24/12/2015
Ngày 25 Tháng 12 Lễ Chúa Giáng Sinh
Lễ Vọng
Bài Ðọc I: Is 62, 1-5
"Ngươi đẹp lòng Chúa".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không
nghỉ ngơi cho đến khi Ðấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Ðấng Cứu độ Sion
đến như ngọn đuốc sáng ngời.
Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Ðấng công chính của ngươi, và mọi đế
vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ
là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay
Thiên Chúa ngươi. ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ
không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là "kẻ Ta ưa
thích", và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên
Chúa và đất ngươi sẽ có dân cư.
(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong
ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi cũng sẽ vui mừng
vì ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 4-5. 16-17. 27 và 29
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
Xướng:
1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa,
Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng:
"Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi,
và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".
2) Phúc thay dân tộc biết hân hoan,
lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài.
Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa,
và tự hào vì đức công minh Ngài.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta:
"Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con".
Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái,
và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì.
1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa,
Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng:
"Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi,
và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".
2) Phúc thay dân tộc biết hân hoan,
lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài.
Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa,
và tự hào vì đức công minh Ngài.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta:
"Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con".
Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái,
và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì.
Bài Ðọc II: Cv 13, 16-17. 22-25
"Thánh Phaolô làm chứng về Chúa
Kitô, con vua Ðavít".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Phaolô đến Antiôkia thuộc Pisiđia, vào hội đường, đứng lên, giơ
tay ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi nói: "Hỡi người Israel và những kẻ
kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây. Thiên Chúa Israel đã chọn Tổ phụ chúng ta,
Người đã thăng tiến dân Người khi họ còn cư ngụ trong nước Ai-cập, và Người ra
tay mạnh mẽ đưa cha ông chúng ta ra khỏi nước ấy.
"Sau khi loại bỏ Saolê, Chúa đã đặt Ðavít lên làm vua dân
Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã phán: "Ta đã gặp được Ðavít,
con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta".
"Bởi dòng dõi Ðavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho
Israel Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ, Ðấng mà Gioan đã báo trước, khi ông đến rao
giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành trình,
ông tuyên bố: "Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người
sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người".
Ðó là lời Chúa.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Ngày mai tội lỗi trần gian sẽ được xoá bỏ, và Ðấng Cứu Thế sẽ ngự trị trên chúng ta. - Alleluia.
Alleluia, alleluia! - Ngày mai tội lỗi trần gian sẽ được xoá bỏ, và Ðấng Cứu Thế sẽ ngự trị trên chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 1, 1-25 (bài dài)
"Dòng dõi Chúa Giêsu Kitô, con
vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của
Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa ; Phares sinh
(bởi bà Thamar) và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara Esrom; Esrom
sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon;
Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê;
Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am;
Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram;
Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia;
Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia
và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel
sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor;
Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar
sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của
Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến
cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến
Chúa Kitô có mười bốn đời.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria
đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép
Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà,
nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên
thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn
mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con
trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất
cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán
xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người
ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền.
Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con
trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Mt 1, 18-25
"Maria sẽ hạ sinh một con trai mà
ông đặt tên là Giêsu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với
nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công
chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang
khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn
mình: vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con
trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất
cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán
xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai,
người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền.
Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con
trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
Ðó là lời Chúa.
Lễ Nửa Ðêm
Bài Ðọc I: Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3.
5-6)
"Chúa ban Con của Người cho chúng
ta".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự
sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho
dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan
Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân
hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề
trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức.
Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian. [Bởi lẽ mọi chiếc
giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt
đi và trở nên mồi nuôi lửa.]
Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người con đã
được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ
gọi tên Người là "Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở,
Ông Vua Thái Bình". Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô
tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Ðavít, và trong vương quốc Người, để củng
cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến
muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 11-12. 13
Ðáp: Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Ðức Kitô, Chúa chúng ta (Lc 2, 11).
Ðáp: Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Ðức Kitô, Chúa chúng ta (Lc 2, 11).
Xướng:
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới,
hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu.
Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ.
Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân,
và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan.
Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên.
Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui.
Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở.
4) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới,
vì Người ngự tới cai quản địa cầu.
Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh
và chư dân cách chân thành.
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới,
hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu.
Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ.
Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân,
và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan.
Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên.
Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui.
Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở.
4) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới,
vì Người ngự tới cai quản địa cầu.
Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh
và chư dân cách chân thành.
Bài Ðọc II: Tt 2, 11-14
"Ân sủng của Chúa đã đến với mọi
người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Ân sủng của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi
người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ,
công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất
hiện sự vinh quang của Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Ðấng Cứu Ðộ
chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều
gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc
nhiệt tâm làm việc thiện.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2, 10-11
Alleluia, alleluia! - Ta báo cho anh em một tin mừng: Hôm nay Ðấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho chúng ta. - Alleluia.
Alleluia, alleluia! - Ta báo cho anh em một tin mừng: Hôm nay Ðấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 1-14
"Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng
sinh cho chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho
khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời
Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse
cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là
Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra
cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày
mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong
khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng
quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức
đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ,
và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ.
Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến
cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm
nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít.
Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi
mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo
binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên
các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðấng Cứu Thế Ðã Ra Ðời
Hết thảy chúng ta hãy mở lòng đón nhận lời chúc mừng lễ Chúa
Giáng Sinh, mà Thiên Chúa vừa gửi đến trong câu cuối cùng bài Tin Mừng. Phải có
sự bình an của Chúa mới hiểu được ngày lễ hôm nay; và nhất là mới nhận được nhiều
ơn của Chúa Giáng Sinh.
Thật vậy, chúng ta muốn mừng lễ này thật long trọng, nhưng vẫn
phải đứng trước một máng cỏ nghèo nàn; Chúng ta muốn trang hoàng hang đá này thật
lộng lẫy, nhưng vẫn thấy Chúa sinh ra thật đơn sơ. Dường như có một sự nghịch
thường sâu sắc trong việc Chúa Giáng sinh và trong thánh lễ này. Và nếu không
nhận được sự bình an của Chúa, lòng chúng ta không thể nào thấm thía được mầu
nhiệm Giáng sinh.
Tuy nhiên cũng phải nói ngược lại, có hiểu được ý nghĩa của ngày
lễ hôm nay, chúng ta mới đón nhận được lời chúc bình an quý hóa của Thiên Thần.
Là vì đối với tất cả những việc có hệ đến Thiên Chúa phải có ơn Người giúp đỡ
thì người ta mới hiểu được! Và khi hiểu được, người ta mới nhận được đầy đủ ơn
của Người.
Thế nên chúng ta cầu xin ơn bình an của Chúa để nhờ các bài đọc
Thánh Kinh tìm hiểu việc Chúa Giáng sinh; để rồi nhờ đó chúng ta được thêm ơn
bình an là nguồn mọi ơn cao cả khác mà Chúa Giáng sinh muốn ban cho tất cả
chúng ta trong dịp này.
1. Một Trẻ Ðã Sinh Ra
Chúng ta tự nhiên muốn nhìn thẳng vào hang đá máng cỏ để tìm hiểu
việc Chúa Giáng sinh. Nhưng nếu làm như vậy, chúng ta sẽ liều chẳng nhìn thấy
gì cả, hay chẳng nhìn được bao nhiêu. Cùng lắm, như một cái máy vô hình, mắt
chúng ta sẽ thấy một hài nhi vừa sinh, được bọc trong khăn và nơi máng cỏ, có
hai ông bà ở gần mà người ta nghĩ là cha mẹ hài nhi. Rồi có may mắn nhất thì
người ta cũng chỉ còn xem thấy một đám mục đồng đến ngó xem cảnh tượng đản sinh
khác thường này.
Phải, nếu không được hướng dẫn trước, người ta chỉ nhìn thấy có
bấy nhiêu. Và cảnh tượng xem thấy sẽ gợi lên nhiều nhất vài cảm nghĩ tự nhiên
hoặc thương hại một gia đình khó nghèo, hoặc có cảm tình với em bé vừa sinh. Chẳng
có gì độc đáo và quan trọng lắm trong tất cả những điều đã mắt thấy, tai nghe
và cảm nghĩ như vậy.
Nhưng nếu nhìn quang cảnh đản sinh kia trong tất cả lịch sử cứu
độ, nếu đọc chuyện Ðức Giêsu giáng sinh trong toàn bộ Cựu và Tân Ước, chúng ta
sẽ thấy mọi sự trở nên khác hẳn. Ðây vừa là kết quả của nhiều nghìn năm lịch sử
chuẩn bị, vừa là khởi sự của nhiều thời đại về sau. Phụng vụ chọn lúc nửa đêm để
cử hành thánh lễ này cũng có ý nói lên niềm tin ấy. Việc Ðức Giêsu Giáng sinh kết
thúc đạo cũ và khai mạc đạo mới.
Thế nên chúng ta phải nhờ tiếng nói của đạo cũ dẫn tới hang đá
máng cỏ và nhờ tiếng nói của đạo mới để nhận ra ý nghĩa của cuộc đản sinh này.
Hôm nay, tiếng nói của đạo cũ là một bài sách Isaia. Nhà tiên
tri này sống trước sự kiện lịch sử chúng ta kính nhớ hôm nay những 600 năm. Thế
mà lời của ông có vẻ rất thích hợp với việc đản sinh của hài nhi thành Bêlem. Sự
thật, bấy giờ ông đang sống ở một thời đại rất bấp bênh của lịch sử dân Chúa.
Nhiều tỉnh trong nước Do Thái đã bị đế quốc Assyri xâm chiếm và tàn phá. Dân
chúng như phải đi trong tối tăm. Ở các tỉnh còn lại người ta lo sợ như đang sống
trong sự hãi hùng của tử thần. Và triều đình Do Thái lúng túng cãi cọ chẳng biết
nên cầu viện và liên minh với lực lượng ngoại bang nào.
Chính lúc đen tối sợ hãi ấy, nhà tiên tri đã lên tiếng. Ông chẳng
nói gì khác niềm tin, niềm tin cổ truyền vào lòng trung tín của Thiên Chúa sẽ
giữ lời giao ước. Người sẽ chẳng bỏ dân cho dù dân bất nghĩa. Tình trạng hiện
nay cho thấy Người đang phạt họ, nhưng rồi Người sẽ thương, sẽ cứu. Bấy giờ,
dân đi trong tăm tối đã nhìn thấy một ánh sáng lớn. Trên những kẻ ở xứ âm u, một
ánh sáng đã rạng ngời.
Ðức tin của nhà tiên tri vững vàng đến nỗi, sự việc sẽ xảy đến
trong tương lai mà ông như đã nhìn thấy rồi. Ông thấy ơn cứu độ đã đến cho dân
Chúa đang tối tăm mặt mũi vì hoạn nạn đau khổ và đang hãi hùng trong tình hình
âm u. Ơn cứu độ ấy như một ánh sáng lớn đến xua đuổi tối tăm và âm u. Hơn nữa
đó là một Hoàng đế cứu tinh vĩ đại, vì người Ðông phương vẫn quen ví bậc vua
chúa như mặt trời và ánh sáng.
Với sự xuất hiện của ánh sáng ấy và của vị Hoàng đế ấy, Chúa ban
cho dân được niềm vui lớn, như khi được mùa và như khi đại thắng.
Biết rằng dân đang khao khát một cuộc chiến thắng, nhà tiên tri
dừng lại ở đây để quảng diễn ơn Chúa cứu độ như một cuộc thắng trận chưa từng
thấy. Không những mọi ách xâm lược, mọi thồ trên vai, một roi đốc công sẽ bị đập
tan tành, mà giầy trận chiến bào sẽ bị đốt tàn rụi, để không bao giờ còn chinh
chiến đổ máu nữa. Isaia đã dùng hình ảnh ngày chiến thắng quân Mađian kể trong
sách Thẩm phán (c. 7-8) để so sánh vừa để nói lên tính cách đại thắng, vừa để
khẳng định đó là việc do quyền năng Chúa làm cho kẻ yếu đuối khiêm cung. Hơn nữa,
chiến thắng ở Mađian đã dẫn đến ý kiến muốn có một triều đại, một vị hoàng đế
thay thế chế độ thẩm phán. Isaia hẳn đã muốn gợi lại câu chuyện này để giới thiệu
vị Hoàng đế cứu tinh mà Thiên Chúa sẽ gởi đến cho dân, như trên kia ông đã dùng
hình ảnh ánh sáng để nói đến nhà Vua sắp xuất hiện.
Là vì theo Isaia, Thiên Chúa sẽ giải cứu dân lần này nhờ một vị
hoàng đế mới. Lời văn có vẻ mô tả việc đản sinh của Ngài vì tác giả viết: Một
trẻ đã sinh ra cho ta... Vai Ngài, đỡ lấy quyền bính. Nhưng thật sự Isaia muốn
nói đến ngày Ngài lên Ngôi, mà các dân Ðông phương vẫn coi là ngày sinh ra một
triều đại, một vị vua mới. Và cũng chính trong ngày lên ngôi báu mà nhà Vua
công bố tước hiệu Ngài đã chọn. Ở đây, Isaia gán cho vị hoàng đế cứu tinh mọi
danh xưng quý hóa nhất đối với lòng người dân Chúa. Ngài là Mưu sư kỳ lạ, vì có
khôn ngoan siêu việt như Salômon; Ngài là Thần anh hùng vì có sức mạnh siêu
phàm như Ðavít; Ngài là Cha đời đời, như chính Thiên Chúa. Ngài là Vua bình an
như Ðấng Thiên Sai muôn dân trông đợi.
Chúng ta có thể tự hỏi: sao Isaia không nói thêm một danh xưng nữa
cho đủ năm danh xưng theo kiểu các Hoàng đế Ai Cập thời bấy giờ? Hay là ông muốn
nhắc chúng ta nhớ lại điều ông đã viết trước đây trong chương 7. Trẻ đã sinh ra
cho ta đó có tên là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Dù sao những
điều ông viết tiếp theo về vị hoàng đế cứu tinh có quyền bính bao la và bình an
vô tận trên ngai Ðavít, cũng như làm cho đất nước được kiên cố nhờ công minh đức
nghĩa đến muôn đời, làm chúng ta nghĩ rằng vị hoàng đế phải siêu phàm, gần như,
nếu không phải là giống như Thiên Chúa.
Như vậy, bài tiên tri Isaia hôm nay ít nhất đã loan báo cho
chúng ta biết: trẻ sinh ra cứu đời sẽ là một vị hoàng đế mới, đến chấm dứt chiến
tranh đau khổ và thiết lập thời đại hòa bình đức nghĩa. Chắc chắn chẳng một vị
vua Do Thái nào đã tỏ ra xứng đáng với lời tiên tri ấy. Và do đó, dân Cựu Ước
đã đặt tất cả hy vọng vào Ðấng Thiên Sai cứu thế sau này. Hôm nay, Hội Thánh
chúng ta nói rằng Ngài đã đến nơi hài nhi thành Bêlem. Có thể như vậy được
không. Trẻ mới sinh được bọc trong khăn đặt nằm nơi máng ăn của súc vật là
hoàng đế cứu tinh ư? Bề ngoài không thể như vậy, nhưng thật sự lại là thế. Ðó
là điều mà bài Tin Mừng Luca hôm nay muốn khẳng định với chúng ta. Chúng ta hãy
tìm hiểu.
2. Ðấng Cứu Thế Ðã Ra Ðời
Bản văn được cấu tạo với hai phần rõ rệt. Phần đầu như mô tả một
cách chân thực việc sinh ra khó nghèo của hài nhi; còn phần sau nói đến vinh
quang cao cả của Ngài. Những ai quen đọc Thánh Kinh có thể thấy ngay đó cũng là
một lối trình bày mầu nhiệm Tử nạn và phục sinh. Và nhà thần học thâm thúy có
thể nói rằng tác giả Luca đã muốn diễn tả bản tính nhân loại và bản tính Thiên
Chúa nơi hài nhi vừa sinh.
Câu mở đầu rất ý nghĩa: "Trong những ngày ấy, Hoàng đế
Augustô ra sắc chỉ ban hành lệnh kiểm tra toàn thể thiên hạ". Dĩ nhiên
Luca muốn tỏ ra mình là một sử gia, viết chuyện có niên hiệu chắc chắn. Nhưng
không phải vô cớ mà ông đã không viết đích danh Hoàng đế là Octavô, mà chỉ ghi
tước hiệu của Ngài là Augustô, một danh xưng xực mùi tự phụ coi mình là thiên tử.
Luca muốn nói rằng bấy giờ thiên hạ chỉ biết Hoàng đế là nhất, không còn ai
trên Ngài nữa. Ngài đang ra lệnh cho toàn thể thiên hạ. Luca quá biết, đế quốc
La Mã cho dù rất lớn vẫn không phải là cả thiên hạ. Và lệnh kiểm tra cũng chỉ hạn
chế trong một số tỉnh nào thôi. Nhưng Luca muốn cho chúng ta một ấn tượng: thế
giới bấy giờ đang ở dưới quyền một người. Quyền bính của ông thật lớn, đến nỗi
ông tưởng mình là Augustô (thiên hoàng). Và như vậy hài nhi sắp sinh sẽ là gì ở
trong thế giới và ở trước mặt vị hoàng đế ấy?
Trẻ mới sinh chẳng là gì cả, chúng ta có thể nói được như vậy. Ðến
như cha mẹ hài nhi cũng thế. Giuse bấy giờ chỉ là người thuộc xứ Galilê ở
Nazaret, là những địa danh chỉ gợi lên lòng khinh bỉ của người Do Thái vì đó là
những nơi đầy dân ngoại khác hẳn với xứ Giuđê thành Giêrusalem là các trung tâm
của tôn giáo mạc khải. Còn ai biết Giuse là dòng họ Ðavit và có gốc gác ở Bêlem
nữa? Maira chỉ là một bà đang thai nghén trên đường về quê khai lý lịch. Hai
người đã không tìm được chỗ trọ trong quán; mà buổi lâm bồn của Maria thì đã đến.
Họ phải đưa nhau ra một hang súc vật ngoài đồng vắng. Và sinh con rồi, Maria bọc
trẻ đem đặt nơi máng ăn của súc vật, báo trước sau này lớn lên Ðức Giêsu sẽ chẳng
có nơi gối đầu.
Chúng ta chẳng cần đi thêm vào chi tiết. Rõ ràng hài nhi đã sinh
ra rất khó nghèo. Chưa ai đã sinh ra trong một hoàn cảnh như thế. Gioan Tẩy Giả
vị tiền hô của Chúa, đã ra đời trong cảnh "trướng rũ màn che" hạnh
phúc hơn nhiều. Ấy là chưa kể cái lịnh kiểm tra của Hoàng đế, diễn tả uy quyền
của ông, như đang đè xuống nơi máng cỏ nghèo hèn này.
Tuy nhiên trên nền ảnh mờ tối kia của cảnh hang đá máng cỏ, Luca
cũng đã điểm những chấm sáng không thể bỏ qua. Ðó là dòng máu Ðavit trong con
người Giuse; là tư cách "đính hôn" của Maria, tức là sự cưu mang đồng
trinh của Người; và là điểm Con đầu lòng nói về hài nhi. Luca quá biết hài nhi
là Con Một của Maria; nhưng từ ngữ "Con Một" đã có một công dụng khác
trong ngữ vựng Kitô giáo. Nó dùng để nói Chúa Giêsu là Con Một của Thiên Chúa. Ở
đây Luca dùng kiểu nói "Con đầu lòng" để làm âm vang truyền thống đạo
đức của Thánh Kinh, bởi vì nơi dân Do Thái, mọi con đầu lòng đều thuộc về Chúa
để nhớ ơn Người đã cứu con cái Israen khi các con đầu lòng của người Ai Cập bị
sát hại. Ðàng khác từ ngữ "Con đầu lòng" còn dùng để nói về toàn thể
dân Chúa là con đầu lòng giữa mọi dân nước mà Chúa đã dựng nên. Nó cũng gợi đến
mầu nhiệm phục sinh sau này vì Chúa sống lại là "trưởng tử" giữa các
vong nhân.
Và như vậy trong cuộc đản sinh khó nghèo nơi máng cỏ, đã có những
điểm sáng lớn chờ ngày rực lên át hẳn vẻ huy hoàng của thế gian, biểu hiện nơi
uy quyền của hoàng đế Augustô trong câu chuyện này.
Tác giả Luca hôm nay muốn báo trước thời đại rực rỡ của Hài nhi
trong phần sau của bài tường thuật. Thiên Thần Chúa bỗng đã hiện đến bên đám mục
đồng đang canh giữ chiên lúc đêm khuya. Lập tức họ được bọc trong ánh sáng của
vinh quang Chúa. Sự cao cả của Người đã "chụp" lấy họ khiến họ hãi
hùng, không phải sự hãi hùng làm họ có thể chết đi, nhưng là sự hãi hùng kéo họ
ra khỏi nếp sống tầm thường và đưa họ lên thế giới siêu việt. Thế nên họ đã được
trấn an tức khắc: "Ðừng sợ, này ta đem tin vui cho các ngươi về một niềm
vui to lớn, tức là niềm vui cho toàn dân..." Trong ngôn ngữ của Thánh
Kinh, những lời này chỉ được dùng để loan báo ơn cứu độ.
Quả vậy, niềm vui cho toàn dân chỉ có thể là sự giải cứu mà các
tiên tri từng loan báo, là lời hứa mà bài sách Isaia trên kia chẳng hạn khẳng định
rằng sẽ thực hiện trong ngày Chúa viếng thăm dân Người. Hôm nay, niềm vui ấy đã
đến vì Cứu Chúa đã sinh ra. Ngài là Ðức Kitô Chúa. Ngài vừa sinh trong thành của
Ðavít.
Ðám mục đồng có hiểu được những lời ấy không? Hài nhi được giới
thiệu không những là Cứu thế và là Kitô, những danh xưng đã quen thuộc trong Cựu
Ước; nhưng còn là Chúa nữa. Danh xưng này phải đợi sau mầu nhiệm Phục sinh -
Lên trời - Hiện xuống mới gặp thấy nơi các tín hữu của Chúa Giêsu. Họ chúc tụng
Ngài là Kitô và là Chúa. Họ tuyên xưng Ðức Kitô bây giờ là Chúa ở bên hữu Thiên
Chúa Cha. Và với danh hiệu này, Ngài vượt trên hết mọi loài dưới đất và trên trời.
Tước hiệu Augustô bấy giờ còn có nghĩa gì nữa đâu!
Sự cao cả của Hài nhi là ở chỗ đó. Ngài là Chúa, tức là Thiên
Chúa. Thiên Thần đã công bố tước hiệu của Ngài ngay hôm nay khi Ngài sinh ra;
chứ không như Octavô phải đợi đến khi chinh phục được cả thiên hạ rồi lên ngôi
hoàng đế và bắt người ta phải xưng tụng mình là Augustô cũng có nghĩa là chúa.
Ông lạm quyền, vì ông cũng chỉ là phàm nhân. Ðang khi hài nhi thành Bêlem, tuy
quấn trong khăn, nằm nơi máng cỏ đã là Chúa từ bẩm sinh và từ bản tính. Tước hiệu
hoàng đế chỉ theo sau xa xa vậy, khi người ta hiểu theo nghĩa thông thường Ngài
thuộc dòng Ðavít.
Trái lại, vì là Chúa và chia sẻ quyền Thiên hoàng của Chúa Cha,
Ngài được các thiên thần hợp đoàn đông đảo chúc tụng.
"Vinh quang Thiên Chúa trên trời cao thẳm. Và dưới đất bình
an cho kẻ Ngài thương".
Ngài đến ban bình an cho mọi người dưới đất để ứng nghiệm sách
Isaia chúng ta đã nghe đọc.
Như vậy, bài Tin Mừng Luca nói lên niềm tin sâu xa của cả Hội
Thánh khi đứng trước hang đá máng cỏ. Bề ngoài mọi sự thật bình dị, khó nghèo
và khổ sở nữa dưới sức mạnh của thế gian; nhưng rõ ràng đây là trẻ thánh mà
Isaia đã tiên báo sẽ đem bình an đến cho mọi người. Các Tông đồ của Người không
bao giờ phải sợ rao giảng Mầu nhiệm Thập giá; vì cũng như Luca hôm nay đã thấy
vinh quang cao cả của Thiên Chúa đến ngay sau cảnh tượng đản sinh khó nghèo,
thì sức mạnh của Chúa Phục sinh sẽ tỏ hiện trong sứ điệp thập giá. Luca đã dùng
chữ "hôm nay" để nói rằng lúc này Chúa Cứu Thế còn đến với chúng ta
và việc Giáng sinh của Ngài hiện tại vẫn có sức mạnh cho những ai đón nhận
Ngài.
Vậy, làm thế nào để hằng ngày vẫn nhận được ơn Ngài giáng sinh?
Có lẽ bài thư gởi Titô có thể đem lại cho chúng ta một câu trả lời.
3. Chúng Ta Phải Ngóng Ðợi Cuộc Hiển Linh Của Chúa
Thánh Phaolô tác giả bài thơ đã quá biết: Ân sủng cứu độ của
Thiên Chúa đã hiển linh cho mọi người rồi trong cuộc đản sinh và trong cuộc đời
của Ðức Giêsu Kitô. Nhưng Người cũng biết rõ: Cuộc hiển linh ấy mới chỉ khởi sự.
Nó còn phải đi tới chỗ vinh quang lớn lao trong ngày Chúa trở lại. Bây giờ
chúng ta mới biết Ðức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và đã
thí mình vì ta để cứu chuộc ta khỏi mọi tội ác và tẩy rửa lấy cho mình một dân
làm sở hữu là Hội Thánh; nhưng chúng ta chưa được thấy Ngài trong vinh quang
Chúa Cha. Thế nên chúng ta phải ngóng đợi... Không phải một cách thụ động nhưng
tích cực. Chúng ta phải nhìn vào cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô để có thái độ đẹp
lòng Ngài lúc Ngài lại đến. Thế mà Ngài đã dạy chúng ta từ bỏ lối sống vô đạo
thất nghĩa với Thiên Chúa và lối sống chạy theo các đam mê trần tục, để sống điềm
đạm, công chính và đạo đức nơi đời này. Do đó, chúng ta hãy biết chế ngự các
đam mê để được điềm đạm; sống bác ái để nên công chính và thi hành đạo đức để đẹp
lòng Chúa. Có như vậy chúng ta mới khỏi tội lỗi và được ở trong dân thánh sở hữu
của Ngài để có ngày nhận được hy vọng hồng phúc Ngài hứa ban là nhìn thấy vinh
quang lớn lao của Ngài mà ánh sáng đêm nay mới khởi sự...
Như vậy, chiêm ngưỡng Chúa Giáng sinh hôm nay, chỉ là để nhìn thấy
nếp sống và đường lối của Người mà đi theo. Hơn nữa tham dự thánh lễ này là để
rước Người vào giáng sinh ở nơi tâm hồn và đời sống chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ
biết sống như Người. Và như thế để sau cuộc đời trần gian, bề ngoài có vẻ khó
nghèo và khổ đau nhưng có ơn Người làm sức mạnh, chúng ta sẽ đi tới ngày hiển
linh, vinh quang lớn lao của Người và của chúng ta. Bởi vì hôm nay Người đã
giáng sinh là để kết hợp với những ai đón nhận Người và đưa họ tới vinh quang
cao cả của Người đã có từ muôn thuở với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Lễ
Giáng sinh hôm nay vì thế chỉ là khởi đầu... Chúng ta hy vọng sẽ được cùng nhau
đạt tới lễ rực rỡ huy hoàng vô tận sau này.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Ngày 24 tháng
12 GS, Lễ Nửa Đêm
Bài đọc: Isa 9:1-3,
5-6; Tit 2:11-14; Lk 2:1-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng
Giáng Sinh là tình yêu Thiên Chúa.
- Một cụ già 93 tuổi, được coi là khá thành công trong cuộc đời:
có nhiều của cải, con đàn cháu đống gần 100 đứa. Về già, có nhiều thời gian
nhìn lại và suy gẫm, cụ ngậm ngùi kết luận: Vất vả ngược xuôi cả cuộc đời cũng
chẳng đến đâu, có tí của ăn nhưng nhìn lại đàn con đàn cháu thấy giật mình. Đứa
thì gia đình tan nát, đứa thì bệnh họan, hầu hết con cháu đều xa Chúa, cố gắng
khuyên lơn bảo ban nhưng chúng nó không chịu nghe. Nếu Chúa không thương đưa
con cháu trở lại thì chết mất! Chẳng biết sau này Chúa cho gặp được bao nhiêu
người? May mắn cho cụ già đã nhìn ra bóng tối đang vây bọc gia đình, nhưng làm
sao để đưa các con cháu về lại với Thiên Chúa?
- Hòan cảnh của cụ già có lẽ cũng là hòan cảnh của hầu hết gia
đình chúng ta. Khi được may mắn định cư nơi các cường quốc có nhiều cơ hội,
chúng ta lăn xả vào đời để kiếm tiền sinh sống, mà không bao giờ chịu cân nhắc
những thiệt hại của lối sống tư bản này. Nhiều cha mẹ đã không quản ngại hy
sinh vất vả để cày 2,3 việc; với hy vọng cho con được tiến thân trong việc học
hành, với hy vọng sau khi đã hy sinh cho con sẽ được chúng báo hiếu sau này,
như mình đã từng thương yêu và báo hiếu cha mẹ. Sau hơn 30 năm vật lộn với cuộc
sống nơi xứ lạ quê người, giờ có thời gian nhìn lại những cố gắng của mình như
cụ già, chắc nhiều người chúng ta cũng không khỏi giật mình: gia đình có của
nhưng con cái xa Chúa và xa mình vạn dặm. Con cái bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, làm
rất nhiều tiền nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến việc phải báo hiếu cha mẹ; dạy dỗ
khuyên răn chúng khó chịu và chỉ để ngòai tai. Chúng ta cũng chép miệng thở
than như cụ già: Hy sinh vất vả cả đời để giờ phải chấp nhận một thực tại chúng
ta không ao ước!
- Câu hỏi được đặt ra: Chúng ta đã làm điều gì sai? Làm thế nào
để cứu chúng ta và con cháu ra khỏi vùng bóng tối sự chết này?
- Câu trả lời: Chúng ta đã không đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Chúng ta coi trọng tiền của nên đã dùng quá nhiều thời giờ vào việc kiếm tiền,
mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Các con không thể làm tôi cả Thiên Chúa lẫn tiền
tài.” Chúng ta đã xao lãng trong việc trau dồi đời sống tâm linh mà chỉ chú trọng
đến thức ăn của uống, mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Người ta không chỉ sống
nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Chúng ta đã
chạy theo và thờ lạy những hào nhóang thế gian như danh vọng, quyền bính, khóai
lạc; mà quên đi Lời Chúa sửa dạy ma quỉ: “Ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa, chứ
không phải Thiên Chúa thờ phượng ngươi.” Nói tóm, chúng ta đã không sống theo
những gì Thiên Chúa muốn, nhưng sống hệt theo lối sống của ma quỉ đã cám dỗ
Thiên Chúa. Nếu chính chúng ta không sống những gì Chúa dạy, làm sao chúng ta
mong các con chúng ta biết sống? Nếu chúng ta đã không dạy cho con biết kính sợ
Thiên Chúa, và gia đình đã không sống theo đường lối của Thiên Chúa; chúng sẽ sống
theo kiểu của xã hội hiện nay: ích kỷ chỉ biết tới mình, tôn thờ vật chất, sống
buông thả như không có ngày mai.
- Tin Mừng Giáng Sinh: Những Bài đọc đêm nay cung cấp cho chúng
ta những tia sáng hy vọng. Trong Bài đọc I: Tiên-tri Isaiah tường thuật những lợi
ích khi con người có được Đấng Cứu Thế: Ngài như ánh sáng soi cho con người
đang sống trong vùng bóng tối của sự chết. Ngài giúp giải thóat con người khỏi
làm nô lệ cho tội lỗi. Ngài ban cho con người khôn ngoan, sức mạnh, thương yêu,
và bình an. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô dạy Titô, môn đệ của ngài: Ân sủng Cứu
Độ dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống
chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Chúa Giêsu đã tự hiến để cứu
chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta,
khiến chúng ta thành Dân Riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.
Trong Phúc Âm, Tin Mừng Giáng Sinh được loan báo cho con người: Con Thiên Chúa
đã giáng sinh làm người trong hang đá khó nghèo. Chỉ có Mục đồng là những người
đầu tiên được sứ Thần loan báo và nhận ra Tin Mừng Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được thực hiện qua Người Con.
1.1/ Sự khác biệt khi Đấng Cứu Thế đến: Ngay trong
tuần thứ I Mùa Vọng, Giáo Hội đã mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra sự khác biệt
giữa người có và không có Thiên Chúa. Tiên-tri Isaiah hôm nay cũng mời gọi
chúng ta suy xét để nhận ra tình trạng của mình và sự cần thiết của Đấng Cứu Thế
trong cuộc đời mỗi người, qua 2 hình ảnh:
(1) Ánh sáng và bóng tối: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy
một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng
lên chiếu rọi.” Tình trạng của dân Do-Thái thời Tiên-tri và tình trạng của con
người trước khi Đấng Cứu Thế đến là hòan tòan bi quan và tăm tối. Hai vương quốc
của Do-Thái sắp sửa bị quân thù Assyria và Babylon xâm chiếm và đem đi lưu đày.
Con người bị bao quanh bởi bóng tối của sự không biết Thiên Chúa, không biết
suy xét, và bao nhiêu tội lỗi lan tràn. Hậu quả tai hại nhất của việc sống
trong bóng tối là con người chắc chắn sẽ phải chết.
Nhưng may mắn cho dân tộc Do-Thái và cho con người, Thiên Chúa
đã ban cho họ một ánh sáng, Người Con của Ngài. Ánh sáng này sẽ làm cho con người
được thấy, được thấu hiểu những Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, và nhất là mang lại
Ơn Cứu Độ cho con người, cho họ được sống đời đời.
(2) Vui mừng và đau khổ: Hình ảnh thứ hai Tiên-tri dùng là liên
kết ánh sáng với vui mừng và bóng tối với đau khổ: “Vì Chúa đã gia tăng các quốc
gia, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng
vui trong mùa gặt hái, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì
cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp,
Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Median.”
Chúng ta có thể hiểu nỗi đau khổ của dân Do-Thái trong nơi lưu
đày: mất quê hương, gia đình tan nát, Đền Thờ và sự hiện diện của Thiên Chúa
không còn, cuộc sống thiếu thốn và khổ cực, bị đối xử tàn bạo bởi kẻ thù. Tất cả
những đau khổ này sẽ được Thiên Chúa cất hết khi Ngài cho họ được trở về quê
hương để tái thiết quốc gia và Đền Thờ. Tất cả những điều này là do Thiên Chúa
làm, chứ không do sức lực của con người. Tiên-tri nhắc nhở cho dân nhớ lại chiến
thắng tại Median, Thiên Chúa muốn Thủ-lãnh Gideon đuổi quân lính về hết, kẻo họ
nghĩ rằng sở dĩ có chiến thắng là do sức mạnh của họ.
Thiên Chúa gia tăng các quốc gia và nỗi vui mừng bằng cách loan
Tin Mừng cho Dân Ngọai và cho họ cũng được hưởng Ơn Cứu Độ. Cả dân Do-Thái cũng
như Dân Ngọai không làm gì xứng đáng để được hưởng Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm
tội. Sở dĩ tất cả đều được hưởng Ơn Cứu Độ là hòan tòan do Thiên Chúa.
1.2/ Con người Đấng Cứu Thế: “Vì một trẻ thơ đã được sinh ra
cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho ta. Người đã lãnh nhận quyền
cai trị (arché) trên vai, tên của Người sẽ được gọi là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa
uy quyền, Người Cha muôn thuở, Hòang Tử hoà bình.” Tên là người; những danh hiệu
này cần được hiểu thấu đáo để chúng ta ước mong có được Người Con này trong cuộc
đời:
(1) Cố Vấn kỳ diệu: Người cố vấn phải là người khôn ngoan, có khả
năng nhìn thấy những gì người khác không nhìn thấy. Người Con này là người Cố Vấn
kỳ diệu cho con người, vì Ngài là Thiên Chúa khôn ngoan: cố vấn cho mọi người
và chẳng cần ai làm cố vấn cho Người. Nếu có người cố vấn như vậy trong cuộc đời,
chúng ta sẽ không khiếp sợ ai nữa.
(2) Thiên Chúa uy quyền: Tuy dáng vẻ là con người yếu đuối,
nhưng ẩn chứa quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Người Con này làm được mọi sự,
và không có gì là không thể đối với Ngài. Nếu chúng ta có Ngài trong đời, Ngài
sẽ giúp chúng ta làm được mọi sự.
(3) Người Cha muôn thuở: Bản tính của người cha là yêu thương, dạy
dỗ, và săn sóc cho con cái. Người Con này là Thiên Chúa, Người Cha muôn thuở của
con người. Bằng việc nhập thể, chính Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, dạy dỗ, và
săn sóc từng người. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tiên tri để dạy dỗ;
trong Tân Ước, chính Thiên Chúa dạy dỗ con người.
(4) Hòang Tử bình an: Để có bình an, người lãnh đạo phải yêu mến
bình an, và phải có khả năng đem lại bình an. Người Con này có khả năng hòa giải
giữa con người với con người, và giữa con người với Thiên Chúa. Chỉ khi nào con
người có được Hòang Tử bình an này, con người mới thực sự có bình an.
1.3/ Triều đại của Đấng Cứu Thế: “Quyền cai trị của Ngài sẽ
gia tăng, và hoà bình sẽ vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua David. Người
sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng công bình và chính trực,
từ nay cho đến mãi muôn đời. Lòng nhiệt thành của Đức Chúa các đạo binh sẽ thực
hiện điều đó.”
- Trong khi các vua chúa trần gian gia tăng quyền cai trị của họ
bằng chiến tranh; Người Con gia tăng vương quốc của mình bằng hòa bình. Điều
này, chúng ta có thể thấy được qua sự phát triển của Giáo-hội: con số những người
tin vào Đức Kitô mỗi ngày một gia tăng, không bằng chiến tranh, nhưng bằng sự
rao giảng Tin Mừng và sự làm việc bên trong của Chúa Thánh Thần. Vua chúa trần
gian càng bách hại Đạo, số tín hữu càng gia tăng. Nước Thiên Chúa không còn giới
hạn trong dân tộc Do-Thái, nhưng được lan rộng ra tới mọi dân tộc trên địa cầu.
- Tiên-tri Isaiah liên kết giữa triều đại của David và của Người
Con. Như lời Thiên Chúa hứa qua các Tổ-phụ và các Tiên-tri, triều đại của Nhà
David sẽ tồn tại muôn đời. Điều này chỉ thực hiện được qua Người Con thuộc
giòng dõi David, Ngài sẽ làm cho triều đại David được tồn tại đến muôn đời.
- Trong khi các vua chúa trần gian củng cố vương quốc của mình bằng
đàn áp và bạo lực, Người Con củng cố vương quốc bằng công bình và chính trực.
Đàn áp và bạo lực chỉ có thể giữ dân chúng một thời gian; công bình và chính trực
sẽ thu hút lòng dân đến muôn đời (Lk 1:32-33).
- Tác nhân chính của sự gia tăng là Thiên Chúa và lòng nhiệt
thành yêu thương của Ngài, chứ không do đức độ, tài năng, hay sức mạnh của con
người. Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã ban Người Con này cho con người (Jn
3:16); và trong Người Con này, mọi lời hứa được thực hiện.
2/ Bài đọc II: Ơn Cứu Độ thay đổi đời sống luân lý của các Kitô
hữu
2.1/ Ơn Cứu Độ giúp con người biết sống: Con người
làm bất cứ một việc gì đều có một mục đích. Khi các Kitô hữu biết rõ ràng mục
đích của cuộc đời là “trông chờ ngày hồng phúc, ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ
chúng ta, xuất hiện vinh quang;” họ sẽ phải biết chuẩn bị xứng đáng cho ngày
đó. Thánh Phaolô khuyên các Kitô hữu: (1) Cách tiêu cực: Họ phải từ bỏ lối sống
thế gian và những đam mê trần tục; vì lối sống này ngăn cản không cho họ đạt tới
mục đích của cuộc đời. (2) Cách tích cực: Họ phải biết sống chừng mực, công
chính, và đạo đức ở thế gian này. Những nhân đức này sẽ giúp họ đạt được mục
đích của cuộc đời.
2.2/ Ơn Cứu Độ giải thóat con người: Bằng Mầu Nhiệm Nhập Thể, Đức
Kitô giải thóat con người: (1) cách tiêu cực: khỏi mọi điều bất chính (tội lỗi);
cách tích cực: biến họ thành người hăng say làm việc thiện. Chính sự tích cực
này làm con người xứng đáng thành Dân Riêng của Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta.
3.1/ Hòan cảnh sinh ra của Đấng Cứu Thế: Không giống
như các biến cố khác của cuộc đời Chúa Cứu Thế, biến cố sinh ra chỉ được tường
thuật bởi Thánh sử Luca cách vắn tắt như sau: “Thời ấy, Hoàng-đế Augusto ra chiếu
chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu
tiên, được thực hiện thời ông Quirinô làm tổng trấn xứ Syria. Ai nấy đều phải về
nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nazareth, miền
Galilee lên thành vua David tức là Bethlehem, miền Judah, vì ông thuộc giòng tộc
vua David. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria,
lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt
khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ,
vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.”
Khỏang cách từ Nazareth đến Bethlehem là 80 dặm, và phương tiện
di chuyển duy nhất thời đó là đi bộ hay dùng các thú vật như bò lừa. Bethlehem
rất lạnh vào mùa Đông vì là một cánh đồng chỉ cách Jerusalem vài dặm và có rất
nhiều các hang đá ẩn sâu trong lòng đất, vẫn còn tồn tại tới hôm nay. Các hang
đá này là chỗ lý tưởng cho các người chăn chiên vì họ có thể giữ chiên trong đó
an tòan và tránh lạnh mà không cần chuồng.
3.2/ Thiên Thần loan Tin Mừng trọng đại cho các mục-đồng.
Mục-đồng (Bedouins) vẫn còn tồn tại ở Do-Thái cho tới ngày nay.
Họ không thích lối sống thành phố hay cố định ở một chỗ; nhưng thích lang thang
khắp đó đây theo đòan vật, chỗ nào có cỏ và nước cho súc vật họ sẽ định cư tại
đó. Họ bị các người Do-Thái khác khinh thường vì bẩn thỉu và không thể giữ các
nghi thức thanh tẩy trước khi ăn.
Tại sao các mục đồng được diễm phúc là những người đầu tiên biết
Tin Mừng Giáng Sinh của Hài Nhi Cứu Độ? Để trả lời, chúng ta cần hỏi câu hỏi
ngược lại: Ai là người sẽ dễ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh nhất trong hòan cảnh
này?
Mối Phúc thứ nhất: “Phúc cho những ai nghèo khó vì Nước Trời là
của họ” sẽ giúp chúng ta trả lời. Thiên Chúa chọn cho con mình giáng sinh trong
hòan cảnh nghèo khó, chứ không trong dinh thự giàu sang. Người muốn con mình cảm
nhận thân phận cùng cực của kiếp người. Vì sinh ra trong hòan cảnh nghèo hèn
như thế, chỉ có những người nghèo như các mục-đồng mới có thể nhận ra và cảm
thông, vì Con Trẻ cùng một hòan cảnh như họ. Hơn nữa, người nghèo khổ là người
biết trông cậy vào Thiên Chúa, chứ không cậy vào sức của họ; vì thế, dễ cho họ
đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh hơn. Lời ca của muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần
cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình
an dưới thế cho loài người Chúa thương" cũng củng cố cách cắt nghĩa này.
Thiên Chúa đóai thương và nhìn đến kẻ khó nghèo.
Tin Mừng Giáng Sinh được Sứ thần loan báo cho các mục-đồng:
"Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là
tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong
thành vua David, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người:
anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã quá yêu thương nhân lọai. Chúng ta phải cảm nhận
được tình yêu của Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Mục đích của Mầu Nhiệm Nhập
Thể là để gánh tội lỗi và mang Ơn Cứu Độ cho con người. Không có Mầu Nhiệm Nhập
Thể, con người sẽ chết trong tội.
- Món quà Giáng Sinh quí giá nhất Thiên Chúa ban cho chúng ta là
chính Chúa Giêsu; qua Người Con này, chúng ta sẽ không thiếu bất cứ ân huệ cần
thiết nào của cuộc sống. Chúng ta phải đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa bằng
cách làm sao cho có và giữ được Chúa Giêsu trong cuộc đời.
- Ơn Cứu Độ phải trở thành đích điểm cho cuộc sống. Chúng ta phải
từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính,
và đạo đức ở thế gian này.
- Thiên Chúa là Chủ Tể của vũ trụ, mà lại chọn sinh ra trong cảnh
khó nghèo để dạy chúng ta một bài học: Sống đơn giản và nghèo khó làm chúng ta
dễ dàng trông cậy vào Thiên Chúa và nhận ra những nhu cầu của tha nhân hơn.
- Mong sao cho Tin Mừng Giáng Sinh hôm nay giải thóat các gia
đình chúng ta ra khỏi vùng bóng tối sự chết, và đưa chúng ta vào miền ánh sáng,
bình an, và hoan lạc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
24/12/15 THỨ NĂM TUẦN 4 MV
Vọng lễ Chúa Giáng Sinh
Mt 1,18-25
Vọng lễ Chúa Giáng Sinh
Mt 1,18-25
Suy niệm: Ngôi Hai Thiên Chúa làm người
để làm gì? - Phải chăng Ngài đến trần gian để mang cơm bánh cho loài người?
Không, vì trước khi Ngài sinh ra, loài người đã có cơm bánh, và sau khi Ngài
sinh ra, hơn 2000 năm nay, con người vẫn thiếu cơm bánh. – Phải chăng Ngài mang
văn minh và khoa học kỹ thuật đến cho nhân loại? Cũng không, vì trước đó, một
số quốc gia đã có khoa học kỹ thuật cao như Ai Cập với những kỳ quan Kim
Tự Tháp, hay nền văn hóa rực rỡ như Ấn Độ, Trung Quốc. Vậy thì Con Thiên Chúa
đến trần gian để đem lại một điều mà con người không thể tự mình làm được, đó
là ơn cứu độ, sự giải thoát. Tội lỗi, sự chết, sự dữ là những xiềng xích trói
tay cột chân con người, chỉ có Thiên Chúa mới giải phóng cho con người, đem lại
hạnh phúc bất tận cho con nguời.
Mời Bạn: Nhớ rằng Con Thiên Chúa không
nhọc công làm người để đem lại điều con người tự mình có thể làm được. Ghi nhớ
điều này sẽ giúp bạn trân trọng Chúa Giê-su và ơn cứu độ Ngài ban tặng cho bạn.
Chia sẻ: Năm 1995, người ta đã dựng một
cây No-en bằng bạc khối, treo 153 viên kim cương, trị giá 3 triệu đô la. Mừng
lễ Giáng Sinh, bạn không cần cây No-en, bạn có thể dâng lên Chúa Hài Đồng điều
gì đẹp lòng Ngài hơn cả? Phải chăng đó là tâm hồn bạn và nỗ lực mỗi ngày trở
thành máng cỏ Chúa ngự.
Sống Lời Chúa: Chia sẻ món quà vật chất cụ thể
cho người nghèo với tâm tình yêu mến Chúa hiện diện nơi họ.
Cầu nguyện: Quỳ trước hang đá và sốt sắng
hát bài “Hát khen mừng Chúa…”
Suy niệm LỄ ĐÊM GIÁNG SINH NĂM 2015
Hôm nay, không chỉ những người Công giáo mà cả thế giới đang hướng
về Đức Giêsu Kitô, mừng ngày sinh nhật lần thứ 2015 của Ngài. Trong bầu khí
linh thiêng này, xin được trình bày ba điểm sau đây: Đức Giêsu Kitô là ai? Ngài
đến thế gian để làm gì? Và con người có cần đến Ngài không?
1. Trước hết, Đức Giêsu Kitô là ai?
Đức Giêsu Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài
là Thiên Chúa thật và là người thật. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Ngài đầu thai
trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Ngài được sinh ra tại Bêlem, nước Do Thái cách
đây 2015 năm. Cha nuôi Ngài là Thánh Giuse. Mẹ Ngài là Đức Maria. Sau ba mươi
năm sống ẩn dật, làm nghề thợ mộc tại làng quê Nazarét, Ngài đã lên đường đi
loan báo Tin mừng. Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền. Đi kèm theo những lời
giảng dạy là những phép lạ. Cuối cùng, Ngài bị bắt và bị đóng đinh trên cây thập
giá. Ba ngày sau khi chết, Ngài đã sống lại. Và sau bốn mươi ngày, Ngài đã lên
trời trước mặt các mộn đệ và nhiều người chứng kiến. Trước khi về trời, Ngài đã
thiết lập Giáo Hội và đặt Thánh Phêrô làm Giáo Hoàng đầu tiên. Ngài trao cho
Giáo hội kho tàng thiêng liêng là bảy bí tích. Giáo Hội của Ngài từ 12 tông đồ,
đến nay đã có trên 1 tỷ người, chiếm 17,49% dân số thế giới. Sứ mạng của Giáo hội
là thi hành chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Giêsu, Đấng là Đầu của
Giáo hội.
2. Đức Giêsu Kitô đến thế gian để làm gì ?
Giáo lý Hội thánh Công Giáo từ số 456 đến số 460 cho chúng ta biết
rõ lý do Đức Giêsu đến thế gian, xin được tóm tắt mấy điểm sau:
Thứ nhất, Ngài đến thế gian để cứu rỗi chúng
ta. Kinh Tin Kính dạy rõ ràng rằng : “Vì loài người
chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.
Thứ hai, Ngài đến thế gian để giải hoà chúng
ta với Thiên Chúa. Thánh Grêgôriô thành Nissê nói : « Bản
tính của chúng ta bệnh nạn cần phải được chữa lành ; sa ngã, cần phải được
nâng đứng dậy ; chết, cần phải được phục sinh. Chúng ta đã mất quyền
sở hữu sự thiện, cần phải được trả lại quyền đó. Bị giam trong chỗ tối tăm, cần
phải mang ánh sáng đến cho chúng ta ; bị cầm tù, ta cần phải có người giải
thoát…» . Thánh Phaolô Tông đồ cũng đã khẳng định : “Nhờ Đức
Giêsu là con người bằng xương bằng thịt đã chịu chết, Thiên Chúa cho anh em được
hòa giải với Người để anh em trở nên thánh thiện, tinh tuyển không có gì đáng
trách trước mặt Người.” (Cl 1, 22).
Thứ ba, Ngài đến thế gian để chúng ta biết
tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình,
qua các thời kỳ lịch sử cứu độ, chúng ta chỉ biết Ngài nhờ mạc khải qua các
tiên tri và các ngôn sứ. Đến thời kỳ viên mãn, hình ảnh Thiên Chúa được thể hiện
một cách cụ thể qua chính Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô. Thánh Gioan tông
đồ đã nói : « Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã được
bày tỏ nơi điều này : Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài xuống trần gian để
chúng ta nhờ Ngài mà được sống » (1 Ga 4,9).
Thứ tư, Ngài đến thế gian để trở thành khuôn mẫu
sự thánh thiện của chúng ta. Đó là khuôn mẫu về sự khiêm
nhường và hiền lành : « Hãy học cùng ta vì ta hiền lành
và khiêm nhường trong lòng » (Mt 11,29). Tinh thần tám mối phúc
thật, đó là khuôn mẫu của nếp sống yêu thương : « Anh em hãy
thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em »(Ga 15,12). Khuôn mẫu về
nếp sống chân thật « Thầy là đường, là sự thật và là sự sống,
không ai đến được với Cha mà không qua thầy »(Ga 14,6). Khuôn mẫu của
việc làm theo thánh ý Chúa Cha : « Lương thực của Thầy là làm
theo ý Đấng đã sai Thầy »(Ga 4,34). Khuôn mẫu về nếp khó nghèo và muôn
vàn khuôn mẫu khác. Chính nơi Ngài có một sức hấp dẫn lạ lùng. Nguyễn Khắc
Dương, một tri thức Việt Nam đã cho rằng “sự hấp dẫn của Chúa Giêsu
hình như do chính con người và cuộc đời của Ngài từ việc sinh ra trong máng cỏ,
qua 30 năm âm thầm lặng lẽ, ba năm nay đây mai đó, trà trộn với dân chúng, rồi
bị giết oan, nhiều hơn là do đạo lý Ngài truyền dạy…Đã có cảm tình với Ngài rồi
thì khó quên, khó phai và hình như càng lâu càng thắm thiết hơn… Đối với các bậc
thánh hiền khác, thì có thể nhớ bài dạy của Ngài mà quên đi con người và cuộc đời
của các ngài. Đối với Đức Giêsu thì khác hẳn: đôi khi quên lời Người dạy, nhưng
chính Ngài thì không quên được. Và có lẽ càng hay sống trái lời Ngài dạy, thì
hình ảnh Ngài lại càng thêm xoáy vào tâm khảm… nhớ quay nhớ quắt, nhớ quằn quại
đến độ không chịu được!... Thông minh, tài trí, dũng cảm... Có lẽ nhiều người
hơn Giêsu, nhưng đáng yêu nhất thì chỉ có duy nhất một mình Ngài mà thôi!”
Thứ năm, Ngài đến để chúng ta được thông phần
vào bản tính thần linh(x. 2 Pr 1,4), để« con người trở thành
con của Thiên Chúa »(Th. Irênê). Chính Thánh Tôma Aquinô cũng khẳng định
điều này rằng : « Con Thiên Chúa muốn chúng ta thông phần vào thần
tính của Ngài, nên đã mặc lấy bản tính của chúng ta, để làm người rồi, Ngài sẽ
làm cho những con người chúng ta thành các thần linh ».
3. Con người có cần đến Đức Giêsu Kitô không ?
Vì những lý do quan trọng trên đây nên con người qua mọi thời đều
cần đến Đức Giêsu Kitô. Nhưng để đến với Đức Giêsu Kitô, con người cần phải qua
Giáo Hội. Bởi vì « Những ai biết Giáo Hội Công Giáo là cần thiết mà vẫn
không muốn gia nhập hoặc từ chối đứng vững trong đó, thì không được cứu rỗi.
Nhưng những người không do lỗi của mình mà không biết đến Phúc Âm của Chúa Kitô
và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và nhờ ân sủng của
Ngài mà hành động để làm trọn thánh ý Ngài, theo như lương tâm của họ mạc khải
cho họ và truyền dạy họ, thì những người đó có thể đạt tới ơn cứu độ muôn đời »
(x. Gl HTCG số 816-818).
Chính vì thế, Giáo hội không những có trách nhiệm chăm sóc cho
đoàn chiên thuộc về mình mà còn có bổn phận đi tìm những con chiên khác chưa
thuộc về đàn để đem về với Đức Giêsu Kitô. Và Giáo Hội rất vui mừng vì ngày
càng có nhiều người xin lãnh nhận bí tích Rửa tội. Từ con số Mười Hai, hiện nay
đã có gần 32% nhân loại mang danh hiệu Kitô, trong số đó có hơn 17% là người
Công Giáo. Hầu như ngày nào Giáo Hội cũng hân hạnh được tiếp nhận những người
xin rửa tội. Họ thuộc mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội. Có những người bình
dân, ít học nhưng cũng có những nhà tri thức, nắm giữ những vai trò quan trọng
trong xã hội. Họ cần đến Đức Kitô, họ cần đến Giáo Hội. Năm 2007, ông Tony
Blair, thủ tướng nước Anh đã xin trở lại đạo Công giáo. Ông đã nói rằng : "Tôi
thiết nghĩ một thế giới không đức tin sẽ là một thế giới trên con đường thảm họa,
tai ương, tôi thực sư tin như vậy ». Paul Williams, một giáo sư
người Anh đã khám phá ra chân lý Kitô giáo nên đã trở lại đạo Công Giáo sau 20
năm theo Phật giáo. Napoléon, hoàng đế nước Pháp đã từng đánh phá Giáo hội, xúc
phạm đến các Đức Giáo Hoàng. Cuối đời, ông đã thống hối ăn năn tội lỗi của mình
và thành tâm trở về với Giáo Hội. Ông nói :« chống phá Giáo hội là
cả dám chống lại Thiên Chúa và đó là tất cả những thảm trạng và thất bại ê chề
nhất cuộc đời của tôi ». Khi được lãnh nhận bí tích Giải tội và
Thánh Thể, ông cho biết : « Niềm vui tôi cảm nghiệm bên trong thật
bao la. Giờ đây tôi mới thật sự hiểu tại sao, ngay cả vào những lúc đen tối nhất
của cuộc đời và trong những năm tháng sống xa lìa Đức Giêsu Kitô, tôi không bao
giờ quên rằng, ngày hạnh phúc nhất cuộc đời tôi chính là ngày tôi rước lễ lần đầu!”
Đó là một vài cảm nhận của những người sau khi trở về với Giáo hội.
Nhưng vẫn còn đó rất nhiều người không biết gì về Chúa và Giáo Hội. Thậm chí, họ
còn tìm cách xuyên tạc, nói sai, nói xấu về Chúa và Giáo Hội. Gần đây trên
Facebook loan truyền bài viết về việc một sinh viên Công giáo phản biện sáu luận
điểm của giáo viên trình bày sai về Đạo Công Giáo. Xin được nêu tóm tắt hai
trong sáu luận điểm đó:
Luận điểm thứ nhất, cô giáo cho rằng : Trong hầu hết
các Thánh tử đạo Việt Nam, đa số là người nước ngoài, như Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha. Chàng sinh viên phản biện lại : Trong 118 vị tử đạo
Việt Nam : có 96 vị là người Việt Nam, chỉ có 22 người nước ngoài.
Luận điểm thứ hai, cô giáo nói : Tôn giáo được một
bộ phận người tin theo, Hồi giáo có 902 triệu tín đồ. Chàng sinh viên
phản biện lại : Có khoảng 87% dân số thế giới theo một tôn giáo
nào đó. 87% là phần lớn, chứ không dùng “một bộ phận” được, nếu dùng từ này, nên
sửa là “một bộ phận lớn”. Số liệu gần đây có thể chứng minh điều này (Kitô
giáo: khoảng 2,1-2,2 tỷ tín đồ trong ấy Công Giáo là chiếm phần cao nhất; Hồi
giáo: khoảng 1,5-1,6 tỷ tín đồ; Ấn Độ giáo: Khoảng 900 triệu- 1 tỷ tín đồ; Phật
Giáo: khoảng 365 triệu tín đồ chính thức). Và còn các tín đồ rải khắp các tôn
giáo nhỏ hơn khác. Số người không theo tôn giáo nào chiếm khoảng 13% dân số thế
giới.
Hy vọng mỗi người kitô hữu đều biết làm chứng cho Đạo Chúa như
chàng sinh viên trên đây, để phản biện những tình trạng xuyên tạc, nói sai, nói
xấu về Đạo Chúa trong các học đường và trong xã hội chúng ta đang sống, giúp mọi
người hiểu biết hơn về Đức Giêsu Kitô và Đạo của Ngài.
Như vậy, chúng ta đã biết Đức Giêsu Kitô là ai ? Ngài đến
thế gian để làm gì và ai cũng cần đến Ngài. Chúng ta hãy cầu xin Ngài cho mỗi
chúng ta luôn cố gắng giới thiệu Ngài cho những người xung quanh để mọi người
được lãnh nhận ơn cứu độ. Amen
Lm. Anthony Trung Thành
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét