12/06/2018
Thứ Ba tuần 10 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1 V 17, 7-16
"Vò bột không
cạn và bình dầu không giảm như lời Chúa đã dùng lời Êlia mà phán".
Trích sách Các Vua quyển
thứ nhất.
Trong những ngày ấy,
giòng suối nơi Êlia ẩn náu đã cạn, vì trong xứ không mưa. Bấy giờ Thiên Chúa
phán cùng Êlia rằng: "Hãy chỗi dậy, đi Sarephta thuộc miền Siđon và ở lại
đó: Ta đã truyền cho một quả phụ nuôi dưỡng ngươi". Ông liền lên đường đi
Sarephta. Khi ông đến trước cửa thành, ông thấy một quả phụ đang lượm củi; ông
gọi bà và nói với bà rằng: "Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi
uống". Ðương lúc bà đi lấy nước, ông gọi lại mà nói: "Xin cũng mang
cho tôi một miếng bánh". Bà thưa: "Có Chúa là Thiên Chúa hằng sống chứng
giám: Tôi không có sẵn bánh, tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu
trong bình. Này đây tôi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn, rồi
chết thôi". Êlia trả lời bà rằng: "Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã
nói. Nhưng, với chút bột ấy, trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra
đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel
truyền rằng: "Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi, cho đến
ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất". Bà đi làm theo lời ông Êlia; chính
ông và bà cùng cả nhà đều đủ ăn; từ ngày đó, hũ bột không cạn và bình dầu không
vơi, như lời Chúa đã dùng Êlia mà phán.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 4, 2-3. 4-5.
7-8
Ðáp: Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình
chúng con (c. 7b).
Xướng: 1) Khi con cầu,
nguyện Chúa nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã giải thoát con trong cơn
khốn khó, nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu. Người quyền thế, các ông cứng
lòng tới bao giờ nữa? Tại sao say đắm bả phù hoa và kiếm chuyện sai ngoa? -
Ðáp.
2) Nên biết rằng Chúa
biệt đãi thánh nhân Ngài, Chúa sẽ nghe tôi khi tôi cầu khẩn Chúa. Hãy run lên
và thôi phạm tội, hãy hồi tâm nghĩ lại trên giường nằm, và hãy lặng thinh. -
Ðáp.
3) Nhiều người nói:
"Ai chỉ cho ta thấy điều thiện hảo?" Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên
nhan Chúa trên mình chúng con. Chúa đã gieo vào lòng con niềm vui, vui hơn tụi
kia khi chúng tràn đầy lúa rượu. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".
- Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5, 13-16
"Các con là sự
sáng thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta
biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ
còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một
thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp
đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người
trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ
xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Muối và Ánh
Sáng
Muối là để làm gia vị,
đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của
Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ
mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Ðấng
là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về
Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội.
Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con
người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội
chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.
Các tín hữu tiên khởi
đã xác tín về điều đó, cuộc sống bác ái yêu thương của họ đã là muối và ánh
sáng cho nhiều người. Những tiến bộ về khoa học, văn hóa, kinh tế và ngay cả
chính trị tại Âu Châu thời Trung Cổ quả là thể hiện vai trò muối và ánh sáng của
Giáo Hội. Không ai có thể vai trò hạt nhân về phát triển của các Tu viện Công
giáo. Văn minh Tây phương, dù muốn hay không, vẫn là văn minh Kitô giáo. Những
giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được ngày nay, như tự do, dân chủ, nhân quyền,
đều là những giá trị xuất phát từ Kitô giáo. Qua những giá trị tinh thần ấy,
chúng ta có thể nói rằng muối của Giáo Hội đã ướp được phần lớn trái đất, ánh
sáng của Giáo Hội đã chiếu soi vào những góc tối tăm của tâm hồn.
Tuy nhiên, hình ảnh muối
và ánh sáng vẫn luôn gợi lên cho chúng ta cái tư thế nhỏ bé của Giáo Hội. Người
ta chỉ cần một lượng nhỏ muối để ướp một lượng lớn thực phẩm, một cái đèn nhỏ
cũng đủ để chiếu dọi một khoảng không gian lớn. Phải chăng với hình ảnh của muối
và ánh sáng, Chúa Giêsu không muốn ám chỉ tới cái vị thế đàn chiên nhỏ bé là
Giáo Hội? Ðã qua hơn 2,000 năm lịch sử, các môn đệ Chúa Giêsu đã đi khắp thế giới
để rao giảng cho mọi dân tộc. Nếu xét về con số, thì thực tế không thể chối cãi
là hơn 2/3 nhân loại vẫn chưa trở thành môn đệ Chúa Giêsu, và càng ngày xem chừng
những người mang danh hiệu Kitô càng nhỏ lại, nếu so với những người ngoài Kitô
giáo.
Muối và đèn soi vốn là
những hình ảnh gợi lên cho chúng ta cái tư thế thiểu số của Giáo Hội trong trần
thế, nhưng lại mời gọi chúng ta xác tín về sứ mệnh vô cùng to tát của Giáo Hội.
Bằng mọi giá, Giáo Hội phải ướp mặn thế giới, phải chiếu soi trần gian bằng
chính chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã mạc khải và ủy thác cho mình. Cả vận mệnh
nhân loại tùy thuộc sứ mệnh của Giáo Hội, do đó không có lý do nào cho phép
Giáo Hội xao lãng sứ mệnh ấy. Thánh Phaolô đã nói lên sự khẩn thiết của sứ mệnh
ấy như sau: "Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cũng phải luôn luôn
rao giảng Tin Mừng của Chúa".
Ðã có một lúc Giáo Hội
gặp nhiều dễ dàng và thuận tiện trong việc thực thi sứ mệnh: cả một quốc gia, cả
một lục địa đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thế nhưng, cũng có biết bao thời kỳ Giáo
Hội bị khước từ, bị bách hại, đây chính là lúc không thuận tiện mà thánh Phaolô
nói đến và cũng là lúc Giáo Hội càng phải rao giảng mạnh mẽ và kiên quyết hơn.
Chính vì là thiểu số, và là một thiểu số bị loại trừ và bách hại, Giáo Hội lại
càng phải ý thức hơn về vai trò là muối và ánh sáng của mình.
Một trong những nguy
cơ lớn nhất đối với Giáo Hội chính là thỏa hiệp: thỏa hiệp để được một chút dễ
dãi, thỏa hiệp để được một chút đặc quyền đặc lợi. Thực ra, đã là thỏa hiệp tức
là đánh mất một phần căn tính của mình: thay vì muối để ướp cho mặn, thì muối lại
đánh mất chất mặn của mình đi; đã là đèn dùng để soi sáng thì đèn lại bị đặt dưới
đáy thùng; thay vì rao giảng lời chân lý, Giáo Hội thỏa hiệp để chỉ còn rao giảng
lời của những sức mạnh đang khống chế mình. Xét cho cùng, sứ mệnh của muối và
ánh sáng cũng chính là sứ mệnh của tiên tri. Số phận của tiên tri là số phận của
thiểu số, nhưng là thiểu số dám lên tiếng rao giảng chân lý, sẵn sàng tố cáo bất
công, và dĩ nhiên sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình.
Giáo Hội là muối và
ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế
gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì
một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược
chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và
ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Nguyện xin Chúa ban
thêm sức mạnh, để dù chỉ là một thiểu số, chúng ta vẫn luôn là muối có sức ướp
mặn xã hội, là đèn có sức chiếu soi xã hội.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 10 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 1
Kgs 17:7-16; Mt 5:13-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Các tín hữu
phải soi sáng cho những người chưa biết Thiên Chúa.
Một người hay một vật
hữu ích khi người đó hay vật đó làm những gì giả sử phải làm; ví dụ: học sinh
phải học, cảnh sát phải giữ trật tự và bảo vệ dân, chó phải giữ nhà, cây ăn
trái phải cho trái ăn, cái cuốc phải đào được đất. Nếu không làm nhiệm vụ giả sử
phải làm, người đó hay vật đó trở thành vô ích. Người ta sẽ quăng đi và thay thế
bằng người hay vật khác.
Các bài đọc hôm nay muốn
nêu bật bổn phận của các tín hữu là phải soi sáng cho những người chưa biết
Thiên Chúa để họ cũng tin vào Ngài. Trong bài đọc I, tác giả Sách Các Vua I tường
thuật niềm tin của một bà góa Dân Ngoại vào ngôn sứ Elijah và vào Thiên Chúa;
trong khi vua và toàn thể con cái Israel lìa xa Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu
đưa ra hai biểu tượng của muối và ánh sáng như hai đặc tính của người Kitô hữu
đã có, để nhắc nhở cho họ biết bổn phận của họ là phải giúp cho những người
chưa biết Chúa nhận ra và tin tưởng vào Ngài. Nếu không, họ là những người vô dụng
cần cất đi để lấy chỗ cho người khác sinh lợi ích cho Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Một bà góa Dân Ngoại biểu lộ niềm tin vào ngôn sứ Elijah và
vào Thiên Chúa.
1.1/ Có Đức Chúa, Thiên
Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh.
Thiên Chúa muốn ngôn sứ
Elizah chứng kiến niềm tin của Dân Ngoại chưa biết Thiên Chúa nên truyền cho
ông: “Ngươi hãy đứng dậy đi Zarephath, thuộc Sidon, và ở lại đấy. Này Ta truyền
cho một bà goá ở đó nuôi ngươi.” Điều lạ ở đây là người đó lại là một bà góa
nghèo đang đi lượm củi và cũng đang chịu cùng một cảnh khổ như tất cả các người
Israel khác. Nước rất khan hiếm vì trời hạn hán; nhưng khi Elijah xin, bà cũng
thương tình đi lấy cho ông chút nước. Nhưng khi Elijah xin bánh, bà thành thật
nói với ông hoàn cảnh bi đát của bà: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông
tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong
vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi.
Chúng tôi sẽ ăn rồi chết.” Ông Elijah hứa với Bà: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà
vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc
bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. Vì Đức
Chúa, Thiên Chúa của Israel phán thế này: “Hũ bột sẽ không vơi vò dầu sẽ chẳng
cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất.” Bà ấy đi và làm như ông
Elijah nói.
1.2/ Niềm tin can đảm của
bà góa thành Zarephath: Hoàn cảnh và cách biểu
lộ niềm tin yêu của bà góa cho Elijah và vào Thiên Chúa phải là mẫu gương cho
các tín hữu. Thứ nhất, bà là người Dân Ngoại chưa biết Thiên Chúa. Bà nghe nói
về Đức Chúa của Israel nhưng chưa biết Người là ai. Thứ hai, bà cũng không biết
Elijah là ngôn sứ. Bà chỉ biết ông là người Do-thái và đang lâm cơn hoạn nạn giống
như bà. Thứ ba, nước và bánh là hai thứ quí giá để bảo vệ sự sống cho con người
khi nạn đói hoành hành; nhất là hoàn cảnh mẹ góa con côi như bà. Thế mà bà tin
lời Elijah và Thiên Chúa của ông, Bà sẵn sàng chia sẻ chiếc bánh cuối cùng cho
ông. Thiên Chúa đã ân thưởng niềm tin can đảm của bà: “ông Elijah và con bà có
đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa
đã dùng ông Elijah mà phán.”
Chúa Giêsu dùng câu
truyện này để nhắc nhở cho người Do-thái biết họ phải xấu hổ về cách sống niềm tin
của họ; nhưng họ đã không nghe còn mang Ngài lên cao để xô Ngài xuống vực thẳm
(Lk 4:25-26). Thời của ngôn sứ Elijah, thời của Chúa Giêsu, và thời đại của
chúng ta, vẫn còn biết bao nhiêu nhiêu người chỉ mang cái vỏ “Kitô hữu;” nhưng
cách sống và cách biểu lộ niềm tin cho tha nhân không bằng một phần của những
người chưa bao giờ biết Thiên Chúa như trường hợp của bà góa nghèo nàn này!
2/ Phúc Âm: Anh em phải sống làm sao để họ thấy những công việc tốt đẹp
anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.
Đạo không phải chỉ giới
hạn trong việc biết Thiên Chúa và các nghi lễ trong nhà thờ; nhưng phải thấm nhập
vào mọi hoàn cảnh của cuộc sống để con người áp dụng những gì Chúa dạy. Chúa
Giêsu đưa ra hai biểu tượng rất gần gũi với con người và mời gọi chúng ta cùng
suy nghĩ:
2.1/ Công dụng của muối: Không có gì rẻ và căn bản hơn muối; nhưng muối làm nhiều
điều hữu ích cho con người:
+ Muối tượng trưng cho
trong sạch tinh tuyền: vì được kết tinh bởi ánh sáng mặt trời và nước biển.
Kitô hữu là những người đã được rửa sạch bằng máu Đức Kitô và thấm nhuần mọi
quà tặng của Thánh Thần, họ phải trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước khi
sinh ích cho người khác.
+ Muối dùng để ngăn ngừa
đồ ăn cho khỏi hư: Vì đặc tính mặn mà của muối, nên muối được dùng để làm cho
lương thực khỏi hư: thịt cá cần muối, rau cỏ cần muối như dưa, cà, kim chi,
trái cây cần muối nếu muốn để lâu. Ca dao Việt-nam dùng việc muối cá để nói lên
sự cần thiết của con cái phải vâng lời cha mẹ: “Cá không ăn muối cá ươn. Con
cãi cha mẹ trăm đường con hư.” Nếu điều này cần thiết cho con cái, những điều dạy
dỗ của Đức Kitô còn cần thiết hơn cho các Kitô hữu. Nếu không có vị mặn của muối,
làm sao các Kitô hữu có thể “ướp mặn lòng người. “Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy
gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài
cho người ta chà đạp thôi.”
+ Muối dùng để thêm
gia vị cho thực phẩm: Muối không thể thiếu trong việc nấu ăn, thực phẩm có ngon
tới đâu mà nếu không có chất mặn của muối hay nước mắm (cũng từ muối), cũng trở
thành vô vị. Người Kitô hữu đã được trang bị để trở thành muối cho đời. Điều cần
chú ý ở đây là Chúa Giêsu dùng động từ ở thời hiện tại “là;” có nghĩa: người
Kitô hữu đã và luôn có. Bản chất của Kitô hữu có những điều tốt để giúp cho thế
gian trở nên tốt.
2.2/ Công dụng của ánh
sáng: Biểu tượng này còn gần gũi với con người
hơn cả muối. Ánh sáng có rất nhiều công dụng.
+ Ánh sáng dùng để soi
sáng: Khi trời tối, con người cần ánh sáng để khỏi vấp ngã và tìm đồ đạc. Người
Kitô hữu có sự thật soi sáng để khỏi rơi vào sai lầm.
+ Ánh sáng dùng để sưởi
ấm: Khi trời lạnh, con người cần ánh sáng để sưởi ấm như ánh sáng mặt trời hay
lửa. Người Kitô hữu có Thánh Thần để sưởi ấm mọi cô đơn, buồn khổ.
+ Ánh sáng bảo vệ con
người khỏi nguy hiểm: Tội lỗi thường xảy ra ở nơi không có ánh sáng. Người làm
tội lỗi ghét ánh sáng vì họ sợ việc làm đen tối của họ bị phơi bày…
Chúa Giêsu nói: “Chính
anh em là ánh sáng cho trần gian.” Đã là ánh sáng thì không thể che giấu; nhưng
phải đặt trên cao để soi sáng cho mọi người, vì “chẳng có ai thắp đèn rồi lại để
dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.” Mục
đích của việc soi sáng là để những người chưa biết Thiên Chúa “thấy những công
việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải trở
thành muối thiêng ướp mặn lòng người và thành ánh sáng soi đường cho mọi người
đến với Thiên Chúa.
– Nếu chúng ta không
làm được những điều này, chúng ta đã trở thành người vô dụng, và phế thải để lấy
chỗ cho người khác.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
12/06/2018 – THỨ BA TUẦN 10 TN
Mt 5,13-16
MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO ĐỜI
“Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để
họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em.” (Mt
5,16)
Suy niệm: Đặt những huấn dụ về muối
và ánh sáng ngay sau Tám Mối Phúc Thật trong Bài Giảng Trên Núi, Phúc Âm theo
thánh Mát-thêu muốn khẳng định mạnh mẽ rằng sứ mạng loan báo Tin Mừng thuộc về
bản chất của người môn đệ. Muối và ánh sáng là những gì rất tác động. Bản chất
của muối là mặn; và muối giúp làm mặn thứ khác. Bản chất của ánh sáng là sáng;
và ánh sáng giúp soi sáng xung quanh. Điều thú vị là cả muối và ánh sáng đều rất
tĩnh lặng. Chúng có thể làm việc hết công suất mà tuyệt nhiên chẳng gây chút ồn
ào nào. Chúng tác động một cách bất khả kháng, song cũng rất âm thầm. Chỉ cần
chúng hiện diện đúng như bản chất của mình -là mặn, là sáng- và tự khắc môi trường
xung quanh sẽ nhiễm ‘mặn’ và nhiễm ‘sáng’. Thế thôi.
Mời Bạn: Chúa cũng đang nói với bạn
và tôi hôm nay: “Chính anh em là muối và ánh sáng cho trần gian.” Và sứ mạng của
chúng ta không hệ tại ở những ồn ào, phô trương ‘hoành tráng’ cho bằng là âm thầm
hiện diện đúng như bản chất Ki-tô hữu của mình. Vấn đề là ta có còn mặn và sáng
không mà thôi.
Chia sẻ: Là Ki-tô hữu trong địa vị của bạn (trong gia đình, nghề
nghiệp), bản chất mặn và sáng sẽ bao gồm những phẩm tính nào?
Sống Lời Chúa: Bắt đầu mỗi ngày sống, mỗi
công việc, bạn tự nhắc mình rằng hôm nay (hay trong công việc này) tôi phải thể
hiện bản chất mình là môn đệ của Đức Ki-tô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin giúp con trung thành trong sứ
mạng làm muối và ánh sáng cho đời. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Muối cho đời
(12.6.2018 – Thứ Ba Tuần 10 Thường niên B)
Suy niệm:
Người ta thường định nghĩa Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô,
là người sống mầu nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa,
hay đơn giản là người bạn của Ngài.
Chẳng thể nào nói đến Kitô hữu mà không nói đến mối dây với Đức Kitô.
Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, khi nói chuyện với các môn đệ,
những người vừa được nghe các Mối Phúc,
Đức Giêsu lại đưa ra một định nghĩa khác về họ.
“Các con là muối cho trái đất” (c. 13).
“Các con là ánh sáng cho thế giới” (c. 14).
Thế giới này, trái đất này, nằm trong định nghĩa về người Kitô hữu.
Không có Kitô hữu sống lơ lửng giữa trời và đất.
Họ thuộc về trời và thuộc về đất, về thế giới hiện tại và thế giới mai
sau.
Họ được sai vào thế giới này để phục vụ bằng cách biến đổi.
Muối có nhiều công dụng.
Muối dùng để bảo quản cho khỏi hư, để nêm nếm cho đậm đà, để bón phân.
Muối cần cho sự sống thường ngày con người.
Đức Giêsu dùng hình ảnh muối để áp dụng cho các môn đệ.
Họ cần cho trái đất này,
Như muối thấm vào đồ ăn, họ phải có ảnh hưởng tích cực trên trái đất.
Điều làm cho muối là muối, đó là vị mặn.
Muối trở nên nhạt thì đánh mất chính mình rồi, chẳng đáng gọi là muối nữa.
Đức Giêsu tự nhận mình là Ánh sáng cho thế giới (Ga 8, 12; 9,5; 12, 46).
Bây giờ Ngài mạnh dạn gọi các môn đệ là ánh sáng cho thế giới.
Thế giới hôm nay đã được điện khí hóa khắp nơi.
Nhưng bóng tối và bóng mờ thì chỗ nào cũng có.
Cả bên ngoài lẫn bên trong tim con người.
Bóng tối thật là một quyền lực đáng sợ mà con người phải đối diện.
Chỉ khi môn đệ mang Ánh sáng của Đức Giêsu, và trở nên ánh sáng,
khi ấy họ mới có thể giúp thế giới này bừng sáng.
Thành thánh Giêrusalem ở trên núi, không sao giấu được.
Ngọn đèn được thắp lên cũng không để lấy thùng che lại.
Căn tính của người Kitô hữu cũng vậy.
Tự nó bừng sáng, tự nó quyến rũ, tự nó hồn nhiên tỏa hương.
Đừng sợ để người khác thấy điều tốt nơi mình,
nếu điều đó đưa người ta đến chỗ nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa.
Một phần ba thế giới là Kitô hữu,
bảy phần trăm người Việt Nam là Công giáo.
Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho thế giới hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,
nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,
nếu Chúa là vua của bảy trăm ngàn nữ tu,
nếu Chúa là vua của hơn một tỉ người công giáo,
thì thế giới này sẽ đổi khác,
Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên,
thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm
về sự dữ trên địa cầu:
có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,
nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,
chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,
giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,
nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,
dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con,
và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công giáo
chịu để Chúa chi phối đời mình
và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này
trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
12 THÁNG SÁU
Chúng Ta Quyết Định
Vận Mệnh Của Chính Mình
Công Đồng Vatican II
diễn tả cùng sự thật ấy về con người bằng những ngôn từ vừa bất hủ vừa rất
chính xác đối với thời đại hôm nay: “Con người chỉ có thể quay về với sự thiện
một cách tự do … Phẩm giá con người đòi họ phải hành động theo sự lựa chọn ý thức
và tự do” (MV 17). “Nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật. Khi quay về với
lòng mình tức là họ trở về với nội giới thâm sâu này, ở đó Thiên Chúa, Đấng thấu
suốt tâm hồn, đang chờ đợi họ; và cũng chính nơi đó con người tự định đoạt về vận
mệnh riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa” (MV 14).
Sự tự do đích thực của
con người là sự tự do đặt nền tảng trên sự thật. Từ nguyên thủy, sự tự do này
đã mạc khải hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người. Vâng, sự thật giải phóng con
người để con người trở nên chính mình một cách viên mãn trong Đức Kitô.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 12/ 6
1V 17, 7-16; Mt 5,
13-16.
Lời suy niệm: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà
nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ con việc
quẳng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.”
Trong chúng ta ai ai cũng biết về đặc tính và công dụng của muối. Nhưng phẩm chất
quan trọng và rõ ràng nhất, là làm tăng thêm hương vị cho đồ ăn. Chúa Giêsu
đang khẳng định và đề cao mỗi người Kitô hữu chúng ta có những phẩm chất như
“Muối”. Điều này là một vinh dự cho mỗi người Kitô hữu chúng ta, nhưng đồng thời
cũng mang trên mình một trách nhiệm lớn lao là đem lại hương vị cho cuộc sống
nơi môi trường chúng ta sống, làm việc và học hành, nếu không chu toàn được bổn
phận và trách nhiệm này thì chúng ta sẽ trở thành vô dụng và bị Người loại bỏ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con sống đúng phẩm chất của mình, và luôn biết ướp
mình bằng Lời Chúa để chúng con đem lại hương vị sống cho mọi người chung quanh
chúng con.
Mạnh Phương
12 Tháng Sáu
Ngọn Lửa Không Hề Tắt
Tong tác phẩm Ðại Học
Máu, văn sĩ Hà Thúc Sinh cũng giống như văn hào Nga Solzenitzyn ghi lại thân phận
tù đày của các tù nhân Việt Nam trong các trại học tập. Nhưng giữa những đọa
đày cùng cực của kiếp người, Hà Thúc Sinh vẫn có cái nhìn lạc quan về thân phận
con người. Con người bị bạo hành ở những mức độ vô nhân nhất mà vẫn khôi hài,
cười đùa, bỡn cợt được.
Trong tác phẩm đầu
tay của ông có tựa đề “Hai chị em”, Hà Thúc Sinh đã nêu bật được hình ảnh con
người tranh đấu lạc quan, chẳng còn biết gì để sợ, sẵn sàng kịch liệt chống lại
định mệnh để tự thắng và tự cứu mình… Hai chị em Lan và Trực bị đắm tàu trong một
cuộc vượt biên đầy nguy hiểm. Là hai người duy nhất còn sống sót, họ trôi dạt
và tấp vào một hoang đảo giữa Thái Bình Dương. Trong nguyên một tuần lễ, tác giả
đề cao sức chịu đựng, tinh thần tháo vát của hai chị em. Sau một tuần lễ chịu đựng,
người chị ngã bệnh, Trực bèn kết bè để ra khơi mong tìm lại được chiếc ghe đắm
trên đó còn chút ít lương thực, thuốc men và quần áo. Khi ra đi, anh đã nhóm đã
nhóm được một ngọn lửa trên núi cao vừa làm dấu hiệu để kêu gọi sự chú ý của
thuyền bè qua lại trong vùng, vừa lấy đó như ngọn hải đăng để còn có thể quay lại
đảo… Nhưng anh đã ra đi và không bao giờ trở lại hoang đảo… Sóng to gió lớn có
lẽ đã chôn vùi anh giữa lòng đại dương. Người chị tất tả chạy ra bãi cát giữa
cơn giông bão để réo gọi tên em.
Tác giả đã kết thúc
câu chuyện như sau: “Nếu có thuyền bè chạy qua eo biển, một vùng hoang đảo trên
Thái Bình Dương những ngày biển lặng sau đó, chú mục, người ta có thể nhìn thấy
một ngọn lửa. Ngịn lửa ấy đốt bập bùng trên một triền núi, khi lớn, khi nhỏ,
khi tỏ, khi mờ. Nhưng có điều chắc chắn là nó chưa hề tắt”.
Sống là một cuộc chiến
đấu không ngừng. Chiến đấu chống lại với những khắc nghiệt của thiên nhiên, chống
lại không biết bao nhiêu kẻ thù, chống lại với chính bản thân đầy ươn hèn, xấu
xa.
Nhưng người Kitô hữu
không phải là một thứ anh hùng khắc kỷ, tự chiến đấu một mình và tin ở sức mạnh
vô song của ý chí. Chúa Giêsu đã chiến đấu, nhưng Ngài không là một anh hùng của
một ý chí sắt đá. Sức mạnh duy nhất của Ngài chính là Thiên Chúa. Lương thực của
Ngài chính là Thánh ý Chúa Cha. Khí giới của Ngài là sự kết hiệp với Chúa Cha.
Qua ba cơn cám dỗ,
Chúa Giêsu đã luôn luôn qui chiếu vào Lời Chúa. Lời của Chúa là khí giới, là
thuẫn đỡ của Ngài.
Tôi sống nhưng không
phải là tôi sống, mà chính là Ðức Kitô sống trong tôi. Ðó phải là ý lực sống của
chúng ta. Chúng ta cũng hãy nói: tôi chiến đấu, nhưng không phải là tôi chiến đấu,
mà chính Ðức Kitô chiến đấu trong tôi. Sức mạnh của Kitô giáo, bản chất của
Kitô giáo không phải là tổng số của các tín hữu, mà chính là Sự Sống của Ðức
Kitô đang châu lưu trong từng người tín hữu.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét