử không và làm thế nào để đạt được
cuộc sống ấy. Trong bài đọc I, thánh Phaolô nhắn nhủ Timothy, người môn đệ yêu
quí của mình hãy nhớ lại Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho mọi người và sự
cần thiết của việc rao giảng Tin Mừng để mọi người biết Thiên Chúa muốn họ được
hưởng sự sống đời đời qua việc sai Người Con xuống trần để chuộc tội cho họ.
Trong Phúc Âm, một số người Sadducees, những người không tin có sự sống lại, dựa
vào Luật Moses bày ra một câu hỏi để chứng minh với Chúa Giêsu không có sự sống
lại. Chúa Giêsu mắng họ đã sai lầm vì không hiểu Kinh Thánh: Thiên Chúa không
phải là của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng
mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.
1.1/ Sự hiểu biết về cuộc
sống đời đời qua các thời đại: Sự hiểu biết
về sự sống lại và cuộc sống đời sau tuy đã được nói tới trong Cựu Ước; nhưng
chưa rõ nét lắm. Đa số dân chúng vẫn tin cuộc sống hạnh phúc chỉ ở đời này, ai
làm lành sẽ được Thiên Chúa cho sống lâu, cho nhiều con cháu, và cho của cải vật
chất.
Đến thế kỷ thứ 2 BC,
tiên tri Daniel là một trong số người đầu tiên nói về sự sống lại, sự phán xét
và sự sống đời sau: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi
dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm
muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người
người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Dan 12:2-3). Bà
mẹ và bảy anh em nhà Maccabees sẵn sàng chết để tuân giữ luật của cha ông, vì họ
tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác và linh hồn cho họ. Bà mẹ khuyên người con
út bằng những lời tin tưởng sau đây: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong
lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không
phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá
càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính
Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi
vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình” (2 Mac 7:22-23).
Đến thời Chúa Giêsu,
Ngài mặc khải cho con người rõ ràng sự sống đời đời nằm trong Kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa, và Ngài chính là Đấng mang phúc trường sinh bất tử cho con người
qua cái chết và sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Đây chính là cốt lõi của Tin Mừng
mà Phaolô rao giảng và Ngài nhắc nhở cho môn đệ yêu quí là Timothy hôm nay: Phải
đem Tin Mừng này cho mọi người để họ cũng nhận được phúc trường sinh bất tử đó.
1.2/ Làm sao con người đạt
được phúc trường sinh bất tử: Đại đa số những
người Do-thái thời Chúa Giêsu tin, họ có thể đạt được cuộc sống đời sau bằng việc
giữ cẩn thận các Lề Luật của Moses. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho họ biết
Lề Luật không có sức làm cho họ được cuộc sống trường sinh bất tử; nhưng họ phải
tin và làm những gì Ngài truyền dạy. Thánh Phaolô là một ví dụ cho sự thay đổi
này vì Ngài tin vào sức mạnh của Lề Luật cho tới khi bị ngã ngựa trên đường đi
Damascus. Ngài dạy rõ ràng trong Thư Roma và Thư Galat: con người được công
chính hóa (điều kiện để có ơn cứu độ) là do bởi niềm tin vào Đức Kitô, chứ
không do bởi việc giữ Luật vì không ai có thể giữ trọn vẹn Luật. Ngài lặp lại
điều đó với Timothy hôm nay: “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh
của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch
và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong
Đức Giêsu Kitô, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức
Giêsu Kitô đã xuất hiện. Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin
Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu mặc khải về sự sống đời đời
2.1/ Khi người ta từ cõi
chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng: Trình
thuật hôm nay nói về cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người thuộc phái
Sadducees. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Họ là những người thuộc
phái lãnh đạo và là thành phần giàu có, nhiều người trong số họ là tư tế hay
thượng tế. Khi họ đã có quyền hành, danh vọng, giầu có ở đời này, họ không cần
đến sự sống đời sau nữa!
Họ dựa vào Luật (Deut
25:5) để chứng minh với Chúa Giêsu là “không có sự sống lại;” vì người vợ đó
không thể thuộc về cả bảy người nếu có sự sống lại. Chúa Giêsu trả lời họ thẳng
thắn: “Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông
lầm sao? Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy
chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (cf. Lk 20:35-36).
2.2/ Thiên Chúa không phải
của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống: Chúa
Giêsu nói họ không hiểu Kinh Thánh đúng đắn, vì Kinh Thánh đã nói về sự sống lại
rồi. Khi Thiên Chúa hứa với Abraham sẽ ban cho ông một dòng dõi và đất làm gia
sản. Ngài hứa cho Abraham, chứ không phải chỉ cho dòng dõi của ông. Abraham phải
sống để nhìn thấy dòng dõi và hưởng đất làm gia sản; nếu không, ông làm sao biết
lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Lý luận tương tự như thế cho những lời
Thiên Chúa hứa với Isaac, Jacob, và vua David.
Trong trình thuật hôm
nay, Chúa Giêsu dẫn chứng lời Thiên Chúa nói với Moses trong đoạn nói về bụi
gai: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của
Jacob.” Động từ “là” được dùng ở thời hiện tại để chỉ Người luôn luôn là Thiên Chúa
của Abraham, Isaac và Jacob. Điều này có nghĩa các tổ phụ đó phải đang sống.
Chúa Giêsu kết luận: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của
kẻ sống. Các ông lầm to!”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Hiểu biết mặc khải của
Thiên Chúa về phúc trường sinh bất tử là kiến thức không thể thiếu cho chúng ta
và cho tất cả mọi người, vì biết làm sao sẽ sống như vậy.
– Phúc trường sinh bất
tử là do bởi tình thương Thiên Chúa. Chúng ta không thể dựa vào bất cứ lý do gì
ngoài việc tin tưởng Đức Kitô và giữ những gì Ngài truyền dạy.
– Chúng ta đừng mô tả
Thiên Đàng theo trí tưởng tượng và sở thích con người, nhưng phải học hỏi Kinh
Thánh để biết cách đúng đắn về cuộc sống đời sau.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
06/06/2018 – THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 9 TN
Th. Nô-be-tô, giám mục
Mc 12,18-27
SỰ SỐNG LẠI LÀ CÓ THẬT
“Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ
sống.” (Mc 12,27)
Suy niệm: Có người nói rằng chết là
sự kết thúc, có người lại nói chết là sự khởi đầu một cuộc sống mới. Đó là hai
quan niệm trái ngược của hai phe nhóm thường đối đầu nhau trong thời Chúa
Giê-su. Những người thuộc phái Xa-đốc đặt vấn nạn “người vợ có bảy đời chồng” để
biện minh tính phi lý của niềm tin vào sự sống lại, vừa có ý gài bẫy Chúa
Giê-su, vừa để đả phá phe đối lập là nhóm Pha-ri-sêu. Chúa Giê-su đã bác bỏ lập
luận đó khi Ngài cho biết sự sống lại và cuộc sống đời sau không đơn thuần là lặp
lại cuộc sống ở thế giới này theo kiểu “dương sao âm vậy” mà là một cuộc sống
muôn phần tốt đẹp hơn: cuộc sống giống như các Thiên Thần, không còn dựng vợ gả
chồng nữa.
Mời Bạn: Chúa Giê-su đã minh chứng
Lời của Ngài bằng cái chết và sự phục sinh của mình. Đó chính là một bảo chứng
chắc chắn cho đức tin của chúng ta. Mời bạn ngồi lại trong thinh lặng và suy
nghĩ cách nghiêm túc về một ngày kia bạn sẽ chết. Trong cuộc sống thường ngày,
bạn làm gì chứng tỏ mình tin có sự sống lại và sự sống đời sau?
Chia sẻ: Trong kinh Tin Kính, bạn tuyên xưng: “Tôi tin xác loài
người ngày sau sống lại và sự sống đời sau.” Với bạn, đây là một công thức sáo
rỗng, hay chứa đựng niềm tin sâu xa của mình?
Sống Lời Chúa: Quyết
tâm chừa bỏ một nết xấu khiến bạn không thể đạt được hạnh phúc đời đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
Đấng đã phục sinh từ cõi chết để cho chúng con được sống đời đời, xin Chúa giúp
chúng con cương quyết chừa bỏ tội lỗi để xứng đáng hưởng sự sống muôn đời với
Chúa trên Nước Trời. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Thiên Chúa của kẻ sống
(6.6.2018 – Thứ Tư Tuần 9 Thường niên B)
Suy niệm:
Khi được hỏi về cuộc sống mai hậu,
Đức Khổng Tử đã trả lời đại khái như sau:
chuyện đời này còn chưa nắm hết, nói gì đến chuyện đời sau.
Nhưng chuyện đời sau vẫn là thao thức muôn thuở của con người.
Con người muốn biết sau cuộc sống ngắn ngủi này, mình sẽ đi về đâu.
Đi mà không rõ đích đến thì sẽ đi lông bông vô định.
Tiếc là có người đã tin rằng chẳng có gì sau cái chết!
Nhóm Xađốc cũng thuộc hạng người trên.
Họ là những tư tế Do thái giáo bảo thủ, không chấp nhận các ý tưởng mới
như chuyện người chết sống lại hay sự hiện hữu của các thiên thần.
Trong Kinh Thánh, họ chỉ dựa vào Ngũ Thư, trong đó có sách Đệ nhị luật.
Sách này có nói đến chuyện một người trong họ hàng gần (Đnl 25, 5-10),
phải lấy bà vợ góa không con của anh em mình, để có người nối dõi.
Nhóm Xađốc đã đưa ra một trường hợp hãn hữu và buồn cười (cc. 20-23),
để cho thấy chuyện sống lại là vô lý, và Môsê cũng chẳng tin chuyện đó.
“Khi sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.”
Đức Giêsu đã nặng lời chê các tư tế trong nhóm này (c. 24).
Họ đã hiểu cuộc sống đời sau như một thứ kéo dài cuộc sống hiện tại,
nơi đó người ta vẫn cưới vợ, lấy chồng, vẫn sinh con đẻ cái.
Đức Giêsu cho thấy một bộ mặt khác hẳn của đời sau.
Người được sống lại là người bước vào cuộc sống hoàn toàn mới.
Họ sống “như các thiên thần trên trời” (c. 25),
nghĩa là sống trọn vẹn cho việc phụng sự Thiên Chúa,
với một thân xác đã được biến đổi nên giống thân xác Đấng phục sinh.
Nhưng đừng hiểu thiên đàng là nơi mất đi sự ấm áp của tình người.
“Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43).
“Thầy đi dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3).
Tình yêu với Thầy Giêsu và những mối dây thân ái giữa người với người,
chẳng có gì bị phá vỡ, nhưng trở nên hoàn hảo vững bền.
Người ta sẽ không cưới hỏi hay sinh con,
nhưng tình nghĩa vợ chồng được nâng lên một bình diện mới.
Đức Giêsu trưng dẫn sách Xuất hành để minh chứng có sự sống lại.
Thiên Chúa nhận mình là Thiên Chúa của các tổ phụ Ítraen (Xh 3,15).
Mà người Do thái tin là Ngài không gắn mình với các anh hùng đã chết.
Vậy Abraham, Ixaác và Giacóp phải là những người đang sống,
nghĩa là những người đã chết và đã được phục sinh.
Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau qua kinh Tin Kính.
Nhưng sống niềm tin ấy giữa thế giới vật chất và vô tín là điều không dễ.
Chỉ xin cho vất vả lo toan đời này không làm ta quên đời sau.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6 THÁNG SÁU
Những Hữu Thể Siêu
Việt
Công Đồng Vatican II
nói về nguồn gốc con người trong công cuộc sáng tạo: “Con người duy nhất với
xác và hồn. Xét về thể xác, con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới
vật chất. Vì thế nhờ con người mà những yếu tố ấy đạt tới tuyệt đỉnh của chúng”
(MV 14).
Rồi sau đó, các Nghị
Phụ của Công Đồng tuyên bố: “Thực vậy, con người không lầm lẫn khi họ nhận biết
mình cao cả hơn vũ trụ vật chất và không coi mình chỉ như một mảnh vụn của
thiên nhiên… Bởi vì, nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật.”
Như vậy. ta thấy rằng
sự thật về duy nhất tính và lưỡng diện tính của bản tính con người có thể được
trình bày bằng một ngôn ngữ có thể hiểu được đối với thế giới ngày nay.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 06/ 6
Thánh Nôbertô, giám
mục
2Tm 1, 1-3.6-12; Mc
12, 18-27.
Lời suy niệm: Đức Giêsu nói:
“Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm
sao? Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng,
nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.”
Qua việc nhóm người Sađốc họ có chủ trương không tin có sự sống lại đời sau, họ
đã dưa ra một câu chuyện không tưởng để họ bảo vệ lập luận của họ khi đối thoại
với Chúa Giêsu. Chính nhờ câu chuyện này chúng ta được Chúa Giêsu giải thích
cho cả chúng ta hôm nay đó là: – Khi sự sống lại xãy ra và một người đã thực sự
sống lại, thì các đinh luật của sự sống thể xác không còn giá trị nữa: “Khi người
ta từ cõi chết sóng lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống hư các
thiên thần.” Và đối với những ai tin vào Kinh Thánh, thì Chúa Giêsu đã dùng đoạn
kinh Thánh trong Sách Xuất Hành khi Thiên Chúa nói với Môsê: “Ta là Thiên Chúa
của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác và Thiên Chúa của Giacóp.” Người không phải
là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống”
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con luôn vui hưởng: “Thật con ở với Chúa luôn,
tay con Ngài nắm chẳng buông chẳng rời, dắt dìu khuyên nhủ bao lời, một mai đưa
tới rạng ngời vinh quang.” (Tv 73,23-24)
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
06-06: Thánh NÔBERTÔ
Giám Mục (1080 –
1134)
Thánh Noberto sinh khoảng
năm 1080 tại Xanten, Ngài là con út trong một gia đình vương giả và có họ với
nhà vua. Theo truyền thống cao thượng, Ngài đã được dự tính cho làm linh mục.
Nhưng thời còn niên thiếu, Noberto đã sống quá xa lý tưởng. Giàu có của cải
cũng như dồi dào sinh hư, lại có bản chất dễ dãi, Noberto cho mình vào những buổi
lễ linh đình và những cuộc vui chơi thế gian. Không bao giờ một ý tưởng đứng đắn
lại có thể xóa tan được những ảo tưởng Ngài nuôi dưỡng trong lòng.
Điều may mắn là khi
ham vui như vậy, Ngài vẫn không sao nhãng việc học hành. Nhờ vậy, Noberto thông
hiểu mọi khoa học, vua Henty mến chuộng Noberto và thâu dụng vào triều đình.
Tuy nhiên Noberto vẫn tiếp tục nếp sống xưa. Biết rằng: chỉ có nhân đức mới
mang lại hạnh phúc cho tâm hồn, nhưng Noberto lại yêu chuộng “xiềng xích” và
không can đảm bẻ gãy được.
Một ngày kia Noberto cỡi
ngựa đến một làng ở miền Wesphale. Ngài dẫn theo một giai nhân đi tìm thú vui.
Khi đến giữa một đồng cỏ thì một cơn giông tố nổi lên sấm chớp dữ dằn. Khó tìm
được một nơi trú ngụ, nên Ngài phi ngựa nước rút mong sớm tới đích. Nhưng một
cú sét đánh ngay vào chân ngựa. Con vật hoảng hốt hất tung Kỵ sĩ xuống đất.
Noberto nằm bất tỉnh tại chỗ như chết trong một giờ. Tỉnh dậy Noberto kêu lên
như thánh Phaolô ngày trước: – Lạy Chuá, Chúa muốn con làm gì ?
Một tiếng nói bên
trong đáp lại: – Hãy tránh sự dữ và làm điều lành.
Noberto chỗi dậy và
quyết đền bù đời sống đã qua. Khi trở lại triều đình , Ngài trở về Xanten, sống
những thinh lặng nội tâm, mặc áo nhặm và dành trọn thời gian cho viêc suy gẫm cầu
nguyện. Từ đó, Ngài đã không còn đặt một giới hạn nào cho bậc trọn lành nữa,
Ngài đã dành hai năm sám hối để dọn mình chịu chức linh mục và chỉ dâng thánh lễ
đầu tiên sau 40 ngày chuẩn bị trực tiếp, Ngài bán hết mọi của cải, phân phát
cho người nghèo rồi đi chân không đến xin Đức giáo hoàng ban quyền cho đi rao
giảng Tin Mừng khắp nơi. Những bài giảng nhất là chính đời sống gương mẫu của
Ngài đã tạo nên được nhiều cuộc hối cải là lùng. Chính trong khi thực hiện nỗ lực
tông đồ này mà thánh Noberto đã thiết lập tu viện ở Premontré, thường được gọi
là dòng áo trắng.
Năm 1126, Noberto được
đặt làm Tổng giám mục tại Magdburg. Đức tân giám mục vẫn không giảm bớt khắc khổ
đi chân không, Ngài nỗ lực đổi mới giáo phận với nhiệt tâm của một thánh nhân bậc
nhất. Trong nỗ lực ấy, Ngài phải chịu dựng biết bao là khó khăn, người ta tìm
cách cản trở đến độ muốn mưu sát Ngài, nhưng lòng quả cảm và sự nhẫn nại đã đưa
Ngài tới thành công. Trong một ít năm, Ngài đã sửa lại được những lạm dụng và
làm cho mọi chỗ nên đạo đức hơn. Ngài thường nói: – Tôi đã ở trong triều đình
đã rút vào đơn độc, đã được dặt nhiều chức vụ, nhưng tôi đã không tìm thấy được
điều gì đẹp hơn là được phụng sự Chúa và thuộc trọn về Ngài.
Ở vào địa vị tổng giám
mục, thánh Noberto từ đây cũng ảnh hưởng tới Giáo hội ngày càng nhiều hơn. Ngài
là bạn của thánh Bernadô và đã giúp đỡ thánh nhân chống lại giáo hoàng giả
Anacletus, Ngài cũng đã thành công trong việc chống lại lạc thuyết của Chúa
trong bí tích Thánh Thể.
Sau bao nhiêu nỗ lực để
đổi mới lòng đạo đức trong giáo phận thánh Noberto qua đời vì kiệt sức vào năm
1134.
(daminhvn.net)
06 Tháng Sáu
Tuần Hành Chống Lại Sợ Hãi
Buổi sáng ngày 06
tháng 6 năm 1966. Trương cao biểu ngữ với tựa đề: Tuần Hành Chống Lại Sợ Hãi, một
người da đen 32 tuổi đã bước xuống quốc lộ thứ 51 của thành phố Memphis thuộc
tiểu bang Mississipi bên Hoa Kỳ. Tiểu bang Mississipi có tất cả một triệu người
da đen. Mặc dù luật pháp Hoa kỳ bảo đảm cho mọi người công dân, không phân biệt
chủng tộc và địa vị xã hội, quyền được bỏ phiếu, trong thực tế chỉ có 100 ngàn
người da đen đủ can đảm thi hành quyền này. Con số còn lại, vì sợ hãi bởi nhiều
sức ép khác nhau đã không dám đi bỏ phiếu.
James Meredith, người
thanh niên da đen nói trên, đã tuyên bố: “Chúng ta cần phải giải thoát khỏi những
sợ hãi do người da trắng tạo ra. Tôi sẽ tuần hành từ Memphis đến thủ phủ của tiểu
bang để chứng tỏ cho mọi người thấy rằng một người da đen có quyền sống và đi lại,
tôi muốn thắng vượt nỗi sợ hãi và những đe dọa do những người phân biệt chủng tộc
tạo nên”.
Trong phút chốc,
nhiều người, kể cả những người da trắng, đã ra khỏi nhà và tuần hành bên cạnh
Meredith. Meredith tâm sự với một vị mục sư đi bên cạnh như sau: “Thoạt tiên,
tôi định mang theo một khẩu súng. Nhưng cuối cùng, tôi quyết định mang theo một
khí giới duy nhất: đó là quyển Kinh Thánh”.
Meredith dự định
băng qua 350 cây số để đến tiểu phủ của tiểu bang, nhưng chưa đầy một ngày đường,
anh đã bị một người da trắng quá khíh bắn ngã gục. Phát súng định mệnh đó làm
rung động toàn thể nước Mỹ.
Giữa lúc Meredith
đang nằm điều trị tại một nhà thương, từng đoàn người đến thăm và ủng hộ sáng
kiến của anh. Sự sợ hãi giờ đây nhường chỗ cho một phong trào đang vươn lên với
đầy khí thế…
Mục sư Martin Luther
King, giải thưởng Nobel về Hòa Bình và là thủ lãnh của phong trào tranh đấu bất
bạo động của người da đen tại Hoa Kỳ, đã ngỏ lời với từng trăm ngàn người đang
đứng trước cửa bệnh viện Memphis như sau: “Cuộc tuần hành chống lại sợ hãi sẽ
không bao giờ chấm dứt. Chúng ta sẽ xuống đường lại ngay mà nơi Meredith đã bị
bắn gục. Con đường từ Memphis đến Jackson chỉ dài độ 350 cây số. Nhưng xiềng
xích của sợ hãi và đe dọa mà chúng ta muốn bẻ gãy lại còn dài gấp bội”.
Những người da đen bên
Hoa Kỳ đã phải trải qua những năm tháng dài dưới sự đe dọa và sợ hãi. Sợ hãi là
tâm trạng thường tình của những ai đang sống trong đe dọa, bất an.
Không biết mình sẽ bị
bắt giữ lúc nào, không biết mình sẽ được phóng thích lúc nào, không biết mình
có đủ cơm ăn áo mặc cho ngày mai không, không biết tương lai của con em mình sẽ
như thế nào, không biết niềm tin của mình rồi ra có còn đứng vững trước những
đe dọa không. Từng nỗi hoang mang ấy khiến ai trong chúng ta cũng đã một lần trải
qua sợ hãi.
Chúa Giêsu, trong những
giây phút nguy ngập nhất đã trấn an các môn đệ của Ngài: “Các con đừng sợ hãi,
vì Ta đã thắng thế gian”. Nghĩ đến cuộc khổ nạn đang chờ đợi ở trước mắt, Chúa
Giêsu đã run rẩy sợ hãi đến độ toát mồ hôi máu. Nhưng cuối cùng, Ngài đã thắng
vượt tất cả bằng khí giới của Tình Thương. Tình Thương là sức mạnh của Ngài
trong bao thử thách… Meredith đã không mang theo súng đạn để trấn an chính
mình, anh chỉ mang theo một quyển Kinh Thánh. Phải, bởi vì Kinh Thánh là biểu
hiện của Tình Thương.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét