Trang

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

24-12-2015 : LỄ VỌNG VÀ LỄ NỬA ĐÊM GIÁNG SINH

24/12/2015

Ngày 25 Tháng 12 Lễ Chúa Giáng Sinh
Lễ Vọng


Bài Ðọc I:   Is 62, 1-5
"Ngươi đẹp lòng Chúa".
Trích sách Tiên tri Isaia.

Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi Ðấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Ðấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời.
Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Ðấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi. ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là "kẻ Ta ưa thích", và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa và đất ngươi sẽ có dân cư.
(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi cũng sẽ vui mừng vì ngươi.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca:    Tv 88, 4-5. 16-17. 27 và 29

Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời    (x. c. 2a).
Xướng: 

1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa,
Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng:
"Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi,
và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".

2) Phúc thay dân tộc biết hân hoan,
lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài.
Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa,
và tự hào vì đức công minh Ngài.

3) Chính người sẽ thưa cùng Ta:
"Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con".
Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái,
và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì.
 
Bài Ðọc II:    Cv 13, 16-17. 22-25
"Thánh Phaolô làm chứng về Chúa Kitô, con vua Ðavít".
Trích sách Tông đồ Công vụ.

Phaolô đến Antiôkia thuộc Pisiđia, vào hội đường, đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi nói: "Hỡi người Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây. Thiên Chúa Israel đã chọn Tổ phụ chúng ta, Người đã thăng tiến dân Người khi họ còn cư ngụ trong nước Ai-cập, và Người ra tay mạnh mẽ đưa cha ông chúng ta ra khỏi nước ấy.
"Sau khi loại bỏ Saolê, Chúa đã đặt Ðavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã phán: "Ta đã gặp được Ðavít, con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta".
"Bởi dòng dõi Ðavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ, Ðấng mà Gioan đã báo trước, khi ông đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành trình, ông tuyên bố: "Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người".
Ðó là lời Chúa.

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Ngày mai tội lỗi trần gian sẽ được xoá bỏ, và Ðấng Cứu Thế sẽ ngự trị trên chúng ta. - Alleluia.

Phúc Âm:   Mt 1, 1-25 (bài dài)
"Dòng dõi Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa ; Phares sinh (bởi bà Thamar) và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài vắn này:    Mt 1, 18-25
"Maria sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình: vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
Ðó là lời Chúa.

Lễ Nửa Ðêm


Bài Ðọc I:      Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3. 5-6)
"Chúa ban Con của Người cho chúng ta".
Trích sách Tiên tri Isaia.

Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian. [Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa.]
Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là "Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình". Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Ðavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca:   Tv 95, 1-2a. 2b-3. 11-12. 13

Ðáp: Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Ðức Kitô, Chúa chúng ta (Lc 2, 11).
Xướng: 

1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới,
hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu.
Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người.  

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ.
Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân,
và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.

3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan.
Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên.
Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui.
Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở.  

4) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới,
vì Người ngự tới cai quản địa cầu.
Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh
và chư dân cách chân thành.    

Bài Ðọc II:      Tt 2, 11-14
"Ân sủng của Chúa đã đến với mọi người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.

Ân sủng của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia:     Lc 2, 10-11

Alleluia, alleluia! - Ta báo cho anh em một tin mừng: Hôm nay Ðấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho chúng ta. - Alleluia.
 
Phúc Âm:      Lc 2, 1-14
"Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Ðấng Cứu Thế Ðã Ra Ðời
Hết thảy chúng ta hãy mở lòng đón nhận lời chúc mừng lễ Chúa Giáng Sinh, mà Thiên Chúa vừa gửi đến trong câu cuối cùng bài Tin Mừng. Phải có sự bình an của Chúa mới hiểu được ngày lễ hôm nay; và nhất là mới nhận được nhiều ơn của Chúa Giáng Sinh.
Thật vậy, chúng ta muốn mừng lễ này thật long trọng, nhưng vẫn phải đứng trước một máng cỏ nghèo nàn; Chúng ta muốn trang hoàng hang đá này thật lộng lẫy, nhưng vẫn thấy Chúa sinh ra thật đơn sơ. Dường như có một sự nghịch thường sâu sắc trong việc Chúa Giáng sinh và trong thánh lễ này. Và nếu không nhận được sự bình an của Chúa, lòng chúng ta không thể nào thấm thía được mầu nhiệm Giáng sinh.
Tuy nhiên cũng phải nói ngược lại, có hiểu được ý nghĩa của ngày lễ hôm nay, chúng ta mới đón nhận được lời chúc bình an quý hóa của Thiên Thần. Là vì đối với tất cả những việc có hệ đến Thiên Chúa phải có ơn Người giúp đỡ thì người ta mới hiểu được! Và khi hiểu được, người ta mới nhận được đầy đủ ơn của Người.
Thế nên chúng ta cầu xin ơn bình an của Chúa để nhờ các bài đọc Thánh Kinh tìm hiểu việc Chúa Giáng sinh; để rồi nhờ đó chúng ta được thêm ơn bình an là nguồn mọi ơn cao cả khác mà Chúa Giáng sinh muốn ban cho tất cả chúng ta trong dịp này.

1. Một Trẻ Ðã Sinh Ra
Chúng ta tự nhiên muốn nhìn thẳng vào hang đá máng cỏ để tìm hiểu việc Chúa Giáng sinh. Nhưng nếu làm như vậy, chúng ta sẽ liều chẳng nhìn thấy gì cả, hay chẳng nhìn được bao nhiêu. Cùng lắm, như một cái máy vô hình, mắt chúng ta sẽ thấy một hài nhi vừa sinh, được bọc trong khăn và nơi máng cỏ, có hai ông bà ở gần mà người ta nghĩ là cha mẹ hài nhi. Rồi có may mắn nhất thì người ta cũng chỉ còn xem thấy một đám mục đồng đến ngó xem cảnh tượng đản sinh khác thường này.
Phải, nếu không được hướng dẫn trước, người ta chỉ nhìn thấy có bấy nhiêu. Và cảnh tượng xem thấy sẽ gợi lên nhiều nhất vài cảm nghĩ tự nhiên hoặc thương hại một gia đình khó nghèo, hoặc có cảm tình với em bé vừa sinh. Chẳng có gì độc đáo và quan trọng lắm trong tất cả những điều đã mắt thấy, tai nghe và cảm nghĩ như vậy.
Nhưng nếu nhìn quang cảnh đản sinh kia trong tất cả lịch sử cứu độ, nếu đọc chuyện Ðức Giêsu giáng sinh trong toàn bộ Cựu và Tân Ước, chúng ta sẽ thấy mọi sự trở nên khác hẳn. Ðây vừa là kết quả của nhiều nghìn năm lịch sử chuẩn bị, vừa là khởi sự của nhiều thời đại về sau. Phụng vụ chọn lúc nửa đêm để cử hành thánh lễ này cũng có ý nói lên niềm tin ấy. Việc Ðức Giêsu Giáng sinh kết thúc đạo cũ và khai mạc đạo mới.
Thế nên chúng ta phải nhờ tiếng nói của đạo cũ dẫn tới hang đá máng cỏ và nhờ tiếng nói của đạo mới để nhận ra ý nghĩa của cuộc đản sinh này.
Hôm nay, tiếng nói của đạo cũ là một bài sách Isaia. Nhà tiên tri này sống trước sự kiện lịch sử chúng ta kính nhớ hôm nay những 600 năm. Thế mà lời của ông có vẻ rất thích hợp với việc đản sinh của hài nhi thành Bêlem. Sự thật, bấy giờ ông đang sống ở một thời đại rất bấp bênh của lịch sử dân Chúa. Nhiều tỉnh trong nước Do Thái đã bị đế quốc Assyri xâm chiếm và tàn phá. Dân chúng như phải đi trong tối tăm. Ở các tỉnh còn lại người ta lo sợ như đang sống trong sự hãi hùng của tử thần. Và triều đình Do Thái lúng túng cãi cọ chẳng biết nên cầu viện và liên minh với lực lượng ngoại bang nào.
Chính lúc đen tối sợ hãi ấy, nhà tiên tri đã lên tiếng. Ông chẳng nói gì khác niềm tin, niềm tin cổ truyền vào lòng trung tín của Thiên Chúa sẽ giữ lời giao ước. Người sẽ chẳng bỏ dân cho dù dân bất nghĩa. Tình trạng hiện nay cho thấy Người đang phạt họ, nhưng rồi Người sẽ thương, sẽ cứu. Bấy giờ, dân đi trong tăm tối đã nhìn thấy một ánh sáng lớn. Trên những kẻ ở xứ âm u, một ánh sáng đã rạng ngời.
Ðức tin của nhà tiên tri vững vàng đến nỗi, sự việc sẽ xảy đến trong tương lai mà ông như đã nhìn thấy rồi. Ông thấy ơn cứu độ đã đến cho dân Chúa đang tối tăm mặt mũi vì hoạn nạn đau khổ và đang hãi hùng trong tình hình âm u. Ơn cứu độ ấy như một ánh sáng lớn đến xua đuổi tối tăm và âm u. Hơn nữa đó là một Hoàng đế cứu tinh vĩ đại, vì người Ðông phương vẫn quen ví bậc vua chúa như mặt trời và ánh sáng.
Với sự xuất hiện của ánh sáng ấy và của vị Hoàng đế ấy, Chúa ban cho dân được niềm vui lớn, như khi được mùa và như khi đại thắng.
Biết rằng dân đang khao khát một cuộc chiến thắng, nhà tiên tri dừng lại ở đây để quảng diễn ơn Chúa cứu độ như một cuộc thắng trận chưa từng thấy. Không những mọi ách xâm lược, mọi thồ trên vai, một roi đốc công sẽ bị đập tan tành, mà giầy trận chiến bào sẽ bị đốt tàn rụi, để không bao giờ còn chinh chiến đổ máu nữa. Isaia đã dùng hình ảnh ngày chiến thắng quân Mađian kể trong sách Thẩm phán (c. 7-8) để so sánh vừa để nói lên tính cách đại thắng, vừa để khẳng định đó là việc do quyền năng Chúa làm cho kẻ yếu đuối khiêm cung. Hơn nữa, chiến thắng ở Mađian đã dẫn đến ý kiến muốn có một triều đại, một vị hoàng đế thay thế chế độ thẩm phán. Isaia hẳn đã muốn gợi lại câu chuyện này để giới thiệu vị Hoàng đế cứu tinh mà Thiên Chúa sẽ gởi đến cho dân, như trên kia ông đã dùng hình ảnh ánh sáng để nói đến nhà Vua sắp xuất hiện.
Là vì theo Isaia, Thiên Chúa sẽ giải cứu dân lần này nhờ một vị hoàng đế mới. Lời văn có vẻ mô tả việc đản sinh của Ngài vì tác giả viết: Một trẻ đã sinh ra cho ta... Vai Ngài, đỡ lấy quyền bính. Nhưng thật sự Isaia muốn nói đến ngày Ngài lên Ngôi, mà các dân Ðông phương vẫn coi là ngày sinh ra một triều đại, một vị vua mới. Và cũng chính trong ngày lên ngôi báu mà nhà Vua công bố tước hiệu Ngài đã chọn. Ở đây, Isaia gán cho vị hoàng đế cứu tinh mọi danh xưng quý hóa nhất đối với lòng người dân Chúa. Ngài là Mưu sư kỳ lạ, vì có khôn ngoan siêu việt như Salômon; Ngài là Thần anh hùng vì có sức mạnh siêu phàm như Ðavít; Ngài là Cha đời đời, như chính Thiên Chúa. Ngài là Vua bình an như Ðấng Thiên Sai muôn dân trông đợi.
Chúng ta có thể tự hỏi: sao Isaia không nói thêm một danh xưng nữa cho đủ năm danh xưng theo kiểu các Hoàng đế Ai Cập thời bấy giờ? Hay là ông muốn nhắc chúng ta nhớ lại điều ông đã viết trước đây trong chương 7. Trẻ đã sinh ra cho ta đó có tên là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Dù sao những điều ông viết tiếp theo về vị hoàng đế cứu tinh có quyền bính bao la và bình an vô tận trên ngai Ðavít, cũng như làm cho đất nước được kiên cố nhờ công minh đức nghĩa đến muôn đời, làm chúng ta nghĩ rằng vị hoàng đế phải siêu phàm, gần như, nếu không phải là giống như Thiên Chúa.
Như vậy, bài tiên tri Isaia hôm nay ít nhất đã loan báo cho chúng ta biết: trẻ sinh ra cứu đời sẽ là một vị hoàng đế mới, đến chấm dứt chiến tranh đau khổ và thiết lập thời đại hòa bình đức nghĩa. Chắc chắn chẳng một vị vua Do Thái nào đã tỏ ra xứng đáng với lời tiên tri ấy. Và do đó, dân Cựu Ước đã đặt tất cả hy vọng vào Ðấng Thiên Sai cứu thế sau này. Hôm nay, Hội Thánh chúng ta nói rằng Ngài đã đến nơi hài nhi thành Bêlem. Có thể như vậy được không. Trẻ mới sinh được bọc trong khăn đặt nằm nơi máng ăn của súc vật là hoàng đế cứu tinh ư? Bề ngoài không thể như vậy, nhưng thật sự lại là thế. Ðó là điều mà bài Tin Mừng Luca hôm nay muốn khẳng định với chúng ta. Chúng ta hãy tìm hiểu.

2. Ðấng Cứu Thế Ðã Ra Ðời
Bản văn được cấu tạo với hai phần rõ rệt. Phần đầu như mô tả một cách chân thực việc sinh ra khó nghèo của hài nhi; còn phần sau nói đến vinh quang cao cả của Ngài. Những ai quen đọc Thánh Kinh có thể thấy ngay đó cũng là một lối trình bày mầu nhiệm Tử nạn và phục sinh. Và nhà thần học thâm thúy có thể nói rằng tác giả Luca đã muốn diễn tả bản tính nhân loại và bản tính Thiên Chúa nơi hài nhi vừa sinh.
Câu mở đầu rất ý nghĩa: "Trong những ngày ấy, Hoàng đế Augustô ra sắc chỉ ban hành lệnh kiểm tra toàn thể thiên hạ". Dĩ nhiên Luca muốn tỏ ra mình là một sử gia, viết chuyện có niên hiệu chắc chắn. Nhưng không phải vô cớ mà ông đã không viết đích danh Hoàng đế là Octavô, mà chỉ ghi tước hiệu của Ngài là Augustô, một danh xưng xực mùi tự phụ coi mình là thiên tử. Luca muốn nói rằng bấy giờ thiên hạ chỉ biết Hoàng đế là nhất, không còn ai trên Ngài nữa. Ngài đang ra lệnh cho toàn thể thiên hạ. Luca quá biết, đế quốc La Mã cho dù rất lớn vẫn không phải là cả thiên hạ. Và lệnh kiểm tra cũng chỉ hạn chế trong một số tỉnh nào thôi. Nhưng Luca muốn cho chúng ta một ấn tượng: thế giới bấy giờ đang ở dưới quyền một người. Quyền bính của ông thật lớn, đến nỗi ông tưởng mình là Augustô (thiên hoàng). Và như vậy hài nhi sắp sinh sẽ là gì ở trong thế giới và ở trước mặt vị hoàng đế ấy?
Trẻ mới sinh chẳng là gì cả, chúng ta có thể nói được như vậy. Ðến như cha mẹ hài nhi cũng thế. Giuse bấy giờ chỉ là người thuộc xứ Galilê ở Nazaret, là những địa danh chỉ gợi lên lòng khinh bỉ của người Do Thái vì đó là những nơi đầy dân ngoại khác hẳn với xứ Giuđê thành Giêrusalem là các trung tâm của tôn giáo mạc khải. Còn ai biết Giuse là dòng họ Ðavit và có gốc gác ở Bêlem nữa? Maira chỉ là một bà đang thai nghén trên đường về quê khai lý lịch. Hai người đã không tìm được chỗ trọ trong quán; mà buổi lâm bồn của Maria thì đã đến. Họ phải đưa nhau ra một hang súc vật ngoài đồng vắng. Và sinh con rồi, Maria bọc trẻ đem đặt nơi máng ăn của súc vật, báo trước sau này lớn lên Ðức Giêsu sẽ chẳng có nơi gối đầu.
Chúng ta chẳng cần đi thêm vào chi tiết. Rõ ràng hài nhi đã sinh ra rất khó nghèo. Chưa ai đã sinh ra trong một hoàn cảnh như thế. Gioan Tẩy Giả vị tiền hô của Chúa, đã ra đời trong cảnh "trướng rũ màn che" hạnh phúc hơn nhiều. Ấy là chưa kể cái lịnh kiểm tra của Hoàng đế, diễn tả uy quyền của ông, như đang đè xuống nơi máng cỏ nghèo hèn này.
Tuy nhiên trên nền ảnh mờ tối kia của cảnh hang đá máng cỏ, Luca cũng đã điểm những chấm sáng không thể bỏ qua. Ðó là dòng máu Ðavit trong con người Giuse; là tư cách "đính hôn" của Maria, tức là sự cưu mang đồng trinh của Người; và là điểm Con đầu lòng nói về hài nhi. Luca quá biết hài nhi là Con Một của Maria; nhưng từ ngữ "Con Một" đã có một công dụng khác trong ngữ vựng Kitô giáo. Nó dùng để nói Chúa Giêsu là Con Một của Thiên Chúa. Ở đây Luca dùng kiểu nói "Con đầu lòng" để làm âm vang truyền thống đạo đức của Thánh Kinh, bởi vì nơi dân Do Thái, mọi con đầu lòng đều thuộc về Chúa để nhớ ơn Người đã cứu con cái Israen khi các con đầu lòng của người Ai Cập bị sát hại. Ðàng khác từ ngữ "Con đầu lòng" còn dùng để nói về toàn thể dân Chúa là con đầu lòng giữa mọi dân nước mà Chúa đã dựng nên. Nó cũng gợi đến mầu nhiệm phục sinh sau này vì Chúa sống lại là "trưởng tử" giữa các vong nhân.
Và như vậy trong cuộc đản sinh khó nghèo nơi máng cỏ, đã có những điểm sáng lớn chờ ngày rực lên át hẳn vẻ huy hoàng của thế gian, biểu hiện nơi uy quyền của hoàng đế Augustô trong câu chuyện này.
Tác giả Luca hôm nay muốn báo trước thời đại rực rỡ của Hài nhi trong phần sau của bài tường thuật. Thiên Thần Chúa bỗng đã hiện đến bên đám mục đồng đang canh giữ chiên lúc đêm khuya. Lập tức họ được bọc trong ánh sáng của vinh quang Chúa. Sự cao cả của Người đã "chụp" lấy họ khiến họ hãi hùng, không phải sự hãi hùng làm họ có thể chết đi, nhưng là sự hãi hùng kéo họ ra khỏi nếp sống tầm thường và đưa họ lên thế giới siêu việt. Thế nên họ đã được trấn an tức khắc: "Ðừng sợ, này ta đem tin vui cho các ngươi về một niềm vui to lớn, tức là niềm vui cho toàn dân..." Trong ngôn ngữ của Thánh Kinh, những lời này chỉ được dùng để loan báo ơn cứu độ.
Quả vậy, niềm vui cho toàn dân chỉ có thể là sự giải cứu mà các tiên tri từng loan báo, là lời hứa mà bài sách Isaia trên kia chẳng hạn khẳng định rằng sẽ thực hiện trong ngày Chúa viếng thăm dân Người. Hôm nay, niềm vui ấy đã đến vì Cứu Chúa đã sinh ra. Ngài là Ðức Kitô Chúa. Ngài vừa sinh trong thành của Ðavít.
Ðám mục đồng có hiểu được những lời ấy không? Hài nhi được giới thiệu không những là Cứu thế và là Kitô, những danh xưng đã quen thuộc trong Cựu Ước; nhưng còn là Chúa nữa. Danh xưng này phải đợi sau mầu nhiệm Phục sinh - Lên trời - Hiện xuống mới gặp thấy nơi các tín hữu của Chúa Giêsu. Họ chúc tụng Ngài là Kitô và là Chúa. Họ tuyên xưng Ðức Kitô bây giờ là Chúa ở bên hữu Thiên Chúa Cha. Và với danh hiệu này, Ngài vượt trên hết mọi loài dưới đất và trên trời. Tước hiệu Augustô bấy giờ còn có nghĩa gì nữa đâu!
Sự cao cả của Hài nhi là ở chỗ đó. Ngài là Chúa, tức là Thiên Chúa. Thiên Thần đã công bố tước hiệu của Ngài ngay hôm nay khi Ngài sinh ra; chứ không như Octavô phải đợi đến khi chinh phục được cả thiên hạ rồi lên ngôi hoàng đế và bắt người ta phải xưng tụng mình là Augustô cũng có nghĩa là chúa. Ông lạm quyền, vì ông cũng chỉ là phàm nhân. Ðang khi hài nhi thành Bêlem, tuy quấn trong khăn, nằm nơi máng cỏ đã là Chúa từ bẩm sinh và từ bản tính. Tước hiệu hoàng đế chỉ theo sau xa xa vậy, khi người ta hiểu theo nghĩa thông thường Ngài thuộc dòng Ðavít.
Trái lại, vì là Chúa và chia sẻ quyền Thiên hoàng của Chúa Cha, Ngài được các thiên thần hợp đoàn đông đảo chúc tụng.
"Vinh quang Thiên Chúa trên trời cao thẳm. Và dưới đất bình an cho kẻ Ngài thương".
Ngài đến ban bình an cho mọi người dưới đất để ứng nghiệm sách Isaia chúng ta đã nghe đọc.
Như vậy, bài Tin Mừng Luca nói lên niềm tin sâu xa của cả Hội Thánh khi đứng trước hang đá máng cỏ. Bề ngoài mọi sự thật bình dị, khó nghèo và khổ sở nữa dưới sức mạnh của thế gian; nhưng rõ ràng đây là trẻ thánh mà Isaia đã tiên báo sẽ đem bình an đến cho mọi người. Các Tông đồ của Người không bao giờ phải sợ rao giảng Mầu nhiệm Thập giá; vì cũng như Luca hôm nay đã thấy vinh quang cao cả của Thiên Chúa đến ngay sau cảnh tượng đản sinh khó nghèo, thì sức mạnh của Chúa Phục sinh sẽ tỏ hiện trong sứ điệp thập giá. Luca đã dùng chữ "hôm nay" để nói rằng lúc này Chúa Cứu Thế còn đến với chúng ta và việc Giáng sinh của Ngài hiện tại vẫn có sức mạnh cho những ai đón nhận Ngài.
Vậy, làm thế nào để hằng ngày vẫn nhận được ơn Ngài giáng sinh? Có lẽ bài thư gởi Titô có thể đem lại cho chúng ta một câu trả lời.

3. Chúng Ta Phải Ngóng Ðợi Cuộc Hiển Linh Của Chúa
Thánh Phaolô tác giả bài thơ đã quá biết: Ân sủng cứu độ của Thiên Chúa đã hiển linh cho mọi người rồi trong cuộc đản sinh và trong cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô. Nhưng Người cũng biết rõ: Cuộc hiển linh ấy mới chỉ khởi sự. Nó còn phải đi tới chỗ vinh quang lớn lao trong ngày Chúa trở lại. Bây giờ chúng ta mới biết Ðức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và đã thí mình vì ta để cứu chuộc ta khỏi mọi tội ác và tẩy rửa lấy cho mình một dân làm sở hữu là Hội Thánh; nhưng chúng ta chưa được thấy Ngài trong vinh quang Chúa Cha. Thế nên chúng ta phải ngóng đợi... Không phải một cách thụ động nhưng tích cực. Chúng ta phải nhìn vào cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô để có thái độ đẹp lòng Ngài lúc Ngài lại đến. Thế mà Ngài đã dạy chúng ta từ bỏ lối sống vô đạo thất nghĩa với Thiên Chúa và lối sống chạy theo các đam mê trần tục, để sống điềm đạm, công chính và đạo đức nơi đời này. Do đó, chúng ta hãy biết chế ngự các đam mê để được điềm đạm; sống bác ái để nên công chính và thi hành đạo đức để đẹp lòng Chúa. Có như vậy chúng ta mới khỏi tội lỗi và được ở trong dân thánh sở hữu của Ngài để có ngày nhận được hy vọng hồng phúc Ngài hứa ban là nhìn thấy vinh quang lớn lao của Ngài mà ánh sáng đêm nay mới khởi sự...
Như vậy, chiêm ngưỡng Chúa Giáng sinh hôm nay, chỉ là để nhìn thấy nếp sống và đường lối của Người mà đi theo. Hơn nữa tham dự thánh lễ này là để rước Người vào giáng sinh ở nơi tâm hồn và đời sống chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ biết sống như Người. Và như thế để sau cuộc đời trần gian, bề ngoài có vẻ khó nghèo và khổ đau nhưng có ơn Người làm sức mạnh, chúng ta sẽ đi tới ngày hiển linh, vinh quang lớn lao của Người và của chúng ta. Bởi vì hôm nay Người đã giáng sinh là để kết hợp với những ai đón nhận Người và đưa họ tới vinh quang cao cả của Người đã có từ muôn thuở với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Lễ Giáng sinh hôm nay vì thế chỉ là khởi đầu... Chúng ta hy vọng sẽ được cùng nhau đạt tới lễ rực rỡ huy hoàng vô tận sau này.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 24 tháng 12 GS, Lễ Nửa Đêm
Bài đọc: Isa 9:1-3, 5-6; Tit 2:11-14; Lk 2:1-14.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng Giáng Sinh là tình yêu Thiên Chúa.
- Một cụ già 93 tuổi, được coi là khá thành công trong cuộc đời: có nhiều của cải, con đàn cháu đống gần 100 đứa. Về già, có nhiều thời gian nhìn lại và suy gẫm, cụ ngậm ngùi kết luận: Vất vả ngược xuôi cả cuộc đời cũng chẳng đến đâu, có tí của ăn nhưng nhìn lại đàn con đàn cháu thấy giật mình. Đứa thì gia đình tan nát, đứa thì bệnh họan, hầu hết con cháu đều xa Chúa, cố gắng khuyên lơn bảo ban nhưng chúng nó không chịu nghe. Nếu Chúa không thương đưa con cháu trở lại thì chết mất! Chẳng biết sau này Chúa cho gặp được bao nhiêu người? May mắn cho cụ già đã nhìn ra bóng tối đang vây bọc gia đình, nhưng làm sao để đưa các con cháu về lại với Thiên Chúa?
- Hòan cảnh của cụ già có lẽ cũng là hòan cảnh của hầu hết gia đình chúng ta. Khi được may mắn định cư nơi các cường quốc có nhiều cơ hội, chúng ta lăn xả vào đời để kiếm tiền sinh sống, mà không bao giờ chịu cân nhắc những thiệt hại của lối sống tư bản này. Nhiều cha mẹ đã không quản ngại hy sinh vất vả để cày 2,3 việc; với hy vọng cho con được tiến thân trong việc học hành, với hy vọng sau khi đã hy sinh cho con sẽ được chúng báo hiếu sau này, như mình đã từng thương yêu và báo hiếu cha mẹ. Sau hơn 30 năm vật lộn với cuộc sống nơi xứ lạ quê người, giờ có thời gian nhìn lại những cố gắng của mình như cụ già, chắc nhiều người chúng ta cũng không khỏi giật mình: gia đình có của nhưng con cái xa Chúa và xa mình vạn dặm. Con cái bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, làm rất nhiều tiền nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến việc phải báo hiếu cha mẹ; dạy dỗ khuyên răn chúng khó chịu và chỉ để ngòai tai. Chúng ta cũng chép miệng thở than như cụ già: Hy sinh vất vả cả đời để giờ phải chấp nhận một thực tại chúng ta không ao ước!
- Câu hỏi được đặt ra: Chúng ta đã làm điều gì sai? Làm thế nào để cứu chúng ta và con cháu ra khỏi vùng bóng tối sự chết này?
- Câu trả lời: Chúng ta đã không đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự. Chúng ta coi trọng tiền của nên đã dùng quá nhiều thời giờ vào việc kiếm tiền, mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Các con không thể làm tôi cả Thiên Chúa lẫn tiền tài.” Chúng ta đã xao lãng trong việc trau dồi đời sống tâm linh mà chỉ chú trọng đến thức ăn của uống, mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Chúng ta đã chạy theo và thờ lạy những hào nhóang thế gian như danh vọng, quyền bính, khóai lạc; mà quên đi Lời Chúa sửa dạy ma quỉ: “Ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa thờ phượng ngươi.” Nói tóm, chúng ta đã không sống theo những gì Thiên Chúa muốn, nhưng sống hệt theo lối sống của ma quỉ đã cám dỗ Thiên Chúa. Nếu chính chúng ta không sống những gì Chúa dạy, làm sao chúng ta mong các con chúng ta biết sống? Nếu chúng ta đã không dạy cho con biết kính sợ Thiên Chúa, và gia đình đã không sống theo đường lối của Thiên Chúa; chúng sẽ sống theo kiểu của xã hội hiện nay: ích kỷ chỉ biết tới mình, tôn thờ vật chất, sống buông thả như không có ngày mai.
- Tin Mừng Giáng Sinh: Những Bài đọc đêm nay cung cấp cho chúng ta những tia sáng hy vọng. Trong Bài đọc I: Tiên-tri Isaiah tường thuật những lợi ích khi con người có được Đấng Cứu Thế: Ngài như ánh sáng soi cho con người đang sống trong vùng bóng tối của sự chết. Ngài giúp giải thóat con người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi. Ngài ban cho con người khôn ngoan, sức mạnh, thương yêu, và bình an. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô dạy Titô, môn đệ của ngài: Ân sủng Cứu Độ dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Chúa Giêsu đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân Riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện. Trong Phúc Âm, Tin Mừng Giáng Sinh được loan báo cho con người: Con Thiên Chúa đã giáng sinh làm người trong hang đá khó nghèo. Chỉ có Mục đồng là những người đầu tiên được sứ Thần loan báo và nhận ra Tin Mừng Cứu Độ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được thực hiện qua Người Con.
1.1/ Sự khác biệt khi Đấng Cứu Thế đến: Ngay trong tuần thứ I Mùa Vọng, Giáo Hội đã mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra sự khác biệt giữa người có và không có Thiên Chúa. Tiên-tri Isaiah hôm nay cũng mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra tình trạng của mình và sự cần thiết của Đấng Cứu Thế trong cuộc đời mỗi người, qua 2 hình ảnh:
(1) Ánh sáng và bóng tối: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” Tình trạng của dân Do-Thái thời Tiên-tri và tình trạng của con người trước khi Đấng Cứu Thế đến là hòan tòan bi quan và tăm tối. Hai vương quốc của Do-Thái sắp sửa bị quân thù Assyria và Babylon xâm chiếm và đem đi lưu đày. Con người bị bao quanh bởi bóng tối của sự không biết Thiên Chúa, không biết suy xét, và bao nhiêu tội lỗi lan tràn. Hậu quả tai hại nhất của việc sống trong bóng tối là con người chắc chắn sẽ phải chết.
Nhưng may mắn cho dân tộc Do-Thái và cho con người, Thiên Chúa đã ban cho họ một ánh sáng, Người Con của Ngài. Ánh sáng này sẽ làm cho con người được thấy, được thấu hiểu những Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, và nhất là mang lại Ơn Cứu Độ cho con người, cho họ được sống đời đời.
(2) Vui mừng và đau khổ: Hình ảnh thứ hai Tiên-tri dùng là liên kết ánh sáng với vui mừng và bóng tối với đau khổ: “Vì Chúa đã gia tăng các quốc gia, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt hái, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Median.”
Chúng ta có thể hiểu nỗi đau khổ của dân Do-Thái trong nơi lưu đày: mất quê hương, gia đình tan nát, Đền Thờ và sự hiện diện của Thiên Chúa không còn, cuộc sống thiếu thốn và khổ cực, bị đối xử tàn bạo bởi kẻ thù. Tất cả những đau khổ này sẽ được Thiên Chúa cất hết khi Ngài cho họ được trở về quê hương để tái thiết quốc gia và Đền Thờ. Tất cả những điều này là do Thiên Chúa làm, chứ không do sức lực của con người. Tiên-tri nhắc nhở cho dân nhớ lại chiến thắng tại Median, Thiên Chúa muốn Thủ-lãnh Gideon đuổi quân lính về hết, kẻo họ nghĩ rằng sở dĩ có chiến thắng là do sức mạnh của họ.
Thiên Chúa gia tăng các quốc gia và nỗi vui mừng bằng cách loan Tin Mừng cho Dân Ngọai và cho họ cũng được hưởng Ơn Cứu Độ. Cả dân Do-Thái cũng như Dân Ngọai không làm gì xứng đáng để được hưởng Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội. Sở dĩ tất cả đều được hưởng Ơn Cứu Độ là hòan tòan do Thiên Chúa.
1.2/ Con người Đấng Cứu Thế: “Vì một trẻ thơ đã được sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho ta. Người đã lãnh nhận quyền cai trị (arché) trên vai, tên của Người sẽ được gọi là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa uy quyền, Người Cha muôn thuở, Hòang Tử hoà bình.” Tên là người; những danh hiệu này cần được hiểu thấu đáo để chúng ta ước mong có được Người Con này trong cuộc đời:
(1) Cố Vấn kỳ diệu: Người cố vấn phải là người khôn ngoan, có khả năng nhìn thấy những gì người khác không nhìn thấy. Người Con này là người Cố Vấn kỳ diệu cho con người, vì Ngài là Thiên Chúa khôn ngoan: cố vấn cho mọi người và chẳng cần ai làm cố vấn cho Người. Nếu có người cố vấn như vậy trong cuộc đời, chúng ta sẽ không khiếp sợ ai nữa.
(2) Thiên Chúa uy quyền: Tuy dáng vẻ là con người yếu đuối, nhưng ẩn chứa quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Người Con này làm được mọi sự, và không có gì là không thể đối với Ngài. Nếu chúng ta có Ngài trong đời, Ngài sẽ giúp chúng ta làm được mọi sự.
(3) Người Cha muôn thuở: Bản tính của người cha là yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc cho con cái. Người Con này là Thiên Chúa, Người Cha muôn thuở của con người. Bằng việc nhập thể, chính Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc từng người. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tiên tri để dạy dỗ; trong Tân Ước, chính Thiên Chúa dạy dỗ con người.
(4) Hòang Tử bình an: Để có bình an, người lãnh đạo phải yêu mến bình an, và phải có khả năng đem lại bình an. Người Con này có khả năng hòa giải giữa con người với con người, và giữa con người với Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người có được Hòang Tử bình an này, con người mới thực sự có bình an.
1.3/ Triều đại của Đấng Cứu Thế: “Quyền cai trị của Ngài sẽ gia tăng, và hoà bình sẽ vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua David. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng công bình và chính trực, từ nay cho đến mãi muôn đời. Lòng nhiệt thành của Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó.”
- Trong khi các vua chúa trần gian gia tăng quyền cai trị của họ bằng chiến tranh; Người Con gia tăng vương quốc của mình bằng hòa bình. Điều này, chúng ta có thể thấy được qua sự phát triển của Giáo-hội: con số những người tin vào Đức Kitô mỗi ngày một gia tăng, không bằng chiến tranh, nhưng bằng sự rao giảng Tin Mừng và sự làm việc bên trong của Chúa Thánh Thần. Vua chúa trần gian càng bách hại Đạo, số tín hữu càng gia tăng. Nước Thiên Chúa không còn giới hạn trong dân tộc Do-Thái, nhưng được lan rộng ra tới mọi dân tộc trên địa cầu.
- Tiên-tri Isaiah liên kết giữa triều đại của David và của Người Con. Như lời Thiên Chúa hứa qua các Tổ-phụ và các Tiên-tri, triều đại của Nhà David sẽ tồn tại muôn đời. Điều này chỉ thực hiện được qua Người Con thuộc giòng dõi David, Ngài sẽ làm cho triều đại David được tồn tại đến muôn đời.
- Trong khi các vua chúa trần gian củng cố vương quốc của mình bằng đàn áp và bạo lực, Người Con củng cố vương quốc bằng công bình và chính trực. Đàn áp và bạo lực chỉ có thể giữ dân chúng một thời gian; công bình và chính trực sẽ thu hút lòng dân đến muôn đời (Lk 1:32-33).
- Tác nhân chính của sự gia tăng là Thiên Chúa và lòng nhiệt thành yêu thương của Ngài, chứ không do đức độ, tài năng, hay sức mạnh của con người. Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã ban Người Con này cho con người (Jn 3:16); và trong Người Con này, mọi lời hứa được thực hiện.
2/ Bài đọc II: Ơn Cứu Độ thay đổi đời sống luân lý của các Kitô hữu
2.1/ Ơn Cứu Độ giúp con người biết sống: Con người làm bất cứ một việc gì đều có một mục đích. Khi các Kitô hữu biết rõ ràng mục đích của cuộc đời là “trông chờ ngày hồng phúc, ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang;” họ sẽ phải biết chuẩn bị xứng đáng cho ngày đó. Thánh Phaolô khuyên các Kitô hữu: (1) Cách tiêu cực: Họ phải từ bỏ lối sống thế gian và những đam mê trần tục; vì lối sống này ngăn cản không cho họ đạt tới mục đích của cuộc đời. (2) Cách tích cực: Họ phải biết sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này. Những nhân đức này sẽ giúp họ đạt được mục đích của cuộc đời.
2.2/ Ơn Cứu Độ giải thóat con người: Bằng Mầu Nhiệm Nhập Thể, Đức Kitô giải thóat con người: (1) cách tiêu cực: khỏi mọi điều bất chính (tội lỗi); cách tích cực: biến họ thành người hăng say làm việc thiện. Chính sự tích cực này làm con người xứng đáng thành Dân Riêng của Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta.
3.1/ Hòan cảnh sinh ra của Đấng Cứu Thế: Không giống như các biến cố khác của cuộc đời Chúa Cứu Thế, biến cố sinh ra chỉ được tường thuật bởi Thánh sử Luca cách vắn tắt như sau: “Thời ấy, Hoàng-đế Augusto ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quirinô làm tổng trấn xứ Syria. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nazareth, miền Galilee lên thành vua David tức là Bethlehem, miền Judah, vì ông thuộc giòng tộc vua David. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.”
Khỏang cách từ Nazareth đến Bethlehem là 80 dặm, và phương tiện di chuyển duy nhất thời đó là đi bộ hay dùng các thú vật như bò lừa. Bethlehem rất lạnh vào mùa Đông vì là một cánh đồng chỉ cách Jerusalem vài dặm và có rất nhiều các hang đá ẩn sâu trong lòng đất, vẫn còn tồn tại tới hôm nay. Các hang đá này là chỗ lý tưởng cho các người chăn chiên vì họ có thể giữ chiên trong đó an tòan và tránh lạnh mà không cần chuồng.
3.2/ Thiên Thần loan Tin Mừng trọng đại cho các mục-đồng.
Mục-đồng (Bedouins) vẫn còn tồn tại ở Do-Thái cho tới ngày nay. Họ không thích lối sống thành phố hay cố định ở một chỗ; nhưng thích lang thang khắp đó đây theo đòan vật, chỗ nào có cỏ và nước cho súc vật họ sẽ định cư tại đó. Họ bị các người Do-Thái khác khinh thường vì bẩn thỉu và không thể giữ các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn.
Tại sao các mục đồng được diễm phúc là những người đầu tiên biết Tin Mừng Giáng Sinh của Hài Nhi Cứu Độ? Để trả lời, chúng ta cần hỏi câu hỏi ngược lại: Ai là người sẽ dễ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh nhất trong hòan cảnh này?
Mối Phúc thứ nhất: “Phúc cho những ai nghèo khó vì Nước Trời là của họ” sẽ giúp chúng ta trả lời. Thiên Chúa chọn cho con mình giáng sinh trong hòan cảnh nghèo khó, chứ không trong dinh thự giàu sang. Người muốn con mình cảm nhận thân phận cùng cực của kiếp người. Vì sinh ra trong hòan cảnh nghèo hèn như thế, chỉ có những người nghèo như các mục-đồng mới có thể nhận ra và cảm thông, vì Con Trẻ cùng một hòan cảnh như họ. Hơn nữa, người nghèo khổ là người biết trông cậy vào Thiên Chúa, chứ không cậy vào sức của họ; vì thế, dễ cho họ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh hơn. Lời ca của muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" cũng củng cố cách cắt nghĩa này. Thiên Chúa đóai thương và nhìn đến kẻ khó nghèo.
Tin Mừng Giáng Sinh được Sứ thần loan báo cho các mục-đồng: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ."

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã quá yêu thương nhân lọai. Chúng ta phải cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Mục đích của Mầu Nhiệm Nhập Thể là để gánh tội lỗi và mang Ơn Cứu Độ cho con người. Không có Mầu Nhiệm Nhập Thể, con người sẽ chết trong tội.
- Món quà Giáng Sinh quí giá nhất Thiên Chúa ban cho chúng ta là chính Chúa Giêsu; qua Người Con này, chúng ta sẽ không thiếu bất cứ ân huệ cần thiết nào của cuộc sống. Chúng ta phải đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm sao cho có và giữ được Chúa Giêsu trong cuộc đời.
- Ơn Cứu Độ phải trở thành đích điểm cho cuộc sống. Chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này.
- Thiên Chúa là Chủ Tể của vũ trụ, mà lại chọn sinh ra trong cảnh khó nghèo để dạy chúng ta một bài học: Sống đơn giản và nghèo khó làm chúng ta dễ dàng trông cậy vào Thiên Chúa và nhận ra những nhu cầu của tha nhân hơn.
- Mong sao cho Tin Mừng Giáng Sinh hôm nay giải thóat các gia đình chúng ta ra khỏi vùng bóng tối sự chết, và đưa chúng ta vào miền ánh sáng, bình an, và hoan lạc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

24/12/15 THỨ NĂM TUẦN 4 MV
Vọng lễ Chúa Giáng Sinh
Mt 1,18-25

Suy niệm: Ngôi Hai Thiên Chúa làm người để làm gì? - Phải chăng Ngài đến trần gian để mang cơm bánh cho loài người? Không, vì trước khi Ngài sinh ra, loài người đã có cơm bánh, và sau khi Ngài sinh ra, hơn 2000 năm nay, con người vẫn thiếu cơm bánh. – Phải chăng Ngài mang văn minh và khoa học kỹ thuật đến cho nhân loại? Cũng không, vì trước đó, một số quốc gia đã có  khoa học kỹ thuật cao như Ai Cập với những kỳ quan Kim Tự Tháp, hay nền văn hóa rực rỡ như Ấn Độ, Trung Quốc. Vậy thì Con Thiên Chúa đến trần gian để đem lại một điều mà con người không thể tự mình làm được, đó là ơn cứu độ, sự giải thoát. Tội lỗi, sự chết, sự dữ là những xiềng xích trói tay cột chân con người, chỉ có Thiên Chúa mới giải phóng cho con người, đem lại hạnh phúc bất tận cho con nguời.
Mời Bạn: Nhớ rằng Con Thiên Chúa không nhọc công làm người để đem lại điều con người tự mình có thể làm được. Ghi nhớ điều này sẽ giúp bạn trân trọng Chúa Giê-su và ơn cứu độ Ngài ban tặng cho bạn.
Chia sẻ: Năm 1995, người ta đã dựng một cây No-en bằng bạc khối, treo 153 viên kim cương, trị giá 3 triệu đô la. Mừng lễ Giáng Sinh, bạn không cần cây No-en, bạn có thể dâng lên Chúa Hài Đồng điều gì đẹp lòng Ngài hơn cả? Phải chăng đó là tâm hồn bạn và nỗ lực mỗi ngày trở thành máng cỏ Chúa ngự.
Sống Lời Chúa: Chia sẻ món quà vật chất cụ thể cho người nghèo với tâm tình yêu mến Chúa hiện diện nơi họ.
Cầu nguyện: Quỳ trước hang đá và sốt sắng hát bài “Hát khen mừng Chúa…”


Suy niệm LỄ ĐÊM GIÁNG SINH NĂM 2015

Hôm nay, không chỉ những người Công giáo mà cả thế giới đang hướng về Đức Giêsu Kitô, mừng ngày sinh nhật lần thứ 2015 của Ngài. Trong bầu khí linh thiêng này, xin được trình bày ba điểm sau đây: Đức Giêsu Kitô là ai? Ngài đến thế gian để làm gì? Và con người có cần đến Ngài không?

1. Trước hết, Đức Giêsu Kitô là ai?

Đức Giêsu Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Ngài đầu thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Ngài được sinh ra tại Bêlem, nước Do Thái cách đây 2015 năm. Cha nuôi Ngài là Thánh Giuse. Mẹ Ngài là Đức Maria. Sau ba mươi năm sống ẩn dật, làm nghề thợ mộc tại làng quê Nazarét, Ngài đã lên đường đi loan báo Tin mừng. Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền. Đi kèm theo những lời giảng dạy là những phép lạ. Cuối cùng, Ngài bị bắt và bị đóng đinh trên cây thập giá. Ba ngày sau khi chết, Ngài đã sống lại. Và sau bốn mươi ngày, Ngài đã lên trời trước mặt các mộn đệ và nhiều người chứng kiến. Trước khi về trời, Ngài đã thiết lập Giáo Hội và đặt Thánh Phêrô làm Giáo Hoàng đầu tiên. Ngài trao cho Giáo hội kho tàng thiêng liêng là bảy bí tích. Giáo Hội của Ngài từ 12 tông đồ, đến nay đã có trên 1 tỷ người, chiếm 17,49% dân số thế giới. Sứ mạng của Giáo hội là thi hành chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Giêsu, Đấng là Đầu của Giáo hội.

2. Đức Giêsu Kitô đến thế gian để làm gì ?

Giáo lý Hội thánh Công Giáo từ số 456 đến số 460 cho chúng ta biết rõ lý do Đức Giêsu đến thế gian, xin được tóm tắt mấy điểm sau:

Thứ nhất, Ngài đến thế gian để cứu rỗi chúng ta. Kinh Tin Kính dạy rõ ràng rằng : “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.

Thứ hai, Ngài đến thế gian để giải hoà chúng ta với Thiên Chúa. Thánh Grêgôriô thành Nissê nói : « Bản tính của chúng ta bệnh nạn cần phải được chữa lành ; sa ngã, cần phải được nâng đứng dậy ; chết, cần phải được phục sinh. Chúng ta đã mất quyền sở hữu sự thiện, cần phải được trả lại quyền đó. Bị giam trong chỗ tối tăm, cần phải mang ánh sáng đến cho chúng ta ; bị cầm tù, ta cần phải có người giải thoát…» . Thánh Phaolô Tông đồ cũng đã khẳng định : “Nhờ Đức Giêsu là con người bằng xương bằng thịt đã chịu chết, Thiên Chúa cho anh em được hòa giải với Người để anh em trở nên thánh thiện, tinh tuyển không có gì đáng trách trước mặt Người.” (Cl 1, 22).

Thứ ba, Ngài đến thế gian để chúng ta biết tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, qua các thời kỳ lịch sử cứu độ, chúng ta chỉ biết Ngài nhờ mạc khải qua các tiên tri và các ngôn sứ. Đến thời kỳ viên mãn, hình ảnh Thiên Chúa được thể hiện một cách cụ thể qua chính Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô. Thánh Gioan tông đồ đã nói : « Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã được bày tỏ nơi điều này : Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài xuống trần gian để chúng ta nhờ Ngài mà được sống » (1 Ga 4,9).

Thứ tư, Ngài đến thế gian để trở thành khuôn mẫu sự thánh thiện của chúng ta. Đó là khuôn mẫu về sự khiêm nhường và hiền lành : « Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng » (Mt 11,29). Tinh thần tám mối phúc thật, đó là khuôn mẫu của nếp sống yêu thương : « Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em »(Ga 15,12). Khuôn mẫu về nếp sống chân thật « Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua thầy »(Ga 14,6). Khuôn mẫu của việc làm theo thánh ý Chúa Cha : « Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy »(Ga 4,34). Khuôn mẫu về nếp khó nghèo và muôn vàn khuôn mẫu khác. Chính nơi Ngài có một sức hấp dẫn lạ lùng. Nguyễn Khắc Dương, một tri thức Việt Nam đã cho rằng “sự hấp dẫn của Chúa Giêsu hình như do chính con người và cuộc đời của Ngài từ việc sinh ra trong máng cỏ, qua 30 năm âm thầm lặng lẽ, ba năm nay đây mai đó, trà trộn với dân chúng, rồi bị giết oan, nhiều hơn là do đạo lý Ngài truyền dạy…Đã có cảm tình với Ngài rồi thì khó quên, khó phai và hình như càng lâu càng thắm thiết hơn… Đối với các bậc thánh hiền khác, thì có thể nhớ bài dạy của Ngài mà quên đi con người và cuộc đời của các ngài. Đối với Đức Giêsu thì khác hẳn: đôi khi quên lời Người dạy, nhưng chính Ngài thì không quên được. Và có lẽ càng hay sống trái lời Ngài dạy, thì hình ảnh Ngài lại càng thêm xoáy vào tâm khảm… nhớ quay nhớ quắt, nhớ quằn quại đến độ không chịu được!... Thông minh, tài trí, dũng cảm... Có lẽ nhiều người hơn Giêsu, nhưng đáng yêu nhất thì chỉ có duy nhất một mình Ngài mà thôi!”

Thứ năm, Ngài đến để chúng ta được thông phần vào bản tính thần linh(x. 2 Pr 1,4), để« con người trở thành con của Thiên Chúa »(Th. Irênê). Chính Thánh Tôma Aquinô cũng khẳng định điều này rằng : « Con Thiên Chúa muốn chúng ta thông phần vào thần tính của Ngài, nên đã mặc lấy bản tính của chúng ta, để làm người rồi, Ngài sẽ làm cho những con người chúng ta thành các thần linh ».


3. Con người có cần đến Đức Giêsu Kitô không ?

Vì những lý do quan trọng trên đây nên con người qua mọi thời đều cần đến Đức Giêsu Kitô. Nhưng để đến với Đức Giêsu Kitô, con người cần phải qua Giáo Hội. Bởi vì « Những ai biết Giáo Hội Công Giáo là cần thiết mà vẫn không muốn gia nhập hoặc từ chối đứng vững trong đó, thì không được cứu rỗi. Nhưng những người không do lỗi của mình mà không biết đến Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và nhờ ân sủng của Ngài mà hành động để làm trọn thánh ý Ngài, theo như lương tâm của họ mạc khải cho họ và truyền dạy họ, thì những người đó có thể đạt tới ơn cứu độ muôn đời » (x. Gl HTCG số 816-818).

Chính vì thế, Giáo hội không những có trách nhiệm chăm sóc cho đoàn chiên thuộc về mình mà còn có bổn phận đi tìm những con chiên khác chưa thuộc về đàn để đem về với Đức Giêsu Kitô. Và Giáo Hội rất vui mừng vì ngày càng có nhiều người xin lãnh nhận bí tích Rửa tội. Từ con số Mười Hai, hiện nay đã có gần 32% nhân loại mang danh hiệu Kitô, trong số đó có hơn 17% là người Công Giáo. Hầu như ngày nào Giáo Hội cũng hân hạnh được tiếp nhận những người xin rửa tội. Họ thuộc mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội. Có những người bình dân, ít học nhưng cũng có những nhà tri thức, nắm giữ những vai trò quan trọng trong xã hội. Họ cần đến Đức Kitô, họ cần đến Giáo Hội. Năm 2007, ông Tony Blair, thủ tướng nước Anh đã xin trở lại đạo Công giáo. Ông đã nói rằng : "Tôi thiết nghĩ một thế giới không đức tin sẽ là một thế giới trên con đường thảm họa, tai ương, tôi thực sư tin như vậy ». Paul Williams, một giáo sư người Anh đã khám phá ra chân lý Kitô giáo nên đã trở lại đạo Công Giáo sau 20 năm theo Phật giáo. Napoléon, hoàng đế nước Pháp đã từng đánh phá Giáo hội, xúc phạm đến các Đức Giáo Hoàng. Cuối đời, ông đã thống hối ăn năn tội lỗi của mình và thành tâm trở về với Giáo Hội. Ông nói :« chống phá Giáo hội là cả dám chống lại Thiên Chúa và đó là tất cả những thảm trạng và thất bại ê chề nhất cuộc đời của tôi ».  Khi được lãnh nhận bí tích Giải tội và Thánh Thể, ông cho biết : « Niềm vui tôi cảm nghiệm bên trong thật bao la. Giờ đây tôi mới thật sự hiểu tại sao, ngay cả vào những lúc đen tối nhất của cuộc đời và trong những năm tháng sống xa lìa Đức Giêsu Kitô, tôi không bao giờ quên rằng, ngày hạnh phúc nhất cuộc đời tôi chính là ngày tôi rước lễ lần đầu!”

Đó là một vài cảm nhận của những người sau khi trở về với Giáo hội. Nhưng vẫn còn đó rất nhiều người không biết gì về Chúa và Giáo Hội. Thậm chí, họ còn tìm cách xuyên tạc, nói sai, nói xấu về Chúa và Giáo Hội. Gần đây trên Facebook loan truyền bài viết về việc một sinh viên Công giáo phản biện sáu luận điểm của giáo viên trình bày sai về Đạo Công Giáo. Xin được nêu tóm tắt hai trong sáu luận điểm đó:

Luận điểm thứ nhất, cô giáo cho rằng : Trong hầu hết các Thánh tử đạo Việt Nam, đa số là người nước ngoài, như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Chàng sinh viên phản biện lại : Trong 118 vị tử đạo Việt Nam : có 96 vị là người Việt Nam, chỉ có 22 người nước ngoài.

Luận điểm thứ hai, cô giáo nói : Tôn giáo được một bộ phận người tin theo, Hồi giáo có 902 triệu tín đồ. Chàng sinh viên phản biện lại : Có khoảng 87% dân số thế giới theo một tôn giáo nào đó. 87% là phần lớn, chứ không dùng “một bộ phận” được, nếu dùng từ này, nên sửa là “một bộ phận lớn”. Số liệu gần đây có thể chứng minh điều này (Kitô giáo: khoảng 2,1-2,2 tỷ tín đồ trong ấy Công Giáo là chiếm phần cao nhất; Hồi giáo: khoảng 1,5-1,6 tỷ tín đồ; Ấn Độ giáo: Khoảng 900 triệu- 1 tỷ tín đồ; Phật Giáo: khoảng 365 triệu tín đồ chính thức). Và còn các tín đồ rải khắp các tôn giáo nhỏ hơn khác. Số người không theo tôn giáo nào chiếm khoảng 13% dân số thế giới.

Hy vọng mỗi người kitô hữu đều biết làm chứng cho Đạo Chúa như chàng sinh viên trên đây, để phản biện những tình trạng xuyên tạc, nói sai, nói xấu về Đạo Chúa trong các học đường và trong xã hội chúng ta đang sống, giúp mọi người hiểu biết hơn về Đức Giêsu Kitô và Đạo của Ngài.

Như vậy, chúng ta đã biết Đức Giêsu Kitô là ai ? Ngài đến thế gian để làm gì và ai cũng cần đến Ngài. Chúng ta hãy cầu xin Ngài cho mỗi chúng ta luôn cố gắng giới thiệu Ngài cho những người xung quanh để mọi người được lãnh nhận ơn cứu độ. Amen

Lm. Anthony Trung Thành



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét