Cuộc sống hành hương của dân
Do thái
Khi đọc Thánh Kinh chúng ta thấy lịch sử dân Do thái đã là một
cuộc hành hương liên lỉ. Nó đã khởi đầu với ơn gọi của tổ phụ Abraham, bỏ cuộc
sống ổn định tại thành Ur, bỏ quê hương xứ sở ra đi theo tiếng Thiên Chúa kêu mời
và trở thành người sống kiếp du mục, lang thang nay đây mai đó. Đây cũng đã là
kiểu sống của dân Do thái, từ Palestina di cư sang Ai Cập rồi được Thiên Chúa
giải phóng khỏi kiếp sống nô lệ và hành hương 40 năm trong sa mạc Sinai truớc
khi bước vào miền Đất Hứa. Truyền thống hành hương ấy đã là sợi chỉ dẫn đường của
sứ điệp kinh thánh và trên con đường hành hương này của cuộc sống, niềm tin của
dân Do thái có nguy cơ bị cám dỗ, chao đảo, sa sút hay mất đi. Con đường của cuộc
sống tự do tuy đẹp nhưng không phải là không có các khó khăn khiến cho con người
thối chí nản lòng: nỗi nhớ nhung các phương tiện của cuộc sống vật chất
bao gồm cả củ hành củ tỏi, miếng dưa hấu, nồi thịt bung vv. Bên cạnh đó
là các khó khăn phải đương đầu như sa mạc khô cằn, thiếu nước uống, thiếu thực
phẩm, cái nóng ban ngày và cái giá buốt ban đêm. Tất cả đều là các cám dỗ thường
xuyên rình rập dân Do thái khiến cho họ muốn quay trở lại kiếp sống nô lệ bên
Ai Cập. Nhưng Thiên Chúa đã luôn luôn hiện diện chở che và trợ giúp họ với biết
bao dấu chỉ diễn tả sự quan phòng của Ngài. Chúng là một loại phép lạ thường hằng,
đến độ ngôn sứ Hosea coi đó là thời gian đính hôn của Israel với Thiên Chúa. Và
trong biến cố xuất hành đó nổi bật lên gương mặt của ông Môshê, là người đã được
kêu mời từ từ bước vào cuộc sống hành hương, và là người duy nhất được nói chuyện
mặt giáp mặt với Thiên Chúa.
Tuy nhiên, khi đào sâu hơn ý nghĩa biến cố xuất hành,
chúng ta thấy nó không chỉ là việc từ tình trạng nô lệ bước vào cuộc sống tự
do, mà nó là việc chặt đứt khỏi cái an ninh dễ dãi của một cuộc sống định cư và
khỏi môi trường tôn thờ tà thần, để lên đường bước đi trong đức tin, là con đường
Thiên Chúa mời gọi và thử thách, mời gọi từ bỏ cái “có”, từ bỏ sự chiếm hữu để
được cái “là”, trở nên con người tự do. Nó là nơi của việc biến đổi, trở thành,
và trung tín với một căn cước mới: là dân riêng của Thiên Chúa.
** Đây cũng là lý do tại sao tác giả sách Xuất Hành miêu tả
lộ trình tiến bước trong sa mạc với các phạm trù hành hương, như là một cuộc rước
kiệu hành hương (Xh 5,1). Núi Sinai được coi như là một trung tâm thờ tự, nơi
Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Israel. Các sách tiếp theo của bộ Ngũ Kinh
cũng tiếp tục coi việc bước vào đất hứa giờ đây đã trở thành “thánh địa”, như một
cuộc hành hương, và truyền thống tư tế lý tưởng hóa nó thành một cuộc
rước do chính Thiên Chúa hướng dẫn (Xh 13,21). Bên trong lộ trình hành hương ấy
có “Lều gặp gỡ”, hay “Lều hội ngộ” là trung tâm thờ tự lưu động, qua đó Thiên
Chúa hiện diện giữa dân Ngài, sống trà trộn với dân Ngài, dưới hình cột lửa và
cột mây. Các biểu tượng này cung cấp cho nền thần học yểm trợ cho tinh thần tu
đức cựu ước, sẽ được lấy lại trong các Thánh Vịnh hành hương hay các Thánh Vịnh
lên đền, tức các thành vịnh từ 119 tới 134.
Vào thời các Thủ Lãnh, khi dân Do thái đã có cuộc sống định cư,
trong các diễn văn đặt vào miệng ông Môshê, trường phái Đệ Nhị Luật khích lệ
dân Israel luôn duy trì con tim của những người hành hương. Hành hương trở
thành cơ cấu và được xác định với phạm trù phụng tự, qua đó người ta cử
hành ơn gọi và điều kiện của việc chuyển tiếp vĩnh cửu, bởi vì đất đích thật của
dân Israel sẽ luôn luôn là sa mạc của giao ước. Như thế hành hương thay thế điều
kiện bình thường: việc thực thi nó giúp ý thức sự tuỳ thuộc một tình huynh đệ rộng
lớn hơn, sâu xa hơn, mà óc riêng biệt của các chi tộc khác nhau có khuynh hướng
làm quên đi. Đã có nhiều trung tâm thờ tự được thành lập ngay từ thời các tổ phụ
như Shilo, Betel, Sikhem, Dan, Ghilgan và Beersheva. Dĩ nhiên là có ảnh hưởng của
dân Canaan, nhưng việc đọc hiểu trở lại của dân Israel cũng độc đáo, vì bên cạnh
các trung tâm thờ tự đó nảy sinh ra các trường phái kinh thánh khác nhau, đưa
ra ánh ánh sáng các anh hùng ca liên quan tới các tổ phụ và thời xuất
hành.
** Tầm quan trọng ban cho trung tâm thờ tự có hậu quả là một
việc địa phương hóa Thiên Chúa một cách nào đó, cả khi người ta thừa nhận rằng
Thiên Chúa không thể bị cột buộc vào một nơi chốn: đây là việc quay trở về với
giá trị nổi hơn của các lễ nghi và các sự vật. Phụng tự cử hành hướng tới
chỗ ban cho mình một sự hữu hiệu hầu như tự động, đe dọa giảm thiểu dấn thân cá
nhân. Các văn bản kinh thánh cho thấy sự căng thẳng này: các truyền thống cổ
xưa không coi các trung tâm thờ tự như là nơi Thiên Chúa ngự trị, nhưng như là
các nơi gắn liền với các sự tỏ hiện, và đây là nền thần học của việc hiện ra.
Chằng hạn chương 28 sách Sáng Thế kể lại giấc mơ của Giacóp trông thấy một chiếc
thang bác từ đất lên trời và nghe được lời hứa của Thiên Chúa. Ông nói:
“"Quả thật, có Giavê ở nơi này mà tôi không biết!.. Nơi này đáng sợ thay!
Đây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không phải là gì khác." (St
28,16-17). Đây cũng là điều có giá trị đối với lều và nhà tạm, là “ngai của
Giavê”, như viết trong chương 33 sách Xuất Hành: “Ông Mô-sê lấy một chiếc lều
và đem dựng cho mình bên ngoài trại, cách một quãng xa. Ông gọi lều ấy là Lều Hội
Ngộ. Ai thỉnh ý Giavê thì ra Lều Hội Ngộ, ở ngoài trại. Mỗi khi ông Mô-sê
ra Lều, toàn dân đứng lên, ai nấy đứng ở cửa lều mình và nhìn theo ông Mô-sê
cho đến khi ông vào trong Lều. Mỗi khi ông Mô-sê vào trong Lều, thì cột
mây đáp xuống, đứng ở cửa Lều, và Giavê đàm đạo với ông Mô-sê. Khi thấy cột
mây đứng ở cửa Lều, toàn dân đứng dậy; và ai nấy phủ phục ở cửa lều mình. Giavê
đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau. Rồi ông Mô-sê
trở về trại; nhưng phụ tá của ông là chàng thanh niên Giô-suê, con ông Nun, thì
cứ ở trong Lều, không rời khỏi đó.” (Xh 33, 7-11; Ds 11,16.24-26; Đnl 31,14
tt.).
** Trong truyền thống sử biên, trái lại, Hòm Bia đã trở
thành một sự hiện diện năng động của Giavê, là Đấng đi trước các đoàn quân
Israel và rồi ở cùng họ. Đây là nền thần học sự hiện diện của Thiên Chúa, đã được
biến đổi từ các trung tâm thờ tự của người Canaan (Ds 10,35 tt.,; 1 Sm 4,4-7; 2
Sm 6, 2 tt.,; 2 V 19, 14 tt.). Tiếng vọng của tình trạng khó chịu này được phản
ánh trong lời sấm ngôn sứ Nathan nói với vua Đavít (2 Sm 7,5-7), và trong trình
thuật liên quan tới đền thờ do vua Salomon xây (1 V 8 và song song).
Các đại hội canh tân giao ước “qahal Giavê” diễn ra theo lược
đồ của giao ước ký kết tại núi Sinai, là giao ước kiểu mẫu đầu tiên đã được lý
tưởng hóa trong một bối cảnh phụng vụ, được thực thi trước Giavê, nghĩa là
trong nơi của nhà tạm, nơi cất giữ Hòm Bia. Chúng dựa trên nền thần học của trường
phái đệ nhị luật liên quan tới việc hành hương. Sách Lêvi trực tiếp đề cập tới
nó, nhưng giả thiết nó, đặc biệt khi nói về các lễ hội, như trong chương 23,
trong một ngày lễ, chắc hẳn là việc cử hành lễ Vuợt qua. Chúng xoay quanh các
liên minh giữa các chi tộc khác nhau trong việc buôn bán, cử hành đám cưới.
Các cuộc chiến với người Philitinh và biến cố Hòm Bia bị bắt
giữ ghi dấu việc kết thúc các hội họp liên Israel này. Hậu quả là sự tan thành
từng mảnh của các cuộc hành hương địa phương, với các yếu tố tiêu cực, không chỉ
trên bình diện chính trị, mà chúng tấn kích cả sự tinh tuyền của truyền thống
Giavít và của phụng tự nữa, ngày càng bị phơi bầy cho các ảnh hưởng của các
thói tục tôn thờ các thần của người Canaan, trong đó có thần Baal và thần
Astarte.
TMH 538
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét