21/06/2018
Thứ Năm tuần 11 thường niên
Thánh Lu-y Gôndaga, tu sĩ.
Lễ nhớ.
* Sinh năm 1568, gần
Man-tu-a miền Lom-bác-đi-a, trong một gia đình Cát-ti-di-ô-nê quyền quý, hấp thụ
lòng đạo đức của thân mẫu. Lu-y sớm có khuynh hướng sống đời tu. Sau khi trao lại
cho anh (em) phần đất người được tổ tiên giao cho để cai quản, người gia nhập
dòng Chúa Giêsu. Trong khi phục vụ bệnh nhân đang kỳ dịch, thánh nhân bị lây và
qua đời lúc mới 23 tuổi (năm 1591)
Bài Ðọc I: (Năm
II) Hc 48, 1-15 (Hl 1-14)
"Êlia được che
khuất trong gió cuốn, và Êlisê được trọn vẹn thần trí của người".
Trích sách Huấn Ca.
Bấy giờ tiên tri Êlia
như lửa hồng xuất hiện, lời ông nóng bỏng như ngọn đuốc cháy phừng. Ông đem cho
họ một mùa đói khát, và số người ghét ông đã hao đi, vì chúng chẳng giữ được giới
răn Chúa. Do lời Chúa phán, ông đóng cửa trời và ba lần khiến lửa trời xuống.
Êlia được vinh quang nhờ các việc lạ lùng đã làm, và ai có thể tự hào được vinh
quang như người? Bởi lời Chúa là Thiên Chúa, người cứu kẻ chết ra khỏi âm phủ,
khỏi quyền sự chết. Người triệt hạ các vua xuống cảnh điêu tàn, bẻ gãy dễ dàng
quyền thế của họ, xô kẻ sang trọng rớt khỏi giường nằm. Trên núi Sinai, người
đã nghe lời xét xử, và trên núi Horeb, người đã nghe án quyết phục thù. Người xức
dầu các vua để báo oán và đặt các tiên tri để nối nghiệp mình. Người đã được cất
đi trong bầu lửa, trong xe ngựa kéo đi. Người đã nên dấu chỉ sự đe phạt qua các
thời đại, để làm nguôi cơn thịnh nộ Chúa, để giao hoà cha với con, và chấn hưng
lại những chi họ Giacóp. Phúc cho những ai đã thấy người, và được hân hạnh thiết
nghĩa với người: Vì chúng tôi chỉ được sống trong cuộc sống này, sau giờ chết,
danh tiếng của chúng tôi sẽ được như thế. Êlia được che khuất trong gió cuốn,
và Êlisê được trọn vẹn thần trí của người. Trong đời người, người không sợ
vương tướng, và không quyền lực nào thắng được người, cũng không ai vượt người
trong lời nói, và khi người chết rồi, xác người vẫn nói tiên tri. Khi còn sống,
người đã làm những phép lạ, và khi đã qua đời, người đã làm những việc kỳ diệu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 96, 1-2.
3-4. 5-6. 7
Ðáp: Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Chúa hiển trị,
địa cầu hãy hân hoan, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao
toả chung quanh, công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.
2) Một làn lửa đi trước
thiên nhan, để đốt những quân đối nghịch chung quanh Chúa. Chớp của Người sáng
rực cõi trần, địa cầu xem thấy và run rẩy sợ hãi. - Ðáp.
3) Núi non vỡ lở như mẩu
sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi đất. Trời xanh loan
truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.
4) Hãy hổ ngươi tất cả
những ai phụng thờ hình ảnh, những ai khoe khoang về thần tượng, bao nhiêu chúa
tể hãy cúc cung bái lạy Người. - Ðáp.
Alleluia: Tv 144, 13bc
Alleluia, alleluia! -
Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa
làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 6, 7-15
"Vậy các ngươi
hãy cầu nguyện như thế này".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân
ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha
các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con
hãy cầu nguyện như thế này:
"Lạy Cha chúng
con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể
hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng
ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để
chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
"Vì nếu các con
có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời,
mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các
con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Kinh
Lạy Cha
Kinh Lạy Cha là một
kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô hữu, vì đó là kinh do chính Chúa
Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều hơn cả trong các cử hành phụng vụ
và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả những gì phải làm trong khi cầu
nguyện.
Chúng ta cần cầu nguyện
với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế,
chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm
Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa
theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại
giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi
vì "Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu
xin". Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn
nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên
Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống
rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta
khấn xin.
Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu
cho tất cả việc cầu nguyện. Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện,
trong khi đó ở Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên
Chúa, Ðấng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha: Cha chúng con ở trên trời,
sau đó chúng ta xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, nước Cha được lan rộng
trên thế gian, nhất là trong tâm hồn con người, và xin cho thánh ý Cha được thực
hiện dưới đất cũng như trên trời. Trong phần hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực
hàng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời
Chúa và Mình Chúa; xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được
tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em; xin ơn kiên trì để lướt
thắng cám dỗ hàng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công
của tà thần muốn đưa chúng ta xa lìa Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể
phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.
Chúng ta hãy dốc quyết
không bao giờ bỏ đọc Kinh quan trọng và hiệu nghiệm này trong đời sống cá nhân,
gia đình và cộng đoàn chúng ta.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 11 TN2,
Năm Chẵn
Bài đọc: Sir
48:1-15; Mt 6:7-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy học biết
mình trong mối tương quan với Thiên Chúa.
Đọc lịch sử Cựu Ước,
chúng ta có thể rút ra một kiểu sống của dân Do-thái trong mối tương quan của họ
với Thiên Chúa như sau: Khi thiếu thốn, cơ cực, họ cầu nguyện với Thiên Chúa để
được Ngài thương xót. Sau khi được Thiên Chúa ơn, họ lại quay sang thờ các thần
ngoại và làm những điều ghê tởm trước mắt Thiên Chúa. Vì tình thương, Thiên
Chúa gởi các ngôn sứ tới để tố tội và kêu gọi họ quay về với Thiên Chúa để được
hưởng lòng thương xót. Ai biết ăn năn quay về, Ngài sẽ tha thứ lỗi lầm. Ai
ngoan cố, Ngài sẽ để họ sẽ chết trong tội.
Các bài đọc hôm nay muốn
nêu bật chủ đề con người phải luôn luôn sống tốt lành trong mối tương quan với
Thiên Chúa và với nhau. Nếu con người biết làm như thế, Thiên Chúa sẽ cung cấp
mọi sự cần thiết và sẽ bảo vệ họ khỏi mọi nguy hiểm trong cuộc đời. Trong bài đọc
I, tác giả Sách Huấn Ca nhắc lại những việc vĩ đại hai ngôn sứ Elijah và
Elishah đã làm khi hai ông vâng lệnh Thiên Chúa kêu gọi dân trở về. Những người
nào làm theo lời chỉ dẫn của hai ông đã được Thiên Chúa chúc lành và ban ơn; những
người cãi lệnh đã bị Thiên Chúa trừng phạt. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy cho
các môn đệ biết cách cầu nguyện cách đúng đắn: Thay vì lải nhải xin hết ơn này
đến ơn kia, họ hãy tập trung trong việc “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người nào làm theo ý Thiên Chúa sẽ được Ngài chúc lành và
ban ơn.
1.1/ Cuộc đời sự nghiệp của
ngôn sứ Elijah
Ngôn sứ Elijah bực
mình khi thấy vua và con cái Israel bỏ Thiên Chúa, Đấng chúc lành và bảo vệ họ
để chạy theo thần Baal, thứ thần chẳng làm được một sự gì cho con người cả.
– Để giúp dân chúng nhận
ra những gì Thiên Chúa vẫn đang làm cho họ, ông truyền lệnh đóng cửa trời để
mưa và sương không rơi xuống nữa. Dân chúng phải chịu đói khát và nhận ra uy
quyền của Thiên Chúa.
– Để giúp con cái
Israel nhận ra đâu là Chúa thật, ông truyền gom tất cả các ngôn sứ của Baal,
vua quan cũng như dân chúng trên núi Carmen để tổ chức một cuộc thi dâng lễ vật.
Các ngôn sứ Baal đã thất bại nặng nề trong khi của lễ của Elijah được Thiên
Chúa cho lửa từ trời xuống thiêu rụi.
Vì ông luôn trung
thành với Thiên Chúa, Ngài luôn quan tâm đến nhu cầu của ông: Ngài chỉ cho ông
khe nước và sai quạ nuôi ông trong khi cả xứ bị hạn hán. Khi ông kêu cầu Ngài
chứng tỏ cho dân chúng thấy đâu là Thiên Chúa thật, Ngài đã khiến lửa từ trời
xuống thiêu rụi lễ vật của ông. Nói tóm, Ngài không từ chối ông một điều gì khi
ông kêu cầu danh Ngài. Sau cùng, khi đã hoàn tất sứ vụ, Ngài đã không để ông phải
chết; nhưng dùng cỗ xe ngựa đỏ để cất giấu ông đi một nơi.
Truyền thống Do-thái
tin ngôn sứ Elijah sẽ trở lại trước khi Đấng Thiên Sai tới để ông dọn đường cho
Ngài, để ông “làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa trước khi cơn thịnh nộ bùng
lên, để đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu, và tái lập các chi tộc
Jacob.” Khi các môn đệ hỏi Chúa Giêsu về sự phải đến của ông, Ngài ám chỉ cho
các môn đệ biết Gioan Tẩy Giả chính là ngôn sứ Elijah (Mt 11:14; Mk 9:13).
1.2/ Cuộc đời sự nghiệp của
ngôn sứ Elishah
Ông dứt khoát theo
Chúa khi Elijah quăng áo choàng trên ông bằng cách giết đôi bò làm lễ vật hy
sinh và phá cày làm củi thiêu bò. Ý thức được khó khăn trong sứ vụ ngôn sứ, ông
đã xin cho được gấp hai thần khí của thầy. Khi ông Elijah được ẩn trong cơn lốc,
thì ông Elishah được đầy thần khí của người.
Suốt đời ông Elishah,
không thủ lãnh nào có thể làm ông lung lạc, cũng chẳng ai khuất phục được ông.
Đối với ông, chẳng có gì là quá sức vì Thiên Chúa luôn ở với ông. Ngay cả khi
ông đã qua đời, thân xác ông vẫn còn giữ năng lực của một ngôn sứ. Lúc sinh thời,
ông đã làm nhiều dấu lạ, sau khi chết, ông vẫn còn thực hiện những điềm thiêng.
2/ Phúc Âm: Cha anh em trên trời đã biết rõ anh em cần gì, trước khi
anh em cầu xin.
2.1/ Trước hết và trên hết,
hãy lo xin cho những gì thuộc về Chúa được phát triển.
Trong mối tương quan
giữa con người, chúng ta không thích những ai lợi dụng lòng tốt của chúng ta để
lúc nào cũng xin xỏ. Người Việt Nam chúng ta có câu: “hòn đất ném đi, hòn chì
ném lại.” Nếu không ném được hòn chì, ít nhất cũng phải ném lại hòn đất chứ. Ai
có thể mặt dày mặt dạn cứ đi ăn của người được.
Trong mối tương quan với
Thiên Chúa còn hơn thế. Ngài là Cha và chúng ta là con. Bổn phận của con trước
hết là phải làm cho danh Cha cả sáng bằng cách làm cho nhiều người biết đến
Thiên Chúa qua những việc lành chúng ta làm. Tiếp đến, chúng ta cầu xin cho Nước
Chúa được trị đến bằng cách cầu nguyện cho mỗi ngày càng nhiều người biết đến
Cha mình. Sau cùng, chúng ta phải xin cho tất cả mọi tạo vật nhận ra ý Chúa và
thi hành; hay ít nhất chính chúng ta phải tìm ra ý Chúa và mau mắn thi hành.
2.2/ Sau đó, hãy lo xin
cho biết sống cuộc đời đẹp ý Thiên Chúa.
Sau khi quan tâm đến
việc của Cha, mới nên xin Cha nhìn đến các việc của con. Có 4 lời cầu Chúa
Giêsu dạy chúng ta nên chú trọng tới và kêu xin. Thứ nhất, chỉ “xin Cha cho
chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” thôi. Chúng ta đừng dại dột xin cho có
dư, vì “no cơm rửng mỡ.” Thứ đến, chúng ta “xin Cha tha tội cho chúng con như
chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con.” Nếu chúng ta có can đảm
xin Thiên Chúa tha tội thì cũng phải có can đảm để tha thứ các lầm lỗi của anh
chị em mình. Nếu không, “Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.” Tiếp đến,
mọi người chúng ta cần ý thức: chúng ta đang phải chiến đấu với ba thù hàng
giây hàng phút. Ba thù đây là XÁC THỊT – THẾ GIAN – VÀ MA QUỈ. Kẻ thù nào cũng
nặng ký cả. Và nếu không có ơn thánh, chúng ta không thể nào thắng vượt được.
Vì vậy, chúng ta hãy thường xuyên đọc kinh Lạy Cha và “xin đừng để chúng con sa
chước cám dỗ.” Sau cùng, sự dữ vẫn rình chờ chúng ta hằng giây hằng phút trong
thế gian như bệnh tật, chiến tranh, thiên tai… , chúng ta cần xin Thiên Chúa “cứu
chúng con cho khỏi mọi sự dữ” nếu đẹp ý Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Tiên vàn chúng ta
hãy lo sao cho danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa được trị đến, ý Chúa được thể
hiện dưới đất cũng như trên trời. Khi đã làm như thế, Thiên Chúa chắc chắn sẽ
không từ chối chúng ta một điều gì khi chúng ta kêu xin Ngài.
– Chúng ta đừng bao giờ
nghĩ mình có thể lợi dụng Thiên Chúa để xin ơn, sau đó dùng những quà tặng Ngài
ban để làm theo ý chúng ta.
– Đừng đọc kinh Lạy
Cha một đàng, nhưng lại nghĩ tưởng một nẻo. Hãy để Thiên Chúa trong sự quan
phòng của Ngài lấp đầy những thiếu thốn của chúng ta.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
21/06/2018 – THỨ NĂM TUẦN 11 TN
Th. Lu-y Gôn-da-ga, tu sĩ
Mt 6,7-15
ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ
TRONG LỜI CẦU NGUYỆN
“Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu
xin.” (Mt 6,8)
Suy niệm: Cuộc sống hôm nay với biết
bao nhu cầu, nhu cầu trong đời sống thiêng liêng, cũng như trong cuộc sống đời
thường mỗi ngày. Tự sức mình, ta không thể đáp ứng tất cả những nhu cầu ấy, phải
cầu xin Chúa trợ giúp. Qua lời kinh mẫu mực, kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su dạy ta cầu
nguyện với bảy lời cầu xin. Ba lời cầu xin đầu tiên hướng về Thiên Chúa là Cha
của chúng ta: Danh Cha, Nước Cha, ý Cha. Bốn lời cầu xin tiếp theo hướng về những
nhu cầu của ta: có lương thực dùng mỗi ngày, ơn được tha thứ, thắng được các
cám dỗ, và thoát khỏi ác thần. Còn ta, thông thường khi cầu nguyện, ta chỉ nhớ
đến chuyện làm cho mình được cả sáng thôi, và bắt Chúa nghiêng theo ý mình
“vâng ý con dưới đất cũng như trên trời!” Lời cầu xin của ta thường mang nặng
tính vụ lợi vật chất, chứ chưa bao hàm nhu cầu thiêng liêng, làm thăng hoa cuộc
sống. Nói cách khác, đánh mất đi tính nhẹ nhàng, thanh thoát của một cuộc sống
biết hướng thượng, cuộc sống của người con thảo.
Mời Bạn: Chúa như người thầy dạy giỏi.
Mọi đáp án đều nằm sẵn trong đầu thầy, chờ khi trò giải đúng sẽ được điểm 10.
Ta không cần vòng vo tam quốc, cứ cầu nguyện đơn sơ và chân thành sẽ được điểm
tốt nhất.
Sống Lời Chúa: Tôi xác tín Lời Chúa dạy:
“Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại”…và không phải “cứ nói nhiều
là được nhận lời” (c. 7).
Cầu nguyện: Với tâm tình người
con hiếu thảo, đọc kinh Lạy Cha thật chậm rãi, từng lời, từng câu để cảm nhận
được thâm ý của lời kinh đơn sơ Chúa dạy.
(5 Phút Lời Chúa)
Lạy Cha chúng con
(21.6.2018 – Thứ Năm Tuần 11 Thường niên B)
Suy niệm:
Chúng ta không thể lèo lái hay ép buộc Thiên Chúa
bằng những lải nhải dài dòng hay bằng những câu thần chú.
Cầu nguyện không phải là thông báo cho Chúa biết nhu cầu của ta (c. 8).
Cha Teilhard de Chardin đã viết :“Chúng ta phải cầu xin Chúa không phải
vì lề luật
buộc như thế,
cũng không phải vì Chúa không biết ta cần gì.
Không, kinh nguyện là tình yêu, là cách diễn tả tình yêu.”
Thiên Chúa thích nghe miệng chúng ta nói lên nhu cầu của mình.
Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, Abba, như Ngài đã gọi.
Abba là tiếng gọi âu yếm thân thương của đứa con đối với người cha.
Khi gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta thấy mình hết sợ hãi và xa cách.
Cha siêu việt và quyền uy, nhưng Cha không áp bức và bắt con làm nô lệ,
Cha cao sang ở trên trời nhưng Cha lại gần gũi với nhu cầu của con cái.
Ba lời cầu xin đầu tiên đều hướng về Cha: Danh Cha, Nước Cha, và Ý Cha.
Danh Cha được vinh hiển khi Nước Cha được thành tựu, Ý Cha được thể hiện.
Nước Cha đã đến rồi với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu,
nhưng chúng ta vẫn phải cầu xin cho Nước ấy mau đến cách viên mãn.
Ý Cha và quyền tối cao của Cha đã được thể hiện trọn vẹn trên trời rồi,
nhưng còn phải được thể hiện dưới đất nữa, nơi mọi người và nơi từng người.
Ba lời cầu đầu tiên, là những lời trực tiếp nài xin Cha.
Làm cho Danh Cha được biết đến, Nước Cha được nhìn nhận,
Ý Cha được tuân hành : đó là công việc của Cha cho đến tận thế.
Nhưng việc đó cũng cần sự cộng tác hằng ngày của mỗi kitô hữu
qua việc họ sống tận căn những đòi hỏi gai góc của Nước Trời,
để cho thấy Nước Trời đã đến trên mặt đất.
Bốn lời cầu xin sau nhắm đến nhu cầu cụ thể của các môn đệ.
Xin lương thực hàng ngày là điều cần thiết cho họ,
những người nay đây mai đó, sống nhờ lòng tốt của người nghe.
Xin ơn tha thứ là điều ta cần mỗi ngày từ Chúa, sau bao sai lỗi,
mà cũng là điều ta phải trao lại cho anh em.
Xin Chúa đừng đưa chúng ta vào cơn thử thách quá sức chịu đựng
đến mức mất đức tin và quỵ ngã.
Nhưng xin Chúa gìn giữ và giải thoát chúng ta khỏi Ác Thần.
Kinh Lạy Cha giúp chúng ta trò chuyện với chính Thiên Chúa là Cha.
Chúng ta được mở ra trước thế giới trên trời nơi Cha ngự trị,
những cũng được mở ra trước thế giới dưới đất của con người.
Một thế giới có bao người thiếu bánh ăn, cần được chia sẻ.
Một thế giới có nhiều xung đột và hận thù, cần sự bao dung thứ tha.
Một thế giới hỗn loạn với bao điều phải chấn chỉnh cho hợp Ý Chúa.
Một thế giới không biết mình là anh em, con cùng một Cha.
Kinh Lạy Cha bao giờ cũng nhắc chúng ta về những điều còn dang dở…
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười và nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.
Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được cái gì?
Chúa đến để làm gì
Nếu đời sống con cái của Chúa
Cứ tiếp tục y như cũ?
Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.
Ước gì sứ điệp của Chúa
Trở nên máu thịt của chúng con,
Trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.
Ước gì sứ điệp đó
Lôi chúng con ra khỏi sự anh nhiên tự lại,
Và đòi buộc chúng con,
Làm chúng con không yên.
Bởi lẽ chỉ như thế,
Sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
Bình an sâu xa,
Thứ bình an khác hẳn,
Đó là bình an của Chúa.
(Helder Camara)
Lm. Antôn
Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG SÁU
Thiên Chúa Can Thiệp
Vì Ích Lợi Của Chúng Ta
Giáo Hội rao giảng về
sự quan phòng của Thiên Chúa, không phải vì đó là sáng kiến của chính Giáo Hội,
song bởi vì Thiên Chúa đã quyết định mạc khải chính Ngài. Chính Thiên Chúa là Đấng
tự mạc khải chính Ngài và cứu độ dân Ngài, chính Ngài vén mở cho thấy kế hoạch
cứu độ mà Ngài đã chuẩn bị từ đời đời. Trong ánh sáng này, Thánh Kinh là bản
trình thuật vĩ đại nhất về sự quan phòng của Thiên Chúa, bởi vì Thánh Kinh cho
thấy rằng Thiên Chúa đã sáng tạo nên mọi sự từ đầu và Ngài can thiệp một cách kỳ
diệu xuyên qua lịch sử cứu độ. Đây chính là sự quan phòng của Thiên Chúa – sự
quan phòng này làm cho chúng ta trở thành những tạo vật mới trong một thế giới
đổi mới nhờ tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Thánh Kinh đặc biệt
nói về sự quan phòng thần linh trong các chương về sự sáng tạo và nhất là trong
những chỗ qui chiếu đặc biệt đến công cuộc cứu độ trong Sách Sáng Thế và các
Sách Ngôn Sứ, nhất là Sách Isaia. Thánh Phao-lô cũng có những suy tư sâu sắc về
những kế hoạch khôn dò của Thiên Chúa diễn ra trong lịch sử, nhất là trong các
Thư Ê-phê-sô và Cô-lô-sê. Trong các Sách khôn ngoan, các tác giả nhắm đến việc
tái khám phá các kế hoạch và đường lối của Thiên Chúa. Tông Đồ Gio-an trong
Sách Khải Huyền thì cố gắng khám phá lại ý nghĩa của các mục đích cứu độ của
Thiên Chúa trong thế giới.
Xem ra quan điểm Kitô
giáo về quan phòng không chỉ là một chương khác của triết lý tôn giáo. Vâng,
Thiên Chúa trả lời cho những vấn nạn sừng sững của Gióp (và của mọi người giống
như Gióp) với nhãn giới Thánh Kinh về sự trung thành và sự quan phòng của Thiên
Chúa đối với con người. Đây là một thần học rõ ràng về sự trợ giúp và sự can
thiệp có sức cứu độ của Thiên Chúa khi Dân của Ngài đáp lại Ngài trong đức tin.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Chúa Trong Gia Đình
Ngày 21/ 6
Thánh Luy Gônzaga,
tu sĩ
Hc 48, 1-14; Mt 6,
7-15.
Lời suy niệm: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dổ,
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.”
Sự cám dổ thường có nghĩa là xấu, vì đặc tính của cám dổ có tính cách dụ dổ,
quyến rủ người ta đi vào con đường tội ác, vào cái xấu, sẽ sinh ra tội. Trong
cám dổ còn có tính cách thử thách, thách đố về lòng trung thành, cũng như với
khả năng mà mình đang có “tự sức riêng”
Lạy Chúa Giêsu. Chúa biết rõ mọi sự nơi mỗi tâm hòn của chúng con, nên trong
Kinh Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con cầu xin cùng Chúa Cha: “Xin đừng để chúng
con sa chước cám dổ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.”
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
21-06: Thánh LUY GONZAGA
Tu Sĩ (1568 – 1591)
Thánh Luy là con trưởng
của Ferrante, bá tước lâu đài Castiglione miền Lombardic. Ông đã nhượng chức tổng
chỉ huy cho hiệp sĩ của vua Henry VIII vì thích triều đình Tây Ban Nha hơn, tại
Marid, Ferrante gặp Martha Tana đi theo hoàng hậu Isabelle. Ông lập gia đình với
Martha năm 1566. Ngày 9 tháng 3 năm 1568, Luy chào đời.
Thân mẫu thánh nhân là
người đạo đức. Bà đã dạy cho Luy biết kính sợ và yêu mến Chúa ngay từ hồi còn
thơ ấu. Vì vậy, thánh nhân hay được gọi là “thiên thần con”. Thân phụ Ngài trái
lại đã muốn hứơng dẫn con mình vào nghề binh đao. Hồi lên 4 tuổi, Ngài được dẫn
tới Casal để dự cuộc duyệt binh. Thân phụ Ngài cho Ngài mặc như một sĩ quan và
vui mừng khi thấy con dẫn đầu đoàn quân, với quân phục vừa tầm cậu. Luy sống ở
đây nhiều tháng và có dịp nghe những lời tục tĩu của lính tráng, dầu không hiểu
gì.
Một ngày kia,, khi
binh sĩ đang ngủ, Luy ăn cắp thuốc nạp vào súng khai hóa và suýt chết vì súng
giật. Bá tước định trừng phạt đứa con của mình nhưng nhờ binh sĩ can thiệp, cậu
được thả. Tuy nhiên đây là một lỗi lầm mà Luy than khóc suốt đời.
Năm 1577, Luy cùng với
em trai là là Rôđôlfo được gởi đi học tại Florence. Tại đây, Luy đã khấn giữ
mình trinh khiết trước ảnh Đức Mẹ truyền tin nhà nguyện dòng Tôi Tớ Đức Mẹ. Chẳng
bao lâu sau, Ngài trở về Castigliône, và quyết định hiến mình cho Thiên Chúa,
Ngài tăng thêm việc đạo đức và coi đó như bổn phận: quỳ đọc kinh nhật tụng Đức
Mẹ, các thánh vịnh sám hối và những kinh nguyện khác. Tại Castigilione, Đức Hồng
y Carrôlô Borrômeô đã làm cho Luy rước lễ lần đầu. Đức hồng y đã ngạc nhiên trước
nhiệt tình và sự khắc khổ của thánh nhân và thốt lên: “Đứa trẻ này có thể làm
gương cho chính các tu sĩ”.
Bá tước Ferrante được
đặt làm quan thị vệ của vua Tây Ban Nha, Luy trở thành thị đồng của hoàng tử,
Luy nhiệt tình phục vụ hoàng tử Diogô, nhưng vẫn tìm cách sống tại triều đình
như là sống trong tu viện. Nhưng rồi cái chết của Diegô dẫn Luy tới quyết định
dứt khoát từ bỏ thế gian để gia nhập dòng Chúa Giêsu. Thân phụ Ngài bất mãn vì
quyết định ấy và Luy phải đợi ba năm để được sự ưng thuận của thân phụ. Năm 18
tuổi, Ngài vui vẻ nhượng quyền thừa tự và bước vào đời sống tu trì.
Tại tu viện Luy muốn
được hoàn toàn quên lãng. Ngài lo chuyện bếp núc, giúp đỡ người nghèo đeo bị đi
ăn xin ngoài phố. Đối với gia đình, Ngài chỉ còn muốn nghĩ tới trong kinh nguyện
mà thôi. Sau 2 năm trong dòng, ngày 25 tháng 11 năm 1587, Ngài tuyên khấn và
lãnh phép cắt tóc gia nhập hàng giáo sĩ ít lâu sau đó.
Nhưng gia đình bỗng có
chuyện tranh chấp sau khi thân phụ Ngài qua đời. Tháng 9 năm 1589, bề trên cho
phép Luy về Castiglione để giàn xếp. Luy được tiếp đón như một thiên thần từ trời
xuống. Mẹ Ngài không cầm mình nổi, đã quì xuống trước mặt con. Từ khắp ngả người
ta nói với nhau: Chúng ta thấy Một Vị Thánh.
Cuộc dàn xếp ổn thỏa,
Luy được lãnh giảng thuyết trước khi đi. Ngài đã diễn thuyết một cách kỳ diệu đến
nỗi hơn 700 thính giả đã tới tòa cáo giải ngay.
Giã từ cha mẹ, Luy trở
lại Milan ngày 22 tháng 3 năm 1590 để tiếp tục lớp thần học và được dời về Rôma
ngay năm đó để diễn thuyết trước mặt nhiều giám mục nước Ý. Chính tại đây Ngài
qua đời như là nạn nhân của lòng bác ái. Lúc ấy có một bệnh dịch tàn phá Rôma.
Thánh Luy hiến trọn
xác hồn phục vụ các bệnh nhân, Ngài làm nhiệm vụ khuân vác giúp đỡ mọi người, có
khi vác cả xác chết nữa. Tận tụy làm việc cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1591 thì
bị bất tỉnh. Hôm sau tỉnh dậy Ngài chào anh em, rước của ăn đàng rồi từ trần.
(daminhvn.net)
21 Tháng Sáu
Nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi
Christophoro
Columbo, người đã khám phá ra Châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ
15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều
kêu cầu Chúa Ba Ngôi cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ:
“Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh”.
Lần kia, khi
Columbo trình bày về thuyết “Trái đất tròn” trước một nhóm học giả được gọi là
Hội Ðồng Salamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng
nhất thời bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau: “Hôm nay tôi được hân hạnh đứng trước
mặt các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho
tôi đệ trình lên sự khôn ngoan của quý vị một dự án mà tôi xác tín là Chúa
Thánh Thần Ba Ngôi Thiên Chúa đã gợi hứng cho tôi”.
Trong cuộc hành
trình thứ ba của ông khởi hành năm 1948, Columbo đã thề hứa sẽ hiến dâng cho
Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá ra đầu tiên, vì thế hòn đảo ông đặt chân
xuống đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm Tân thế giới ấy cho đến nay vẫn
được gọi là “Trinidad”, tức là Chúa Ba Ngôi.
Trong suốt cuộc đời,
người Kitô hữu chúng ta luôn kinh nghiệm sự gần gũi của Ba Ngôi Thiên Chúa: lúc
vừa mở mắt chào đời, chúng ta được nhận lãnh Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi.
Trong suốt ngày sống, chúng ta thường ghi dấu thánh giá trên mình với lời chúc
tụng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cũng như mỗi lần chúng ta dùng bữa hay
khi khởi đầu mọi sinh hoạt.
Cộng vào đấy mỗi lần
chúng ta vấp ngã và khiêm nhượng đi xưng thú những lỗi lầm trong tòa cáo giải,
chúng ta được giao hòa lại với Thiên Chúa và cộng đoàn nhân danh Thiên Chúa Ba
Ngôi và cũng nhân danh Người các đôi trai gái yêu nhau được nối kết để chung sống
đời hôn nhân.
Rồi cả các bệnh nhân
cũng được ban ơn sức mạnh nhờ danh Thiên Chúa Ba Ngôi để khi nhắm mắt xuôi tay,
các Kitô hữu chúng ta cũng được tiễn đưa vào cuộc sống đời sau và được chôn cất
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Mặt khác, Chúa Ba Ngôi
cũng là trung tâm và mục đích mọi hoạt động của những kẻ tin kính Người. Bởi thế
chúng ta thường kết thúc nhiều Kinh và những sinh hoạt bằng câu: “Sáng danh Ðức
Chúa Cha và Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần”.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét