Ngày 25 tháng
12
Lễ Chúa Giáng
Sinh
Lễ Trọng. Lễ HỌ.
Cầu cho giáo dân.
(phần I)
Lễ Rạng Ðông
Bài Ðọc I: Is 62, 11-12
"Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa làm cho nghe thấy tận cùng cõi trái đất rằng: Hãy nói với
thiếu nữ Sion: Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến. Người đem theo phần thưởng với
Người và sự nghiệp trước mặt Người. Những người được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ
gọi họ là dân thánh. Còn ngươi, ngươi sẽ được gọi là thành quý chuộng, thành
không bị bỏ rơi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 96, 1 và 6. 11-12
Ðáp: Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng
sinh cho chúng ta.
Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy nhảy mừng, hải đảo muôn
ngàn, hãy mừng vui! Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy
vinh hiển của Người. - Ðáp.
2) Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ
lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh
Người! - Ðáp.
Bài Ðọc II: Tt 3, 4-7
"Chúa đã cứu độ chúng ta theo lượng từ bi Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Khi Ðấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của
Người, thì không phải do những việc công chính chúng ta thực hiện, nhưng do
lòng từ bi của Người, mà Người đã cứu độ chúng ta, bằng phép rửa tái sinh và sự
canh tân của Thánh Thần, Ðấng mà Người đã đổ xuống tràn đầy trên chúng ta qua Ðức
Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, để một khi được công chính hoá bởi ân sủng của
Ngài, trong hy vọng, chúng ta được thừa kế sự sống đời đời, trong Ðức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2, 14
Alleluia, alleluia! - Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời,
và bình an dưới thế cho người thiện tâm. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 15-20
"Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng:
"Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta
được biết". Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới
sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi
này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại
cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong
lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã
nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Ðó là lời Chúa.
Lễ Ban Ngày
Bài Ðọc I: Is 52, 7-10
"Khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa chúng ta".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình,
người rao tin mừng, người rao tin cứu độ, nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ
thống trị!
Tiếng của người canh gác của ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau
ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi
Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân
Người, đã cứu chuộc Giêru-salem. Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước
mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa
chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6
Ðáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa chúng ta (c. 3c).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên
những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với
cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân, Người
tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái
nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa
chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca!
- Ðáp.
4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc
du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên
nhan Chúa là Vua. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 1, 1-6
"Chúa đã phán dạy chúng ta qua người Con".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán
dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã
phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng
do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh
quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền
năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu Ðấng Oai Nghiêm trên
cõi trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn các thiên thần bao nhiêu, thì Người
cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu.
Phải, vì có bao giờ Thiên Chúa đã phán bảo với một vị nào trong
các thiên thần rằng: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh
Con"? Rồi Chúa lại phán: "Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là Con
Ta". Và khi ban Con Một mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: "Tất cả
các thiên thần Chúa hãy thờ lạy Người!"
Ðó là lời Chúa.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta.
Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống
trên địa cầu. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 1, 1-18 {hoặc 1-5. 9-14}
"Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa
chúng ta".
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa,
và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật
chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống,
và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã
không tiếp nhận sự sáng.
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến
nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông
mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào
thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và
thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các
gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận
Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai
tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt,
cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng
tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được
bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng
tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước
tôi".
Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này
tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì
ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một
Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Ga 1, 1-5. 9-14
"Ngôi Lời đã làm Người và ở cùng chúng ta"
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa,
và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật
chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống,
và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã
không tiếp nhận sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào
thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và
thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các
gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận
Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai
tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt,
cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng
tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được
bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Một Hài Nhi Ðã Sinh Ra Cho Ta (Lc 2, 1-14)
Một trẻ sơ sinh là một huyền nhiệm! Nó vừa là một cái gì mong
manh, dòn mỏng; lại vừa là một cái gì hấp dẫn phi thường đối với chúng ta. Khi
nó vừa xuất hiện là mọi người trong nhà chăm chú dõi theo và đổ dồn vào nó tất
cả lòng săn sóc yêu thương.
Hài nhi Yêsu mà Trinh nữ Maria sinh hạ cho ta hôm nay trong máng
cỏ Bêlem quả là một trẻ thơ kỳ diệu, đã từng được loan báo từ ngàn xưa.
1. Bài sách tiên tri Isaia (Is 9,1-6) diễn lại trước mắt chúng
ta bối cảnh lịch sử Dothái vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên: giang sơn chia cắt,
hiểm họa nội chiến, và một phần dân phải lưu đày sang xứ Assyria. Trong cảnh lầm
than đen tối ấy, Thiên Chúa Yavê đã sai Isaia loan báo: Người sẽ cho dân tộc một
vị anh hùng, xuất hiện như luồng sáng vĩ đại làm phấn khởi lòng mọi người. Ðó
chính là một hài nhi lạ thường, mang những danh xưng độc đáo:
"Vị-cố-vấn-kỳ-tài"
"Ðấng-Thiên-Chúa-dũng-mạnh"
"Người-cha-đến-muôn-đời"
"Thái-tử-đem-lại-hòa-bình"
(Is 9,5)
Những tước hiệu này gieo vào lòng người Dothái một âm hưởng sâu
xa mãnh liệt. Chúng như làm sống lại những nét kiêu hùng của lịch sử dân tộc họ:
nào là đức khôn ngoan của một Salômon; nào là chí dũng cảm của một Ðavít; nào
là tài lãnh đạo của một Maisen; nào là lòng tín thành của các bậc tổ phụ. Tất cả
đều kết tụ nơi hài nhi khác thường này như tinh hoa của lịch sử đất nước.
Sự xuất hiện của Hài nhi sẽ tạo nên cho toàn dân một niềm vui vĩ
đại và một mối hy vọng lớn lao, vì đó là dấu hiệu chứng tỏ Thiên Chúa can thiệp
vào lịch sử, để cứu vớt Dân Ngài.
Nhưng phải chăng âm hưởng của lời Isaia chỉ ngừng lại nơi đây?
Không! Lời ông còn vọng xa hơn nữa, như tiếng kêu của toàn dân
vươn lên Thượng đế, khấn xin Người dủ tình gửi Ðấng Thiên Sai đến thiết lập một
nước công bình chính trực giữa loài người, đồng thời thiêu hủy chiếc áo choàng
đẫm máu chiến tranh, để trải rộng hòa bình đến vô tận.
2. Thì đây tiếng kêu của toàn dân đã gặp được câu đáp trả. Thiên
Chúa như xé mây trời ngự xuống (Is 63,19) để trở thành trẻ sơ sinh giữa loài
người.
Thánh Luca kể lại:
Ngày ấy hoàng đế La Mã ra lệnh: "Toàn dân ai nấy phải về
nguyên quán mình mà đăng ký". Yuse và Maria từ Nadarét - tận miền Bắc - đã
trở về Bêlem - ở miền Nam - nơi quê cha đất tổ, được gọi là "Châu thành
Ðavít", để làm sổ kiểm tra. Vừa tới nơi, thì Maria cũng đến ngày mãn nguyệt
khai hoa và sinh hạ con trai đầu lòng. Bà lấy tã bọc cho trẻ thơ và đặt nằm
trong máng cỏ, vì không tìm được chỗ trú chân nơi quán trọ (Lc 2,1-6).
"Hôm nay một Hài nhi đã sinh ra cho ta".
Hài nhi Yêsu do Maria sinh hạ chính là trẻ thơ kỳ diệu mà Isaia
đã tiên báo (Is 7,14; 9,1-6), là miêu duệ Thiên Chúa đã hứa cho Ðavít (2Sam
7,12-14; Lc 1,32-33). Yêsu đến như một tặng phẩm Thiên Chúa ban cho loài người.
Sinh ra trong bóng đêm, Yêsu như một vì sao tỏa chiếu luồng sáng
vĩ đại và khơi dậy niềm vui lớn lao. Niềm vui ấy đã được loan báo trước tiên
cho đám mục đồng giữa chốn trời đất cô quạnh. Họ là những người nghèo, sống với
bầy chiên ở ngoài thành phố và làng mạc, lang thang bên lề xã hội. Họ bị khinh
dể, bị bỏ rơi. Nhưng Thiên Chúa đã nghĩ đến họ, cho họ nếm cảm niềm vui được thấy
Ðấng Cứu Thế và biến họ trở thành sứ giả loan báo Tin Mừng cho những người kế cận.
Ðường lối Thiên Chúa thật kỳ lạ! Người như luôn hành động ngược
đời! Vinh quang của Người xuất hiện trong sự nghèo hèn bé mọn. Người ưu ái đám
dân nghèo khó và trao cho họ những sứ mệnh lớn lao. Dấu hiệu để nhận ra Người
hiện diện là: một trẻ thơ mình quấn tã nằm trong máng cỏ. Nào ai có thể ngờ!
Lễ Giáng sinh là niềm vui của người nghèo, nhưng không chỉ hạn định
ở đó, mà còn trải rộng ra khắp vũ hoàn. Ðất trời cũng vang dội tiếng ca:
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm"
(Lc 2,14)
Người thiện tâm là những kẻ được Thiên Chúa yêu thương. Qua đời
sống chính trực của họ, trái đất này như nở hoa, đón nhận sương trời và ơn
thiêng thánh hóa trần thế.
Trong lúc đất trời ngợp ánh hào quang và muôn vàn lời ca vang dội,
thì nơi hang đá Bêlem, Yuse và Maria âm thầm chiêm ngưỡng Hài nhi Yêsu:
"Này Con - Maria như muốn nói -
Mẹ phải làm gì cho con bây giờ đây?
Mẹ phải cho con bú sữa Mẹ,
hay Mẹ phải kính thờ Con là Con Thiên Chúa?
Mẹ phải săn sóc Con như một bà mẹ,
hay mẹ phải thờ lại Con như một nữ tỳ?
Mẹ phải ôm Con vào lòng mà hôn như con nhỏ của Mẹ,
hay Mẹ phải quỳ gối van lơn Con như Thiên Chúa của Mẹ đây?
Mẹ phải cho Con sữa,
hay đem hương dâng kính lên Con?
(Trích bài giảng của Giáo phụ phương Ðông Romanos le Melode về
"Mẹ Thiên Chúa")
Ðẹp thay tâm tình từ mẫu ấp ủ Hài nhi!
Sự bé bỏng, mỏng dòn của trẻ thơ như tỏa ra một uy quyền bất khả
kháng: người ta phải yêu mến, phải che chở, phải làm vừa lòng trẻ thơ. Bà mẹ
cũng mỏng dòn yếu ớt, nhưng trong thiên chức làm mẹ, người có một uy quyền linh
thiêng, khiến người ta phải nể vì.
Maria, Bà Mẹ Ðồng Trinh Rất Thánh, ghi tạc tất cả vào lòng và âm
thầm suy niệm... Trong Ðức Maria, có hình ảnh Giáo hội hôm nay đang chiêm ngắm
Hài nhi Yêsu. Giáo hội cũng muốn ghi tạc tất cả vào lòng để âm thầm suy niệm
như Ngài, và loan báo Yêsu cho mọi người như các mục đồng thuở trước.
Như vậy Hài nhi Yêsu chính là ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại:
đó là ân sủng cứu độ, vì Yêsu là Ðấng Cứu Thế. Vinh quang Người đã xuất hiện
trong cảnh nghèo hèn khiêm hạ của máng cỏ Bêlem. Hôm nay chúng ta tri ân tuyên
xưng ngày Giáng sinh hồng phúc của Người. Nhưng thánh Phaolô nhắc ta rằng phải
hướng mắt nhìn về tương lai, đón chờ Người lại đến trong vinh quang (Tito
2,11-14). Và hôm nay vinh quang của Người đang xuất hiện trong đời sống hoán cải
và thánh thiện của các tín hữu, trong các nỗ lực xây dựng hòa bình của những
người thành tâm thiện chí, nhằm đem lại quyền sống tự do cho mọi người, vì tất
cả đều được gọi làm con Thiên Chúa.
Vinh quang Thiên Chúa xuất hiện khắp vũ hoàn. Nhưng vinh quang của
Người xuất hiện cách đặc biệt trên khuôn mặt con người: con người nghèo khổ, nhỏ
bé, mỏng dòn, giới hạn, vì chính trong sự yếu hèn của con người mà quyền năng
Thiên Chúa được biểu dương. Trên khuôn mặt của Hài nhi Yêsu, Thiên Chúa siêu việt
đã tỏ bày cho ta thấy khuôn mặt dễ thương nhưng đầy yêu sách của Người.
Trời đất hãy vui lên! Mọi người hãy vui lên! Vì hôm nay một trẻ
thơ đã ra đời! Vì hôm nay Chúa Cứu thế đang đến.
Bài Giảng Lễ Giáng Sinh:
Thánh Lễ Nửa Ðêm:
Trong giờ phút thiêng liêng thánh thiện này, chúng ta hãy trút bỏ
mọi tâm tư trần tục, chú tâm vào mầu nhiệm vừa được mạc khải cho chúng ta qua lời
thiên thần: "Hôm nay, Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các
ngươi".
Ngài giáng sinh một cách lạ lùng ư?
- Không, Ngài sinh ra như mọi người. Ngài xuất hiện nhẹ nhàng
trong đêm đông tịch mịch. Ngài không tìm được một chỗ trong hàng quán. Phúc Âm
viết rõ như vậy. Thân mẫu Ngài đã hạ sinh Ngài nơi hang súc vật ngoài đồng vắng.
Cần gì phải tự hỏi: một điềm báo trước gì đây? Sự thật là Ngài đã khởi sự cuộc
đời trong tinh thần từ bỏ, khó nghèo và đơn sơ. Ngài sẽ lớn lên trong tinh thần
ấy. Và tấm thân đã chịu đựng được thiếu thốn khổ sở khi mới sinh, sẽ chẳng bao
giờ coi tiện nghi làm quan trọng. Thiên Chúa giáng sinh làm người, không xuống
trần để tìm kiếm của cải thế gian. Ngài không màng đến vàng bạc và phô trương
giàu có. Ngài kêu gọi trước hết đám mục đồng đang thức canh đàn vật trong đêm tối.
Ở đây chúng ta cũng đừng lầm tưởng, trong hang đá bấy giờ có nhiều
thiên thần sáng láng đang ca hát líu lo. Không, thiên thần chỉ hiện ra tại chỗ
các mục đồng đang ở và những người này chỉ nghe thấy tiếng hát trên không
trung. Chứ khi vào hang đá, đúng như lời chỉ dẫn của thiên thần, họ chỉ thấy một
Hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và nằm trong máng cỏ. Thiên Chúa giáng
sinh vẫn giữ một cung cách khiêm tốn, thanh bần và bình dị.
Vì sao Ngài lại hữu ý như vậy? Phải chăng tâm tư của Ngài khác hẳn
mọi cảm nghĩ của ta? Chúng ta chỉ biết hình dung sự cao cả và quyền năng trong
khung cảnh vàng bạc và oai hùng. Sinh ra, chúng ta đã muốn làm lính, làm tướng
và làm bà chúa trong khi chơi. Còn Thiên Chúa khi giáng sinh làm người, theo lời
Isaia nói, lại muốn nghiền nát vương trượng của kẻ áp bức và đốt sạch mọi chiếc
giày trận. Ngài có một quan niệm khác hẳn về cuộc đời. Và quan niệm ấy Ngài muốn
chia sẻ với tất cả chúng ta trong ngày Ngài giáng sinh và trong chính việc đản
sinh của Ngài.
Sau này Ngài sẽ nói: Ta sinh ra để làm Vua; chính để làm Vua mà
Ta đã sinh ra. Nên chúng ta đừng tưởng Hài nhi nằm trong máng cỏ đã chối bỏ
thiên chức làm người mà Tạo hóa đã trao phó cho nguyên tổ chúng ta: các ngươi
hãy vươn lên thống trị mặt đất. Bài sách Isaia hôm nay cũng nói rõ: Một Hài nhi
đã sinh ra cho ta� Thiên hạ sẽ chúc tụng Ngài là Thiên-Chúa-Dũng-Mạnh, là Hoàng-Tử-Hòa-Bình.
Quả thật, Hài nhi thành Bêlem không từ khước thiên chức làm người. Ngài sinh ra
để thống trị địa cầu. Ngài sinh ra để làm cho mọi người thống trị với Ngài. Chỉ
có điều, quan niệm của Ngài về thống trị thật là khác và đường lối Ngài theo thật
là lạ lùng.
Ngài không hiểu thống trị là truyền khiến nhưng là phục vụ. Môn
đệ của Ngài còn nhớ lời Ngài căn dặn: Vua chúa thế gian thống trị bằng quyền
bính; nhưng trong chúng con ai đứng đầu hãy sống như người phục vụ. Ngài không
bao giờ dùng danh từ bất bạo động, nhưng luôn luôn Ngài nhắc nhở phải yêu
thương, Ngài muốn môn đệ phải tranh thủ mọi tạo vật, mọi dân tộc, cho đến tận
cùng thế giới, nhưng khí giới chinh phục là Tin Mừng và Tình Thương. Nói đúng
hơn, môn đệ cứ phải phục vụ, rồi coi mình là tôi tớ vô dụng. Chính Thiên Chúa sẽ
làm cho cây mọc lên chứ không phải kẻ trồng hay người tưới!
Cuộc đời của Ngài cũng vậy. Con đường Ngài đi không thênh thang
rộng rãi, nhưng chật hẹp đau thương. Nhưng lúc nào Thánh Linh cũng hướng dẫn
Ngài, ở trong công việc Ngài làm và trong mọi lời Ngài nói, khiến sức mạnh của
Thiên Chúa phát huy ngay trong sự yếu đuối của loài người, và vì thế cứu độ được
tất cả những gì đã hư mất.
Chúng ta có thể hy vọng sống như Ngài đã sống không? Thật ta
không hiểu gì về mầu nhiệm giáng sinh hôm nay khi đặt ra câu hỏi ấy. Thiên Chúa
giáng sinh đâu phải chỉ để sống trong một thời và ở một nơi. Ngài chọn sinh ra
và lớn lên ở một nơi và trong mọi thời và ở khắp mọi nơi. Thân xác Ngài mặc khi
sinh ra trong hang đá máng cỏ là bản tính loài người. Ai có bản tính người mà
muốn đón nhận tinh thần của Ngài, thì Ngài sẽ sống ở trong họ và sẽ sống để tiếp
nối cuộc đời Ngài. Ngài sinh ra để làm công việc ấy. Thiên Chúa nhập thể giáng
trần là để cho người trần có thể trở thành con Thiên Chúa và sống với Thiên
Chúa.
Hôm nay và hằng ngày chúng ta được mời gọi đi vào mầu nhiệm
chung sống với Thiên Chúa. Thiên Chúa còn dùng hình bánh hình rượu để ẩn thân hầu
hằng ngày có thể đến với chúng ta và sống trong chúng ta. Thánh lễ đêm nay chỉ
cử hành mầu nhiệm ấy một cách đặc biệt thôi. Chúng ta hãy có tâm hồn quyết liệt
đi vào mầu nhiệm sắp cử hành, để hôm nay "Ðức Yêsu Cứu Thế sinh ra cho
chúng ta", để sống trong chúng ta, thật sự sống với chúng ta, khiến chúng
ta từ nay bước theo đường lối của Ngài: chinh phục tất cả hoàn vũ cho con người,
nhưng bằng thánh thiện và tình thương.
Thánh Lễ Ban Ngày:
Trong thánh lễ nửa đêm, phụng vụ đã cho chúng ta được nghe tiếng
êm ái tốt lành của Chúa Cha nói với chúng ta ở trong Ngài: "Hỡi con, hôm
nay Ta đã sinh ra Con". Trong thánh lễ ban ngày bây giờ, phụng vụ lại muốn
giúp chúng ta đi vào tinh thần của Ngôi Con mới sinh ra làm người để lên tới
Ngôi Cha, đáp lại tâm tình thắm thiết của Người trong hành vi đã muốn sinh ra
chúng ta làm con.
Thật vậy, ngay từ bài ca nhập lễ, chúng ta đã được mời gọi chiêm
ngưỡng Hài nhi vừa sinh. Không tầm thường như ta thoạt nhìn đâu. Người Con Ðức
Mẹ vừa sinh, bọc trong khăn, nằm trong máng cỏ có một định mệnh siêu việt.
Vương quyền đã đặt trên vai Người và danh hiệu Người thật là Thiên Chúa. Như vậy,
chính phụng vụ ngày lễ Giáng sinh mời ta phải biết vượt qua những cái bề ngoài
của hang đá máng cỏ, không được nhìn Hài nhi bằng con mắt tầm thường, nhưng phải
có con mắt của tiên tri Isaia, phải biết nhìn con trẻ vừa chào đời trong sứ mệnh
cuối cùng sau này của Người. Người là Con Ðấng Tối Cao, Ngài sẽ ngự trị không
những trên ngai hoàng Ðavít mà còn trên muôn dân muôn nước, hai vai Ngài đã
mang nặng vương quyền thống trị hoàn vũ. Việc các nhà đạo sĩ đến thờ lạy chỉ là
một dấu hiệu báo trước nhạt nhẽo thôi. Cái ngày mà chân tướng đích thật của Hài
nhi sẽ lộ ra theo đúng như Isaia đã cảm thấy lờ mờ, chính là ngày mà con người
sẽ ngự xuống trên mây trời, có hào quang chiếu tỏa; Ngài sẽ phân xử muôn dân và
thiết lập Nước Người duy nhất trong hoàn vũ. Không sức đối nghịch nào sẽ còn có
nữa và ngay đến bóng dáng tử thần cũng phải qua đi.
Phải, lời của tiên tri Isaia đưa ta đến tận cùng trái đất và lịch
sử nhân loại, không phải để ta bỏ quên thân phận hiện nay của Hài nhi, nhưng để
soi sáng cho chúng ta hiểu đúng những biểu lộ hiện thể của Người Con Thiên Chúa
vừa giáng sinh làm người. Không có cái nhìn đi trước đó, thật khó có thể hiểu
được giá trị đích thực trong thái độ của con trẻ thành Bêlem. Nhưng được ánh
sáng tiên tri ấy soi chiếu, những thái độ hiện thể kia nổi lên sáng ngời.
Ta sẽ thấy rằng dù ngang bằng Thiên Chúa, Ðức Kitô vẫn không ngại
hạ mình mặc lấy thân phận loài người, để thể hiện lòng hiếu thảo của mình trong
đời sống nhân loại, để nhân loại chúng ta biết cư xử thế nào như người Con
Thiên Chúa. Chúng ta cứ đọc Phúc Âm mà xem: Có lúc nào Ðức Kitô không tỏ ra
mình là Người Con vừa ý Ðức Chúa Cha mọi đàng không? Ngài không giáng thế như một
ngôi sao băng từ trên trời xuống: Người cũng không dùng đường lối khác thường để
hiện ra như một người trưởng thành; Ngài đã muốn sinh ra trong thân phận một
hài nhi để sống tất cả cuộc đời của người làm con. Sau này có lần Ngài sẽ bảo
môn đệ, này hỡi đàn con nhỏ, các con đừng sợ vì chúng con có một Cha ở trên trời.
Ngài không muốn cho chúng ta nhớ lại thời Ngài còn là một hài nhi bé nhỏ ư?
Tất cả, Ngài phó mặc cho chương trình củ Chúa Cha. Ngài đâu có sợ
khi Hêrôđê bực tức giận dữ xua quân đến Bêlem. Ngài cứ nằm yêu trong cánh tay ấp
ủ của thân mẫu và đúng hơn trong sự quan phòng của Chúa Cha. Thái độ tín nhiệm ấy
không có tính cách bỏ mặc như ta có thể nghĩ. Trẻ Yêsu hồi lên 12 đã làm cho
thân phụ thân mẫu tưng hửng khi cậu nói: Cha mẹ không biết tôi phải lo việc Cha
tôi ư? Gớm thật cậu bé bề ngoài có vẻ sống bình thường đó, lại hằng nung nấu
tâm hồn thực hiện kế hoạch của Ngôi Cha. Sau này có lần Ðức Kitô sẽ dẫn một trẻ
em đến trước mặt các môn đệ để bảo các ông: nếu các ông không trở nên như con
trẻ này, các ông không được vào Nước Trời. Có ông nào lúc đó nghĩ đến việc ngày
trước chính Ngài đã sống như con trẻ không? Và câu kia Ngài nói cũng chỉ cốt để
ta nghĩ lại việc đó, để ta đi vào mầu nhiệm niên thiếu của Ngài hầu biết sống
tinh thần làm con.
Tinh thần ấy lớn lên Ngài vẫn tiếp tục... Cuộc đời truyền giáo của
Ngài là một mạc khải vĩ đại về Ðức Chúa Cha. Không nói đến giáo lý của Ngài về
Chúa Cha nữa, chúng ta không thể không cảm động khi thấy bất cứ lúc nào Ngài
cũng biểu lộ một tình con sâu đậm. Lúc đi đường gặp một bông hoa đẹp, lòng Ngài
dạt dào lòng biết ơn Chúa Cha đã dựng nên tạo vật tốt đẹp như thế, và khi thấy
một người tàn tật lâu năm, Ngài không thể không động lòng trắc ẩn đối với một
người con của Chúa Cha, nên đã chữa lành y để y ca tụng Thiên Chúa, mặc cho bọn
Biệt phái ghi thêm một điểm nữa vào sổ đen để mai ngày đọc to trong tòa án.
Ngài không bao giờ muốn tỏ mình nhưng chỉ muốn tỏ cho người ta thấy Chúa Cha,
nên khi thấy mọi người chăm chú nhìn mình khi đứng trước mộ Lazarô, Ngài đã ngước
mắt nhìn lên trời để như bảo mọi người nhìn lên Chúa Cha và coi mọi việc sắp
làm đây là viêc của Chúa Cha làm qua bàn tay của Ngài... Chúng ta có thể kể
mãi, vì như vậy phải nói lại tất cả Phúc Âm. Nhưng chúng ta không thể bỏ qua những
giây phút cuối cùng trong đời Ngài, những phút mà tác giả Yoan đã gọi là Giờ của
Ngài, giờ để Ngài làm những công việc ý nghĩa nhất. Ngài đã tâm sự với các môn
đệ về Chúa Cha, Ngài đã cầu nguyện cùng Chúa Cha trong vườn Cây Dầu, Ngài đã bằng
lòng chịu đau khổ vì thánh ý Chúa Cha... để cuối cùng ở trên Thánh giá Ngài
trút hơi thở như một người con thiu ngủ trong vòng tay êm ái của người Cha.
Cuộc đời Chúa Cứu Thế quả thực đã là cuộc đời của người Con, người
Con đẹp ý Cha mọi đàng, nên dĩ nhiên ai cũng muốn kết luận chúng ta muốn sống
đúng phận sự làm con Thiên Chúa phải bắt chước tinh thần và thái độ của Ðức
Kitô - kết luận thật đúng và thật dễ; nhưng làm thế nào để thể hiện được kết luận
ấy mới là việc khó và cần được trả lời.
Ở trên đã nói, chân tướng đích thực của Chúa Con chỉ lộ ra thực
sự trong ngày quang lâm tái giáng sau này. Nhưng chân tướng đó đã không kiện
toàn trong ngày Phục sinh là gì? Trong ngày đó, Ðức Kitô đã toàn thắng sự chết
là thù địch cuối cùng. Ngài thật đã là vua vinh hiển. Ngài đã là Con Ðức Chúa
Cha trong tất cả những cái gì ở nơi Ngài. Trước đây từ ngày Giáng sinh cho đến
khi chịu chết, vì chúng ta Ngài đã chấp nhận một lối sống mà bề ngoài còn có những
cái chưa được thần linh hóa. Nhưng khi đi qua sự chết Ngài đã giũ bỏ lại mọi vẻ
hư nát của người con. Và lúc Phục sinh, Ngài thật sự đã trở về cùng Chúa Cha,
đã là người Con hoàn toàn của Chúa Cha. Ngài thật đã là Người Con - như lời
kinh nhập lễ nói - Vai mang vương quyền và danh hiệu là Thiên Chúa.
Thế mà chính thân phận làm con này, Ngài lại muốn thông ban cho
chúng ta. Nếu ta bằng lòng kết hợp với Ngài trong mầu nhiệm tử nạn, Ngài sẽ đưa
ta vào mầu nhiệm phục sinh của Ngài. Ta sẽ là chi thể trong cơ thể phục sinh của
Ngài; ta sẽ được Chúa Cha gọi làm con trong Người Con đã phục sinh từ cõi chết.
Vai ta cũng được mang vương quyền, vì có gì là không ở dưới những người con của
Thiên Chúa? Thành ra sống đời làm con của ta, không còn phải là trở lại cuộc đời
làm con của Ðức Kitô trước ngày phục sinh, nhưng là phải sống đúng tâm trạng của
Ðức Kitô phục sinh đang sống ở trên trời.
Chúng ta không thể và không phải bắt chước hài nhi ở Bêlem mà sống:
thân phận chúng ta bây giờ đã khác với thân phận Ngài ngày trước. Nhưng bất kỳ
ai, ở bất cứ thân phận nào, vẫn có thể và vẫn phải sống tinh thần làm con của Ðức
Kitô phục sinh đang sống ở trong ta qua bí tích Thánh Thể. Tinh thần ấy là tinh
thần đã từ bỏ những gì hư nát để sống hoàn toàn cho Thiên Chúa. Ðức Kitô đã đi
qua và đã dùng sự chết để trở thành người con hoàn toàn của Chúa Cha, thì người
tín hữu muốn sống đúng địa vị con Thiên Chúa cũng không được dừng lại thụ hưởng
say mê hay tôn thờ những cái hư nát, một phải đi qua, phải dùng để đi về nhà
Cha. Tiền tài, danh vọng, xác thịt, thế gian, tất cả đều là những cái hư nát:
chúng ta không phủ nhận, nhưng chỉ dùng như không dùng để tâm hồn không bị cản
trở bay về tình Cha.
Chính Ðức Kitô đã thể hiện sứ ngôn Isaia trong lúc từ bỏ đời này
để về cùng Chúa Cha. Ngày Ngài giáng sinh, Isaia viết: một Hài Nhi đã sinh ra
cho chúng ta, vai mang vương quyền... Suốt cuộc đời trần gian Ngài đã từ chối
danh dự làm vua, mãi đến lúc đứng trước tòa Philatô Ngài mới tuyên bố mình sinh
ra để làm vua, và cũng chính hôm ấy, Ngài tuyên bố không úp mở Ngài quả thật là
Con Thiên Chúa.
Như vậy, lời sứ ngôn Isaia chỉ thể hiện trong mầu nhiệm Tử nạn-Phục
sinh. Lời ấy được nhắc lại hôm nay để mời ta đi vào mầu nhiệm Thánh lễ, là mầu
nhiệm mời ta thể hiện ơn thiên triệu trở thành Con Thiên Chúa trong Ðức Kitô.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Ngày 25 tháng 12, Lễ Giáng Sinh
Bài đọc: Isa 52:7-10; Heb 1:1-6; Jn 1:1-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên
Chúa họat động trong lịch sử con người.
Nhiều người trong chúng ta dễ dàng bị thuyết phục bởi câu nói
xem ra rất chí lý, “đạo nào cũng là đạo; đạo nào cũng dạy con người làm điều
lành tránh điều ác!” Từ đó, nhiều người đưa đến kết luận, ai theo đạo nào cũng
được. Nếu chúng ta chỉ dựa vào đạo lý để tin vào các thần, sẽ có rất nhiều thần
trong thế giới này; nhưng những thần này có làm lợi gì cho chúng ta đâu? Có những
vị thần do trí tưởng tượng của con người tạo nên, có những vị thần do con người
tự nhận, có những vị thần do con người phong chức cho; đâu là Vị Thần đích thực
và là Người điều khiển thế giới này? Một trong những tiêu chuẩn giúp chúng ta
nhận ra là dựa vào giòng lịch sử của con người để tìm hiểu, kiểm chứng, và xác
nhận ảnh hưởng và sự can thiệp của Vị Thần này vào đời sống nhân lọai.
Trong suốt Mùa Vọng qua, và trong các Bài đọc hôm nay cho chúng
ta thấy chân dung của Vị Thần đích thực này chính là Thiên Chúa. Ngài không phải
là một vị thần sống xa cách và không quan tâm gì đến cuộc sống của dân chúng;
trái lại cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều sống mật thiết và quan tâm đến mọi khía cạnh
của con người suốt giòng lịch sử: từ khi tạo dựng cho đến Ngày Cánh Chung.
Trong Bài đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa vào cuộc
sống của dân trước, đang, và sau thời gian Lưu Đày. Trong Bài đọc II, Tác giả của
Thư Do-Thái cho thấy 2 cách can thiệp khác nhau của Thiên Chúa: thuở xưa Ngài
phán dạy qua các Tiên-tri; thời nay Ngài dạy dỗ con người qua chính Người Con
Nhập Thể. Điều này cũng đã được Tiên-tri Isaiah và Jeremiah loan báo trước: “Mọi
người sẽ được dạy dỗ bởi chính Thiên Chúa” (Isa 54:13, Jer 31:33, Jn 6:45).
Trong Phúc Âm, Thánh Gioan nhìn thấy vai trò của Ngôi Hai ngay từ ban đầu, khi
Thiên Chúa tạo dựng con người; và vai trò của Người trong Kế họach Cứu Độ của
Thiên Chúa. Chính Người Con này đã nhập thể để ở với con người, để yêu thương dạy
dỗ, và để hiến mình thành của lễ hy sinh đền tội cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người bốn bể sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa chúng ta.
1.1/ Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay
trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin
hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là
Vua hiển trị." Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo
hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo
Tin Mừng phải loan báo 3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên
một khía cạnh của ơn cứu độ:
(1) Công bố bình an: Bình an là một trong những chữ được
Tiên-tri Isaiah dùng nhiều nhất; nó không phải là sự vắng mặt của chiến tranh,
nhưng là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người. Con người được hòa giải với
Thiên Chúa; vì thế, con người có bình an.
(2) Loan tin tốt lành: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa, Đấng Tốt
Lành. Ngài ban phúc lành của Ngài cho con người: tha thứ tội lỗi và cho được hưởng
ơn cứu độ.
(3) Công bố ơn cứu độ: Ơn Cứu Độ đến từ Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ
không chỉ giới hạn trong việc giải phóng Dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon;
nhưng bao gồm cả việc giải phóng dân khỏi tội lỗi, và đem lại cho dân sự tốt
lành và bình an.
Thiên Chúa là Vua hiển trị, chính Ngài sẽ lãnh đạo dân. Những
người canh gác của Thành Thánh Jerusalem sẽ nhìn thấy Đức Chúa, và cất tiếng
reo hò. Ngài sẽ cai trị dân và cho họ hưởng bình an, những điều tốt lành, và ơn
cứu độ.
1.2/ Mọi người sẽ nhìn thấy Thiên Chúa cứu độ Jerusalem: “Hỡi
Jerusalem điêu tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an
ủi dân Người, và cứu chuộc Jerusalem. Trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh
tay thần thánh của Người: người bốn bể rồi ra nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa chúng ta.” Sự kiện Chúa giải phóng dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon và cho
về lại Jerusalem, là một phép lạ mà các dân trong vùng đều hay biết: không bằng
sức mạnh quân sự, không bằng sức cố gắng của dân Do-Thái; nhưng bằng niềm tin
tưởng của Cyrus, Vua Ba-Tư vào Thiên Chúa. Tương tự khi Chúa Giêsu giải phóng
dân khỏi tội bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá tại Jerusalem, nước Do-Thái
còn đang dưới ách đô hộ của Đế-quốc Rôma.
2/ Bài đọc II: Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy
chúng ta qua Thánh Tử.
2.1/ Thánh Tử cao trọng hơn các tiên-tri: Trong Mầu
Nhiệm Cứu Độ, những gì Thiên Chúa muốn được mặc khải qua hai giai đọan:
(1) “Thời xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha
ông chúng ta qua các ngôn sứ.” Các tiên-tri, vì khả năng giới hạn, không thể
lĩnh hội một lần; nên Thiên Chúa phải mặc khải nhiều lần và qua nhiều người. Mỗi
thời đại có những vấn đề khác nhau, nên mặc khải của các tiên tri cũng khác
nhau, chẳng hạn: Tiên-tri Amos chú trọng đến công bằng xã hội; Tiên-tri Isaiah
chú trọng đến việc sửa dạy để thanh luyện dân chúng; Tiên-tri Hosea chú trọng đến
sự trung thành của Thiên Chúa và sự bất trung của dân. Các tiên-tri chỉ biết một
khía cạnh về Thiên Chúa, không một tiên tri nào biết tất cả các khía cạnh của
Thiên Chúa. Các tiên tri cũng dùng các cách khác nhau để mặc khải: tuyên sấm
(Amos, Isaiah), hành động như đóng kịch (Jeremiah).
(2) Thời sau hết, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta trực tiếp qua
Thánh Tử: Mặc khải do Thánh-Tử hòan hảo hơn tất cả mặc khải của các tiên-tri,
vì Thánh-Tử biết rõ tất cả những gì xảy ra nơi Thiên Chúa ngay từ thuở ban đầu.
Các tiên-tri là những bạn hữu của Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu là Người Con của
Thiên Chúa. Ngài không chỉ biết một phần sự thật như các tiên tri; nhưng nơi
Ngài ẩn chứa tất cả sự thật. Qua Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa. Tác giả
Thư Do-Thái không chủ ý khinh thường các tiên tri; nhưng muốn làm nổi bật vai
trò của Thánh Tử.
Người Do Thái quan niệm họ đang sống giữa hai thời đại: thời hiện
tại và thời cánh chung; thời hiện tại hòan tòan xấu và thời tương lai là thời
huy hòang của Đức Chúa. Giữa hai thời đại là Ngày của Đức Chúa đến và Đức Kitô
là Người bắt đầu triều đại của Thiên Chúa.
2.2/ Thánh Tử cao trọng hơn các thiên-thần.
1/ Sự cao trọng của Thánh Tử: C.J. Vaughan chỉ ra 6 điều quan trọng
liên quan đến Đức Kitô:
(1) Vinh quang nguyên thủy của Thiên Chúa thuộc về Đức Kitô:
“Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên
Chúa.” Vinh quang của Thiên Chúa gồm chứa không trong sự đánh phạt con người
hay giảm họ xuống hàng tôi tớ, nhưng trong phục vụ, yêu mến, và chết cho con
người.
(2) Vương quốc thuộc về Đức Kitô: “Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng
thừa hưởng muôn vật muôn loài.” Các tác giả Tin Mừng không bao giờ nghi ngờ sự
chiến thắng thuộc về Đức Kitô; đơn giản vì Ngài là Con Thiên Chúa. Khi mọi việc
hòan tất, Ngài sẽ trao vương quốc lại cho Thiên Chúa.
(3) Công cuộc tạo dựng cũng thuộc về Đức Kitô: “Thiên Chúa đã nhờ
Người mà dựng nên vũ trụ.” Thiên Chúa tạo dựng bằng Lời “Hãy có!” tức thì mọi vật
liền có.
(4) Công việc quan phòng vũ trụ cũng thuộc về Đức Kitô: “Người
là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật.” Thiên Chúa không những
dựng nên vũ trụ, nhưng còn quan phòng điều khiển nó theo một trật tự hòa điệu.
Ngài điều khiển nó theo sự khôn ngoan, mà Ngôi Lời là chính sự khôn ngoan của
Thiên Chúa.
(5) Công cuộc cứu chuộc là do Đức Kitô: Bằng cái chết, Ngài gánh
tội cho con người; bằng sự hiện diện liên tục với con người, Ngài giải phóng
con người khỏi tội.
(6) Cuộc vinh thắng khải hòan cũng thuộc về Đức Kitô: “Sau khi
đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời.” Theo tác giả
Sách Do-Thái, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa để làm Trạng-sư bênh vực cho con người.
2/ Thánh Tử cao trọng hơn các thiên-thần: Truyền thống
Do-Thái tin thiên thần là các sứ giả (aggeloi, Hy-Lạp, và mal’akim,
Do-Thái) của Thiên Chúa: các thiên-thần có nhiệm vụ trao mệnh lệnh của Thiên
Chúa cho con người và tường thuật những gì con người làm hay cầu xin lên Thiên
Chúa. Quan hệ trực tiếp giữa Thiên Chúa và con người không thể xảy ra; nếu con
người nhìn thấy Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ phải chết (Acts 7:53, Gal 3:19). Vì
thế, dễ dàng cho người Do-Thái chấp nhận các thiên thần hơn là chính Thiên
Chúa. Tác giả Thư Do-Thái muốn nhấn mạnh Đức Kitô không phải là một trong số
các thiên thần; nhưng cao trọng hơn các thiên thần bội phần. “Danh hiệu Người
được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại
trổi hơn họ bấy nhiêu. Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần
nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con; hoặc là: Ta sẽ là Cha
Người, và chính Người sẽ là Con Ta. Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người,
Thiên Chúa lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.”
3/ Phúc Âm: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.”
3.1/ Sự hiện hữu và vai trò của Ngôi Lời:
(1) Ngôi Lời hiện hữu từ khởi thủy: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người
vẫn hướng về Thiên Chúa.” Từ ngữ “Ngôi Lời” có lịch sử trong cả Do-Thái và Hy-Lạp.
Cả hai lịch sử đều cho “Lời” là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, là trí tuệ của
Ngài. Thánh sử Gioan dùng từ Hy-Lạp để nói về Đấng Thiên Sai của Do-Thái, cho
người Hy-Lạp hiểu. Nếu Ngôi Lời là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Ngôi Lời luôn
hiện hữu với Thiên Chúa từ khởi thủy.
(2) Vai trò của Ngôi Lời trong việc tạo dựng vũ trụ: “Nhờ Ngôi Lời,
vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều
đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.”
Nếu Ngôi Lời là trí tuệ của Thiên Chúa, cái gì có trong trí tuệ thì sẽ có; cái
gì không có trong trí tuệ thì sẽ không có. Sự sống và Ánh sáng là hai chủ đề
chính trong Tin Mừng Gioan, và có liên quan mật thiết với nhau. Sự sống không
chỉ thuần túy thể lý, nhưng mở rộng tới sự sống đời đời. Chỉ có Ngôi Lời có khả
năng đem sự sống đời đời này cho con người.
(3) Ngôi Lời là ánh sáng: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và
bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên
là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông
mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.”
Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian; ai tin Ta sẽ không đi
trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống” (Jn 8:12). Bóng tối đối
ngược với ánh sáng, và con người cần ánh sáng xua tan bóng tối để con người có
thể nhìn thấy; nhưng cũng có những con người muốn ở trong bóng tối nên muốn diệt
trừ ánh sáng, vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những tội lỗi của họ cho người khác
nhìn thấy.
3.2/ Phản ứng của con người: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh
sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” Ánh sáng của Ngôi Lời chính là sự thật
Ngài mang từ Thiên Chúa đến cho con người. Đứng trước sự thật, Thánh-sử Gioan
tường thuật 2 phản ứng chính:
(1) Không nhận biết và không tiếp nhận Người: “Người ở giữa thế
gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã
đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” Con người ít nhất hai lần từ
chối Ngôi Lời: Lần thứ nhất, Thánh Phaolô đồng ý với Gioan khi tố cáo: “Con người
phải nhận biết Thiên Chúa qua những gì Thiên Chúa tạo dựng, nhưng họ đã không
nhận ra Thiên Chúa” (Rom 1:19-20). Thiên Chúa tạo dựng qua Ngôi Lời, con người
chẳng nhận ra Ngôi Lời cũng chẳng nhận biết Thiên Chúa. Lần thứ hai là qua Mầu
Nhiệm Nhập Thể, rất nhiều người đã nhìn thấy Ngôi Lời, nhưng vẫn từ chối tiếp
nhận Ngài.
(2) Phần thưởng dành cho những ai tiếp nhận Người: “Còn những ai
đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên
con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn
của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.” Phần
thưởng trọng đại dành cho những ai tin vào Ngôi Lời là họ trở thành con Thiên
Chúa; và được hưởng tất cả mọi ơn lành dành cho người con.
3.3/ Những hồng ân Ngôi Lời ban cho con người: “Ngôi Lời
đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh
quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng
và sự thật… Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng
và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có.”
(1) Ân sủng:“Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã
lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.” Đức Kitô, tuy trong thân xác con người,
nhưng chứa đựng tất cả khôn ngoan, uy quyền, tình thương, và sự bình an của
Thiên Chúa (như các tên gọi của Ngài trong Thánh Lễ Nửa Đêm). Bất cứ ai có được
Ngài, là hưởng được tất cả những gì Ngài có. Ngài là sự tòan hảo của Thiên
Chúa, và Ngài ban cho con người đời sống thần linh của Ngài.
(2) Sự thật: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Người
Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người
đã tỏ cho chúng ta biết.” Ngôi Lời mặc khải cho con người biết sự thật về Thiên
Chúa và tất cả các ý định của Ngài. Khi Philip xin Chúa Giêsu cho thấy Thiên
Chúa, Đức Kitô bảo ông: “Ai đã xem thấy Thầy là đã thấy Cha” (Jn 14:9).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lịch sử rất quan trọng trong việc hiểu biết và củng cố niềm
tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Người không biết lịch sử sẽ dễ dàng chạy theo
những niềm tin mơ hồ. Nguy hiểm của những niềm tin này là con người không đạt
được mục đích của đời mình.
- Lịch sử của Do-Thái quan trọng cho niềm tin của các Kitô hữu,
vì Thiên Chúa đã chọn họ làm Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Chúng
ta cần học hỏi lịch sử của họ qua các Sách Cựu Ước để hiểu biết Kế Họach Cứu Độ
của Thiên Chúa cho con người.
- Theo Lịch sử Cứu Độ, Thiên Chúa đã dùng những cách thức khác
nhau để dạy dỗ con người: thời Cựu Ước, Ngài dùng các tiên-tri để nói thay và dạy
dỗ con người; thời Tân-Ước, Thiên Chúa cho Người Con nhập thể để dạy dỗ và mặc
khải rõ ràng Kế Họach Cứu Độ cho con người.
- Mọi người chúng ta đều cần được dạy dỗ bởi chính Người Con
này. Chúng ta phải có Đức Kitô trong cuộc đời để Ngài soi sáng, dạy dỗ, ban ơn,
và chỉ đường cho chúng ta về hưởng hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
25/12/15 ĐẠI LỄ GIÁNG SINH
Ga 1,1-5.9-18
Ga 1,1-5.9-18
Suy niệm: Lễ Giáng Sinh vốn là lễ Thần Mặt Trời của người ngoại giáo,
được Ki-tô giáo “rửa tội” để giới thiệu Đức Ki-tô, Ngôi Hai Thiên Chúa,
là “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên
Chúa thật bởi Thiên Chúa thật,” đã “vì
loài người chúng ta, và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế” (Kinh Tin Kính). Thiên Chúa, Ngài đã biểu lộ
tình yêu vàlòng thương xót cho một nhân loại tội lỗi và bất an, bất hạnh.
Chỉ có một Ánh sáng thật, cũng là Nguồn sáng thật. Ngoài ra chỉ là bóng đèn hay
bóng mờ, bóng tối. Về phía con người, bằng thái độ đức tin đón nhận Ánh sáng
thật này, sẽ được trở nên con cái Thiên Chúa, được giải thoát khỏi mọi tội lỗi,
sự dữ và bất an bất hạnh.
Mời Bạn: ‘Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng
chịu đón nhận’ (c.11). Thiên Chúa cao cả tuyệt đối muốn hạ mình đón nhận Bạn
như người nhà, để thứ
tha và thương xót như ‘người Cha đối với
con cái, chứ không như quan tòa đối với phạm nhân’ (ĐGH Phanxicô). Bạn có sẵn
sàng phó thác đời mình, kể cả tội lỗi, cho lòng từ biđó của Chúa không? Để được như vậy, bạn có nỗ lực cầu nguyện “xin
Chúa ban thêm Đức Tin” cho mình không?
Sống Lời Chúa: Trong cuộc họp mặt gia đình lễ Giáng Sinh hôm
nay, mọi người cùng có một quyết tâm chung cho Năm Thánh Lòng Chúa Thương
Xót để loại trừ những gì là nguy hại cho Đức Tin của gia đình mình.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa Hài Đồng Giê-su, xin ban thêm Đức Tin cho chúng con.
25 Tháng Mười Hai
Phép Lạ
Giáng Sinh
Hằng năm, cứ đến Giáng Sinh, Hài Nhi Giêsu thường đi một vòng rảo
qua khắp các làng mạc và đô thị để tặng quà cũng như nhận quà và phân phát cho
những ai cần đến.
Năm nay, tại một đô thị nọ, Ngài đang cần một món quà không dễ
tìm ra: đó là một quả tim lành mạnh để thay thế quả tim của một người bệnh đang
hấp hối.
Bệnh nhân có quả tim gần như ngừng đập này là một nhân vật nổi tiếng trong cả nước: đó là bộ trưởng tài chính!
Bệnh nhân có quả tim gần như ngừng đập này là một nhân vật nổi tiếng trong cả nước: đó là bộ trưởng tài chính!
Tất cả các bác sĩ trong nước đều bó tay. Cuối cùng, họ mới chạy
đến với Hài Nhi Giêsu, vì tin tưởng rằng ít ra trong đêm Giáng Sinh, Ngài sẽ
làm một phép lạ. Nhưng Hài Nhi Giêsu trả lời với các bác sĩ: "Không phải
Ta là người phải làm phép lạ, nhưng chính là lòng quảng đại của một người dâng
hiến quả tim của mình".
Tin tưởng ở lòng người, Hài Nhi Giêsu đã đến gõ cửa nhà của thân
nhân, bạn hữu của vị bộ trưởng. Họ đang mừng lễ Giáng Sinh: cây Giáng Sinh của
họ đầy những hoa đèn và quà tặng, bàn ăn của họ đầy những thịt rượu và của ngon
vật lạ. Họ đang ăn uống say sưa... Vừa thấy Hài Nhi đứng trước nhà, họ tưởng
Ngài là một cậu bé vô lại phá đám, cho nên đã tống khứ Ngài đi càng sớm càng tốt.
Hài Nhi Giêsu buồn bã bỏ đi... Nhưng Ngài vẫn chưa thất vọng về tình người. Lần này, Ngài đến gõ cửa của những người thân cận vị bộ trưởng. Họ là những người đã từng bán đứng lương tâm, chối bỏ phẩm giá của mình để tìm kiếm lạy lục một chút cặn bã của vinh hoa, lợi lộc phù phiếm. Hài Nhi Giêsu nghĩ thầm ít ra đây cũng là dịp để họ tỏ lòng biết ơn đối với ông bộ trưởng. Nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối, trái tim của họ đang hướng đến người sẽ lên thay thế ông bộ trưởng trong những ngày gần đây.
Hài Nhi Giêsu buồn bã bỏ đi... Nhưng Ngài vẫn chưa thất vọng về tình người. Lần này, Ngài đến gõ cửa của những người thân cận vị bộ trưởng. Họ là những người đã từng bán đứng lương tâm, chối bỏ phẩm giá của mình để tìm kiếm lạy lục một chút cặn bã của vinh hoa, lợi lộc phù phiếm. Hài Nhi Giêsu nghĩ thầm ít ra đây cũng là dịp để họ tỏ lòng biết ơn đối với ông bộ trưởng. Nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối, trái tim của họ đang hướng đến người sẽ lên thay thế ông bộ trưởng trong những ngày gần đây.
Hài Nhi Giêsu lại tiếp tục đi gõ cửa từng nhà, nhưng ai cũng
đang bận bịu với cuộc vui đêm Giáng Sinh.
Ngài đi, đi mãi trong đêm, để rồi mệt lả không còn lê bước nữa.
Ngài ngồi xuống bên vệ đường ven đô thị. Ngài đang miên man nghĩ đến tình người
thì bỗng dưới ánh đèn đường mờ ảo, một bóng đen thất thểu tiến lại gần Ngài.
Con người này xem chừng như không biết lễ Giáng Sinh là gì. Quần áo bẩn thỉu,
dáng đi ngập ngừng. Trên vai của anh đeo lủng lẳng một chiếc đàn vĩ cầm cũ kỹ.
Ðó là tất cả vốn liếng của một kẻ lãng tử. Vừa thấy em bé ngồi tiu nghỉu bên vệ
đường, anh mới dừng lại, lấy chiếc đàn ra và dạo lên những khúc nhạc du dương,
trầm buồn. Bản nhạh bỗng mang lại hy vọng cho Hài Nhi. Trên môi Ngài, một nụ cười
bé thơ cũng vừa hé mở. Con người lang thang phiêu bạt này, con người không có lấy
một mái nhà để nương náu, không có được một ngày lễ trong cuộc sống, không biết
được đêm nay là đêm Giáng Sinh: vậy mà con người ấy có được một trái tim quảng
đại sẵn sàng dâng hiến!
Hài Nhi Giêsu đến nắm tay anh, đưa anh vào bệnh viện. Tại đây, với
nụ cười tươi nở trên môi, anh để cho các bác sĩ khoét vào lồng ngực của anh để
lấy quả tim quảng đại của anh và đặt vào chỗ của quả tim đang thoi thóp của ông
bộ trưởng tài chính.
Cuộc ghép tim vừa chấm dứt, thì mọi người đã có thể chứng kiến
được phép lạ. Ông bộ trưởng với quả tim quảng đại và yêu đời của người lãng tử
đứng dậy khỏi giường và bắt đầu ca hát.
Ông đã ném đi quả tim chỉ biết rung động vì tiền của, để thay thế
bằng quả tim quảng đại biết ca hát, và sẵn sàng tự hiến cho người.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét