25/12/2017
THỨ HAI – Lễ GIÁNG
SINH
Lễ Trọng. Lễ BUỘC.
Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
(phần II)
SCĐ LỄ GIÁNG SINH (LỄ ĐÊM)
CHỦ ĐỀ :
HÔM NAY ĐẤNG CỨU THẾ
ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA
"Bà sinh con trai đầu lòng" (Lc 2,7)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I là lời
tiên tri của Isaia về việc Thiên Chúa ban Người Con của Ngài cho nhân loại.
- Bài đáp ca hát mừng
ơn ban cao quý ấy : "Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng
ta."
- Bài Tin Mừng loan
báo Người Con ấy đã sinh ra : "Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho
chúng ta."
- Bài đọc II khẳng định
việc Con Thiên Chúa sinh ra là một Ân sủng Thiên Chúa ban cho mọi người :
"Ân sủng của Chúa đã đến với mọi người."
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Sau mấy tuần chuẩn bị,
đêm nay chúng ta cử hành lễ mừng Chúa giáng sinh. Một đứa trẻ yếu ớt sinh ra
trong máng cỏ, trong hang súc vật. Nhưng đứa trẻ ấy chính là Chúa Cứu Thế. Là một
vị Thiên Chúa, Ngài đã nhập thể làm người để cứu độ chúng ta. Đó là một hồng ân
to lớn. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa.
Nhưng chúng ta cũng
hãy ý thức rằng, việc Chúa Cứu Thế sinh ra tại hang đá Bêlem sẽ chẳng ích lợi
gì cho chúng ta nếu như Ngài không sinh ra trong chính tâm hồn chúng ta. Vậy
chúng ta cũng hãy mở rộng cửa lòng để cho Ngài đến và cư ngụ với chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Trong Mùa Vọng,
chúng ta chỉ lo chuẩn bị bề ngoài mà chưa chuẩn bị tâm hồn cho đủ để xứng đáng
đón rước Chúa.
- Chúa Cứu Thế đã mang
lấy thân phận của một người nghèo. Vậy mà từ trước tới nay chúng ta thường coi
khinh những người nghèo.
- Chúa Cứu Thế là ánh
sáng của sự lành và sự thiện. Vậy mà từ trước tới nay nhiều lần chúng ta trốn
lánh ánh sáng để ngụp lặn trong bóng tối của tội lỗi.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is
9,2-7) :
Bối cảnh lịch sử : Dân
Israel đang sống một thời kỳ hãi hùng : quân đội Assyria đã càn quét đất nước,
đâu đâu cũng toàn cảnh điêu tàn đổ nát ; dân chúng rên siết dưới ách thống trị
bạo tàn của ngoại bang : "Dân tộc bước đi trong u tối".
Nhưng giữa bóng tối
hãi hùng đó, Isaia tiên báo một thời tươi sáng. Vì tin chắc tương lai tươi sáng
ấy sẽ tới, nên tuy nói về tương lai nhưng Isaia đặt những động từ ở thì quá khứ,
kể như sự việc đã xảy đến rồi : "Sự sáng đã bừng lên trên những người cư
ngụ miền thâm u sự chết… Cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai
nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức, Chúa đã nghiền nát ra… Bởi lẽ một hài
nhi đã sinh ra cho chúng tôi và một người con đã được ban tặng cho chúng
tôi".
Lời tiên tri của Isaia
đã được ứng nghiệm khi Israel thoát khỏi ách thống trị của Assyria. Nhưng lời
tiên tri này còn mang một chiều kích phổ quát hơn nhiều : sự cứu thoát ấy chỉ sẽ
được thực hiện trọn vẹn nơi Đấng Messia.
2. Đáp ca (Tv 95) :
Tv 95 này là một bài
ca diễn tả niềm hân hoan trào tràn đến tột độ : Con người bày tỏ niềm hân hoan
bằng hát ca, nhảy múa. Con người còn kêu mời cả trái đất, biển khơi và các tầng
trời chia sẻ niềm hân hoan của mình. Lý do của sự vui mừng to lớn ấy là vì
Thiên Chúa đã đến.
3. Tin Mừng (Lc
2,1-14) :
Giây phút quan trọng
mà loài người mong chờ mấy ngàn năm đã điểm : Đấng Cứu Thế đã sinh ra. Điều đặc
biệt là Ngài sinh ra một cách rất âm thầm, khiêm tốn và nghèo nàn : Bêlem nhỏ
bé, máng cỏ, hang súc vật…
Dù vậy cả đạo binh
thiên quốc hát mừng. Các ngài nói rằng đó là một tin mừng đặc biệt.
Và Tin Mừng đặc biệt
này được gởi đến trước tiên cho những người chăn chiên nghèo khổ.
4. Bài đọc II (Tt
2,11-15) :
Trong một đoạn thư rất
ngắn chỉ có 5 câu, Thánh Phaolô vạch cho Titô thấy cả một "lịch sử cứu độ"
rất dài gồm 3 giai đoạn :
- Giai đoạn khởi đầu
là tình thương bao la của Thiên Chúa : Ngài đã ban Đức Giêsu cho loài người. Đức
Giêsu chính là "ân sủng" của Thiên Chúa.
- Giai đoạn sẽ đến là
lúc Đức Giêsu lại xuất hiện trong vinh quang trong ngày Ngài trở lại. Khi ấy Đức
Giêsu là "vinh quang" của Thiên Chúa.
- Giữa hai giai đoạn ấy
là cuộc sống của người tín hữu : để đáp lại "ân sủng" của Thiên Chúa
lúc khởi đầu, và để xứng đáng chia phần "vinh quang" trong ngày sau hết,
tín hữu phải : "từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ,
công minh và đạo đức".
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Ánh sáng bừng lên
trong đêm tối
Tại sao Thánh Lễ chính
của Lễ Giáng sinh được cử hành ban đêm ? Phải chăng vì đó là thời gian thuận tiện
cho giáo dân dự lễ ? Phải chăng vì bầu khí ban đêm làm cho cuộc lễ thêm phần
huyền diệu và thánh thiện (như lời ca "đêm thánh vô cùng") ? Phải
chăng để cho đúng với sự kiện lịch sử ngày xưa Chúa Giêsu sinh ra ban đêm ?
Các lý do trên đều có
phần đúng. Nhưng lý do căn bản nhất là : Chúa Giêsu là ánh sáng, Ngài sinh xuống
trần gian như Ánh sáng bừng lên trong đêm tối.
Đêm tối tượng trưng
cho tội lỗi, bất hạnh, buồn sầu ; Ánh sáng tượng trưng cho ân sủng, hạnh phúc,
mừng vui.
Khi sinh xuống trần
gian, Chúa Giêsu mang lấy trên mình tất cả tăm tối của loài người với bao tội lỗi,
bất hạnh và buồn sầu, nhưng để ban lại cho loài người ánh sáng của Thiên Chúa
bao gồm mọi ân sủng, hạnh phúc và mừng vui.
Thực ra, những sử gia
còn chưa xác định được Chúa Giêsu sinh ra vào ngày nào tháng nào. Nhưng Giáo Hội
đã chọn ngày 25 tháng 12 để cử hành Lễ sinh nhật của Ngài vì hai lý do : a/ Đây
là ngày mà mặt trời chiếu sáng nhất và là ngày dài nhất trong năm ; b/ xưa kia
ngày này là lễ mừng Thần Mặt trời của người rôma ngoại giáo. Giáo Hội muốn
chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu chính là Mặt Trời đích thực đánh tan tối tăm của
tội lỗi và sự gian tà.
2. Lễ của người giàu
hay của người nghèo ?
Trong dịp Lễ Giáng
sinh, người ta chi tiêu rất nhiều : trang hoàng, tiệc mừng, thiệp chúc, quà tặng…
Xem ra đây là lễ của người giàu.
Nhưng Đấng mà người ta
mừng sinh nhật thì rất nghèo : cỏ rơm, hang súc vật, tả lót sơ sài… Những khách
mời ưu tiên cũng là những người chăn chiên nghèo… Dấu chỉ mà thiên thần cho những
người chăn chiên ấy dựa vào để nhận ra Chúa cũng là dấu hiệu nghèo : "Và
đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Ngài : các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới
sinh bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ". Vậy đây phải là lễ của
người nghèo mới đúng.
Để cho Lễ Giáng sinh
có ý nghĩa nghèo, người ta tổ chức thăm viếng, tặng quà, khám bệnh, phát thuốc
cho người nghèo…
Thực ra tất cả những
việc ấy chỉ mặc cho lễ Giáng sinh một chút dáng vẻ nghèo mà thôi. Tinh thần
nghèo của Lễ Giáng sinh và của Đấng giáng sinh phải thấm sâu vào và thể hiện ra
:
- bằng một lập trường
sống không thượng tôn tiền bạc như chúa tể.
- bằng một thái độ đối
xử tôn trọng và yêu thương người nghèo.
- bằng một cách nhìn mới
hẳn, thấy chính Chúa trong người nghèo : "Và đây là dấu hiệu để các ngươi
nhận biết Ngài : các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh bọc trong khăn vải và đặt
nằm trong máng cỏ".
3. Khởi đầu của một cuộc
cách mạng
Những cuộc cách mạng
thường khởi đầu một cách rất rầm rộ.
Biến cố Chúa Giêsu
giáng sinh khởi đầu cho một cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong tất cả các cuộc
cách mạng. Tuy nhiên sự khởi đầu này rất im lìm, nhỏ bé, bình thường : một đứa
trẻ con nhà nghèo, sinh ra trong thiếu thốn, vào thời điểm âm thầm giữa đêm
khuya, tại một nơi hẻo lánh hiu quạnh.
Nhưng suy cho kỹ thì sẽ
thấy khởi đầu như vậy mới đúng hướng và vững chắc, vì điều mà Thiên Chúa muốn
làm cách mạng thay đổi chính là cách sống ồn ào, vật chất, cao ngạo, tham lam.
Rồi đây, nhà cách mạng
Giêsu sẽ tiếp tục lớn lên trong khiêm hạ, sẽ chiêu mộ những đệ tử khiêm hạ, rao
giảng một Tin Mừng khiêm hạ… Cuộc cách mạng của Ngài sẽ biến đổi cả thế giới.
Cuộc cách mạng của mỗi
người chúng ta cũng phải bắt đầu như thế.
4. Vài mẫu chuyện
Giáng sinh
a/ Ngôi Lời đã làm người
và ở giữa chúng ta
Một người kia không thể
nào tin được việc Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang mà xuống thế mang lấy thân phận
con người hèn hạ. Vì thế, đêm lễ Giáng sinh ông không cùng vợ con đi nhà thờ dự
lễ, mà ở lại nhà.
Sau khi vợ con đã ra
đi được một lúc thì trời bắt đầu đổ tuyết. Ông thầm nghĩ : đêm nay lễ Giáng
sinh, ước gì tuyết rơi trắng hết mọi nơi. Một lúc sau, ông nghe một tiếng sột
soạt, rồi tiếp theo là một tiếng nữa, và nhiều tiếng nữa, giống như có ai đó
ném tuyết vào cửa sổ. Ông mở cửa nhà bước ra xem. Thì ra là một đàn chim đang
lao đao trong mưa tuyết muốn bay vào cửa sổ nhà ông để tìm chỗ trú.
- "Tội nghiệp những
chú chim nhỏ bé. Mình phải tìm cách giúp chúng mới được". Ông chợt nghĩ đến
nhà kho của mình. Ông mặc áo ấm vào, đi ra cái kho sau nhà, mở cửa và gọi chúng
vào. Nhưng bầy chim vẫn đứng im.
- "Hay là chúng
không thấy lối". Ông bật đèn nhà kho lên. Rồi trở ra gọi chúng. Chúng vẫn
đứng im.
- "Lạ thế ! Hay
mình đi lùa chúng vào". Thế là ông đi đến chỗ cửa sổ, đưa tay lùa. Lũ chim
chẳng những không bay theo hướng ông lùa, mà còn bay trốn tán loạn.
Cuối cùng ông mới hiểu
ra : "Chúng sợ mình, vì chúng lạ với mình. Phải chi mình giống như chúng
thì khi mình đến gần chúng sẽ không sợ nữa."
Đúng lúc đó, một lời
Tin Mừng từ nhà thờ vọng đến tai ông : "Ngôi Lời đã trở thành xác phàm và
cư ngụ giữa chúng ta". Ông quỳ gối xuống và thưa : "Lạy Chúa, bây giờ
con đã hiểu tại sao Chúa giáng sinh làm người như chúng con".
b/ Món quà giáng sinh
Một đôi vợ chồng trẻ, Gim và Đêla, tuy nghèo
tiền của nhưng rất giàu tình thương đối với nhau. Giáng sinh sắp tới, Đêla tự hỏi
phải tặng Gim món quà gì đây. Nàng muốn tặng chàng sợi dây cho chiếc đồng hồ của
chàng. Nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế nàng nẩy sinh một sáng kiến :
Nàng có bộ tóc dài rất đẹp, nàng rất quý nó và rất hãnh diện vì nó. Nàng quyết
định cắt ngắn bộ tóc và đem bán để mua cho Gim sợi dây đồng hồ.
Hôm áp lễ giáng sinh, từ phố về, nàng cầm
trong tay một chiếc hộp rất đẹp đựng sợi dây đồng hồ mạ vàng mà nàng vừa sắm được
bằng mái tóc của mình. Bỗng nhiên Đêla cảm thấy lo lắng. Nàng biết Gim rất quý
mái tóc dài của nàng. Nàng tự hỏi không biết Gim có buồn vì nàng cắt và bán nó
đi hay không. Về tới nhà, Đêla mở cửa và thấy Gim đang đợi nàng. Tay chàng cầm
một cái hộp thật đẹp đựng món quà chàng mới mua cho nàng. Khi nhìn thấy mái tóc
ngắn của vợ, Gim như muốn khóc, nhưng chàng không nói gì cả. Cố trấn tỉnh,
chàng trao cho nàng chiếc hộp xinh xắn. Mở hộp ra, Đêla rất đỗi bàng hoàng.
Trong hộp là một bộ lược chải tóc bằng xà cừ rất đẹp. Còn chàng, khi mở món quà
vừa nhận được từ tay vợ, Gim cũng ngỡ ngàng không kém. Chính lúc đó Đêla mới nhận
ra rằng Gim đã bán chiếc đồng hồ vàng, món đồ quý nhất của anh, để mua lược chải
tóc tặng nàng. Phút chốc cả hai đều hiểu rằng họ đã tặng nhau những gì quý giá
nhất. Họ đã hy sinh tất cả cho nhau. (Trích "Món quà Giáng sinh" )
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI
NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Vì yêu thương nhân loại,
Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ trời xuống thế làm người, ở cùng chúng ta và chia sẻ
mọi vui buồn của chúng ta. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Tình yêu,
chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Khi giáng sinh làm
người / Đức Kitô đã khai mạc một kỷ nguyên mới / kỷ nguyên thái bình thịnh vượng
mà các ngôn sứ loan báo thuở xưa. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh
Chúa luôn tươi trẻ / hầu có thể thích nghi với mọi thời đại.
2- Đức Kitô đã mang
thân xác yếu hèn của nhân loại khi xuống thế làm người / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho người mù được thấy / kẻ đau yếu mau lành bệnh / và những tâm hồn đau khổ
được an vui.
3- Đức Kitô đã sinh ra
trong cảnh nghèo hèn tại hang Bêlem. / Chúng ta hiệp lời cầu xin Người an ủi /
nâng đỡ những ai đói rách bần cùng.
4- Đức Kitô giáng sinh
mang sứ điệp yêu thương và vui tươi đến cho nhân loại. / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chia sẻ tình thương và niềm vui / với
những người nghèo khổ, bất hạnh đang sống chung quanh mình.
CT : Lạy Chúa Giêsu là
Chúa hòa bình, là Vua tình thương. Chúa đang ngự giữa chúng con để an ủi, nâng
đỡ và khích lệ chúng con bước theo chân Chúa. Xin cho tình thương hải hà của
Chúa luôn hướng dẫn chúng con trong cuộc hành trình về quê trời. Chúa hằng sống
và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Sau kinh Lay Cha, Chủ
Tế chêm vào vài lời nhấn mạnh đến sứ điệp lễ Giáng sinh :
"Lạy Cha, xin cứu
chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ phải sống trong bóng tối của tội lỗi,
xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an cho
những người thiện tâm mà thiên thần Chúa hát mừng trong đêm Chúa giáng sinh. Nhờ
Cha rộng lòng thương cứu giúp…."
- Chúc bình an : Trong
đêm Chúa giáng sinh, các thiên thần đã hát "Bình an dưới thế cho người thiện
tâm". Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an và cầu cho nhau trở thành những
kẻ thiện tâm.
VII. GIẢI TÁN
Dùng công thức ban
phúc lành cuối lễ long trọng của lễ Giáng sinh (Sách lễ Rôma, xuất bản 1992,
trang 576)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina:
Chúa Giáng Sinh (B)
Thứ Hai 25 Tháng Mười Hai,
2017
Chúa Giêsu Ra Đời, Lc
2:1-20
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Thánh Thần của
chân lý, được Chúa Giêsu sai đến để hướng dẫn chúng con tìm đến sự toàn chân,
xin Chúa hãy soi sáng tâm trí chúng con để chúng con có thể hiểu được lời Kinh
Thánh. Ngài là Đấng đã rợp bóng trên Đức
Maria và khiến bà thành mảnh đất màu mỡ nơi Lời của Chúa có thể nẩy mầm, xin
hãy thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi mọi trở ngại hướng đến Lời Chúa. Xin giúp chúng con tìm hiểu giống như Đức
Maria xưa kia với trái tim trinh khiết và tốt lành để lắng nghe Lời Chúa nói với
chúng con trong cuộc sống và trong Kinh Thánh, để chúng con có thể tuân giữ Lời
Chúa và sinh sản được hoa trái tốt tươi qua sự kiên trì của chúng con.
2. Bài Đọc
a) Bối cảnh:
Bài Tin Mừng của chúng
ta ngày hôm nay là một phần của đoạn Phúc Âm theo thánh Luca nói về thời thơ ấu
của Chúa và bao gồm hai chương đầu của sách Phúc Âm thứ ba. Đó là Phúc Âm của tuổi thơ. Vì thế, trọng tâm chính của tác giả không phải
về một dữ liệu, hay cho chúng ta biết các chi tiết lịch sử về việc ra đời của Đức
Giêsu, mà là loan báo Tin Mừng về sự giáng sinh của Đấng Cứu Thế được mong chờ. Hài nhi Giêsu đã được xem như là Chúa như đã
được công bố trong lời tông truyền.
Tương tự như hai
chương đầu của sách Tông Đồ Công Vụ về sự chuyển tiếp từ thời đại của Chúa
Giêsu sang thời đại Giáo Hội, do đó hai chương đầu của Phúc Âm Luca là về sự
chuyển đổi từ Cựu Ước sang Tân Ước. Thường
xuyên có những lời trích dẫn và hàm ý đến Cựu Ước. Các nhân vật, ví dụ như ông Giacaria và bà
Êlisabéth, ông Simêon và bà Anna, thánh Giuse và đặc biệt là Đức Maria, đại diện
cho tinh thần người nghèo của Chúa được mô tả trong giai đoạn cuối của Cựu Ước. Tất cả mọi người, và đặc biệt là Đức Maria,
vui mừng vì ơn cứu rỗi mà họ mong mỏi đã đến.
Thánh Luca phân chia
Tin Mừng thời thơ ấu của Đức Giêsu ra làm bảy cảnh: lời công bố việc ra đời của Gioan Tẩy Giả
(1:5-25), lời công bố việc giáng sinh của Đức Giêsu (1:26-38), chuyến thăm viếng
bà Êlisabéth của Đức Maria (1:39-56), Gioan Tẩy Giả ra đời (1:57-80), Đức Giêsu
được sinh ra (2:1-21), Chúa Giêsu được dâng trong Đền thờ (2:41-52). Nhiều học giả tin rằng thánh Luca có ý muốn tạo
nên sự tương ứng giữa Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả để cho thấy tính ưu việt của
Chúa Giêsu so với Gioan, vị ngôn sứ cuối cùng.
Với sự ra đời của Đức Giêsu đã bắt đầu cho kỷ nguyên mới hướng về điều
mà Cựu Ước mong mỏi.
b) Phúc Âm:
Ngày ấy, có lệnh của
hoàng đế Cêsarê Augustinô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm
tra. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực
hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria.
Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nagiarét trong xứ
Galilêa trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là
tôn thất dòng Đavít, để kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai. Sự việc xảy ra, trong lúc ông bà đang ở đó,
là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu
lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt
nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó
có những người mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật
mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng
gần bên họ, và ánh sáng của Thiên Chúa bao tỏa chung quanh họ, khiến họ hết sức
kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ
rằng: “Cá ngươi đừng sợ, đây ta mang đến
cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng
sinh cho các ngươi trong thành của Đavít.
Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc
trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ.”
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh
thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng:
“Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người
thiện tâm.” Khi các thiên thần biến đi,
thì các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng
ta đi đến Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết.” Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria,
Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ.
Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về
điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn
Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa
về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa được thấm
nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong
việc suy gẫm cá nhân.
a) Tôi có dành chỗ nào
trong cuộc sống của tôi cho Chúa Giêsu không?
b) Các dấu hiệu của sự
hiện diện Thiên Chúa trao ban cho tôi là gì?
c) Tôi đáp ứng với các dấu hiệu này như thế nào?
d) Chúa Giêsu đã được
sinh ra để mang niềm vui và an bình. Những món quà này mô tả đặc điểm cuộc đời
tôi đến đâu rồi?
e) Tôi có phải là người
mang niềm vui và an bình đến cho những người khác không?
5. Chìa khóa của bài đọc
Dành cho những ai muốn
đào sâu vào trong bài Tin Mừng.
“Không còn chỗ cho họ”
Chúa Giêsu được sinh
ra trong sự nghèo khổ cùng cực. Đó không
chỉ là chuyện thiếu thốn vật chất của gia đình Chúa. Nó còn hơn thế nữa. Chúa được sinh ra tại nơi xa khỏi ngôi làng
cha mẹ Người sinh sống, xa khỏi tình yêu thương của bạn bè và thân thích, xa khỏi
sự ấm cúng của gia tộc, dù rằng là người nghèo.
Chúa được sinh ra ở giữa những người xa lạ không màng chi đến Người và
chỉ có một máng cỏ cho việc giáng sinh của Người.
Chúng ta thấy ở đây mầu
nhiệm nhập thể tuyệt vời. Thánh Phaolô sẽ
nói: “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng
đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh
em trở nên giàu có” (2Cr 8:9). Lời mở đầu
của Tin Mừng theo Gioan khẳng định rằng mặc dầu qua Người mà thế gian được tạo
thành, Đức Giêsu, Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, “Người đã đến nhà mình, nhưng
người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:11).
Đó là tấn bi kịch đánh dấu toàn bộ cuộc đời của Đức Giêsu, tiến đến tột
đỉnh của nó trong sự chối bỏ tuyệt đối tại cuộc tra án xét xử trước quan tổng
trấn Philatô (xem Ga 18:28-19:16). Trong
phần phân tích cuối cùng, tấn bi kịch về Thiên Chúa, Đấng mặc khải chính mình
và liên tục hiến tặng chính thân mình cho nhân loại và bị thường xuyên khước từ.
Một dấu chỉ sắp được
giải mã
Tuy nhiên, phải nói rằng
không dễ dàng gì cho người thời bấy giờ nhận ra được Chúa Giêsu. Điều ấy không bao giờ là việc dễ dàng cho bất
cứ ai, ngay cả ngày nay, để nhận ra thực sự Người là ai. Chỉ có sự mặc khải của Thiên Chúa mới có thể
mặc khải mầu nhiệm của Người (xem ví dụ Ga 5:37; 6:45). Trong câu chuyện giáng sinh của Người, mục
đích lời loan báo của thiên thần chính là để mặc khải mầu nhiệm của Người.
Thật ra, đoạn Tin Mừng
của chúng ta gồm có ba phần. Trong các
câu 1-7, chúng ta có sự kiện về sự ra đời của Đức Giêsu trong một bối cảnh rõ
ràng. Đó là sự ra đời của một hài nhi
trai giống như những em bé trai khác.
Các câu 8-14 cho chúng ta biết về lời loan báo của thiên thần và thị kiến
các thiên thần đồng thanh hát khen. Đó
là sự mặc khải của Thiên Chúa (câu 15) giúp chúng ta khám phá ra trong “dấu hiệu”
của “một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (câu
12) “Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế” (câu 11).
Trong phần cuối (các câu 15-20), chúng ta bắt gặp các phản ứng khác nhau
về sự mặc khải của mầu nhiệm. Khi dấu chỉ
mà Thiên Chúa ban cho được nhận với lòng khiêm nhu, nó đánh dấu sự khởi đầu của
cuộc hành trình đức tin hướng về Người, Đấng đã tự mặc khải chính mình.
Làm cách nào để giải
mã dấu chỉ và chào đón Đức Giêsu
Văn bản của chúng ta
đưa ra ba phản ứng về mầu nhiệm Đức Giêsu.
Đầu tiên là các mục đồng. Họ được biểu thị bởi một số động từ của mong
đợi/tìm kiếm và khám phá: “(họ) thức đêm
… canh giữ” (câu 8); “chúng ta hãy đến và coi xem…” (câu 15); “họ hối hả tới
nơi và gặp thấy…” (câu 16). Các mục đồng
đã sẵn sàng cho sự mặc khải của mầu nhiệm.
Họ đón nhận nó trong sự hồn nhiên và tin vào nó (xem các câu 15 và 20) và họ đã trở nên các
chứng nhân cho những gì đã được mặc khải cho họ (xem câu 17). Sau đó, có “những người nghe” những gì các mục
đồng nói với họ về Hài Nhi Giêsu (câu 16).
Họ ngạc nhiên, không thể nhìn thấy được ý nghĩa thực sự của sự kiện đã xảy
ra trong bọn họ. Sau cùng là phản ứng của
Đức Maria. Tác giả Phúc Âm đưa ra sự
tương phản về phản ứng của bà với phản ứng của “những người nghe”. Thật ra, Luca giới thiệu bà với những chữ “về
phần Maria” (câu 19). Giống như họ, Đức
Maria đã không nghe thấy lời loan báo của thiên thần và đã không trông thấy các
thiên thần hát mừng, mà chỉ được nghe từ lời chứng của các mục đồng. Nhưng bà đã chấp nhận điều ấy. Một cách chắc chắn, bà đã có lời truyền tin của
thiên thần nói riêng cho mình bà tại lúc khởi đầu của cả toàn bộ câu chuyện này
(1:26-38). Thiên thần đã nói về người
con mà bà sinh ra là Con Đấng Tối Cao sẽ trị vì cho đến muôn đời (xem câu 1:32
và 35). Nhưng những điều vừa mới xảy ra,
sự ra đời trong những hoàn cảnh như thế, có thể gây ra nghi ngờ về những lời
này. Bây giờ các mục đồng xuất hiện và lại
nói những điều tốt đẹp về con trai của bà.
Đức Maria ghi nhớ tất cả mọi việc trong lòng, những lời của thiên thần,
những lời của các mục đồng, các sự kiện diễn ra và cố gom góp lại để hiểu về bé
trai này, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho bà là ai, sứ vụ của người con này là gì
và nhiệm vụ của bà trong tất cả những việc này là gì. Đức Maria là một người phụ nữ chiêm niệm, giữ
cho mắt và tai của bà luôn rộng mở để khỏi bỏ lỡ bất cứ điều gì. Khi ấy, bà giữ lại và suy niệm tất cả trong sự
thinh lặng của tâm hồn chiêm niệm của mình.
Đức Maria là một Trinh Nữ chu đáo, có khả năng nhận lãnh lời Thiên Chúa
nói với bà trong các sự kiện hằng ngày của đời sống. Chỉ có những người muốn tìm kiếm như các mục
đồng và có tâm hồn chiêm niệm của Đức Maria mới có thể giải mã được các dấu hiệu
của sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa trong đời sống của họ và để đón nhận
Đức Giêsu vào trong lòng họ.
6. Thánh Vịnh 98
Hãy ca tụng Chúa một
bài ca mới,
Vì Người đã thực hiện
những việc lạ lùng.
Tay mặt Người đã đem lại
toàn thắng,
Cùng với cánh tay
thánh thiện của Người.
Chúa đã công bố ơn cứu
độ,
Đã tỏ sự công chính
Người trước mặt chư dân.
Người đã nhớ lại lòng
nhân hậu,
Và lòng trung thành đối
với nhà Israel.
Mọi dân trên khắp cùng
bờ cõi trái đất,
Đã nhìn thấy ơn cứu độ
của Thiên Chúa chúng ta.
Toàn thể địa cầu hãy
hân hoan mừng Chúa,
Hãy vui mừng hoan lạc
và đàn ca.
Hãy ca mừng Chúa với
đàn cầm thụ!
Với đàn cầm thụ, với
nhạc rân ran!
Hãy thổi sáo và thúc
tù và,
Hân hoan trước thành
nhan Chúa là Vua!
Gầm vang lên, hỡi biển
cả cùng muôn hải vật,
Địa cầu với toàn thể
dân cư!
Sông lạch ơi, vỗ tay
đi nào,
Đồi núi hỡi, reo mừng
trước tôn nhan Chúa.
Vì Người ngự đến xét xử
trần gian,
Người xét xử địa cầu
theo đường công chính,
Xét xử muôn dân theo lẽ
công bình.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng! Chúa là kho báu duy nhất của con, con xin
dâng hoàn toàn hồn xác con đây cho trí tưởng tượng thiêng liêng của Chúa. Con không có niềm vui nào khác hơn là thấy
Chúa mỉm cười. Xin hãy khắc dấu ấn trên
con với ân sủng Chúa và với các đức tính trẻ thơ của Người, để mà vào ngày sinh
nhật của con trên thiên đàng, các thiên thần và các thánh có thể nhận ra những
dấu này trong người phối ngẫu bé nhỏ của Chúa.
(Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan
Chúa, lời nguyện thứ 14)
www.dongcatminh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét