Trang

Chủ Nhật, 24 tháng 12, 2017

25-12-2017 : (phần I) LỄ GIÁNG SINH

25/12/2017
THỨ HAI – Lễ GIÁNG SINH
Lễ Trọng. Lễ BUỘC. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
(phần I)

Lễ Vọng

Bài Ðọc I: Is 62, 1-5
"Ngươi đẹp lòng Chúa".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi Ðấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Ðấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời.
Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Ðấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi. ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là "kẻ Ta ưa thích", và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa và đất ngươi sẽ có dân cư.
(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi cũng sẽ vui mừng vì ngươi.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 88, 4-5. 16-17. 27 và 29
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
Xướng: 1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.
2) Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. - Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Cv 13, 16-17. 22-25
"Thánh Phaolô làm chứng về Chúa Kitô, con vua Ðavít".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Phaolô đến Antiôkia thuộc Pisiđia, vào hội đường, đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi nói: "Hỡi người Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây. Thiên Chúa Israel đã chọn Tổ phụ chúng ta, Người đã thăng tiến dân Người khi họ còn cư ngụ trong nước Ai-cập, và Người ra tay mạnh mẽ đưa cha ông chúng ta ra khỏi nước ấy.
"Sau khi loại bỏ Saolê, Chúa đã đặt Ðavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã phán: "Ta đã gặp được Ðavít, con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta".
"Bởi dòng dõi Ðavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ, Ðấng mà Gioan đã báo trước, khi ông đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành trình, ông tuyên bố: "Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người".
Ðó là lời Chúa.

Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Ngày mai tội lỗi trần gian sẽ được xoá bỏ, và Ðấng Cứu Thế sẽ ngự trị trên chúng ta. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 1, 1-25 (bài dài)
"Dòng dõi Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa ; Phares sinh (bởi bà Thamar) và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài vắn này: Mt 1, 18-25
"Maria sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình: vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
Ðó là lời Chúa.


Lễ Nửa Ðêm

Bài Ðọc I: Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3. 5-6)
"Chúa ban Con của Người cho chúng ta".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian. [Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa.]
Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là "Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình". Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Ðavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 11-12. 13
Ðáp: Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Ðức Kitô, Chúa chúng ta (Lc 2, 11).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.
3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. - Ðáp.
4) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Tt 2, 11-14
"Ân sủng của Chúa đã đến với mọi người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Ân sủng của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 2, 10-11
Alleluia, alleluia! - Ta báo cho anh em một tin mừng: Hôm nay Ðấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho chúng ta. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 2, 1-14
"Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm".
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm : Bài học Giáng Sinh
 Giới Thiệu Mùa Giáng Sinh
Mùa Vọng đưa ta sang Mùa Giáng sinh. Chúng ta đã nỗ lực trong Mùa Vọng, thì lại càng phải biết sống Mùa Giáng sinh. Vì Mùa Vọng chỉ là đường dẫn tới đích điểm là Mùa Giáng sinh; và người ta đi đường là cốt để đi tới nơi định đến. Nếu đến nơi mà không thấy gì, được gì thì công lao đi đường thật là uổng phí. Do đó chúng ta phải tìm cho được nhiều ơn trong Mùa Giáng sinh này để bõ công nỗ lực trong Mùa Vọng.
Thế mà có người tưởng chỉ cần dự lễ Giáng sinh là xong, dường như thể cả Mùa Vọng chỉ để chuẩn bị cho Thánh lễ Giáng sinh. Dự lễ Ðêm hay lễ Ngày xong là hết, là nghỉ. Phụng vụ Mùa Giáng sinh không còn lôi cuốn họ nữa, đang khi rõ ràng Giáo hội lại muốn cống hiến cho con cái mình quá nhiều mầu nhiệm phong phú trong một thời gian tương đối ít ngày.
Nhưng trong số ít ngày này, Phụng vụ vẫn muốn trải ra trước mắt ta mọi khía cạnh của mầu nhiệm Chúa sinh ra làm người để làm giàu cho đời sống chúng ta. Phúc cho ai để tâm chiêm ngưỡng, suy nghĩ Phụng vụ Mùa Giáng sinh này hầu đón nhận được mọi Ơn Chúa đem tới.
Ðó là những ơn nào?
Chắc chắn không phải là những ơn mà đa số Israel ngày xưa trông chờ nơi ÐấngThiên Sai. Họ tưởng Người đến để phân xử công minh, tiêu diệt hết bọn bất nhân và đưa mọi người công chính vào một xã hội hạnh phúc trần gian lý tưởng. Thế nên họ đã không đón nhận Ðức Yêsu và muốn chờ đợi một Ðấng Cứu Thế khác. Thái độ của họ không đúng vì cuối cùng họ muốn Thiên Chúa phải làm theo ý họ. Còn chúng ta, chúng ta hằng ngày cầu xin để Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, vì chúng ta ý thức Thiên Chúa siêu việt hơn chúng ta về mọi mặt và ý của Ngài tốt lành hơn ý của chúng ta bội phần. Nên chúng ta muốn đón nhận Ngài như Ngài muốn đến với chúng ta và chúng ta sung sướng nhận lấy Ơn mà Ngài mang đến.
Sau này, khi lớn lên và nhất là khi đi giảng đạo, chịu chết để cứu chuộc chúng ta, Ðức Kitô sẽ cho chúng ta thấy rõ Ngài đem đến cho chúng ta những ơn gì. Nhưng trong mầu nhiệm Giáng sinh, Ngài chỉ là một Hài Nhi. Và như mọi sơ sinh, Ngài mang đến một sự hiện diện phong phú, một vẻ trong trắng dễ thương, một bầu khí ấm áp tình người. Ðó không phải là những ơn nhỏ bé đâu! Ta hãy nghĩ tới những ơn lành mà một hài nhi chào đời có thể mang lại cho gia đình em nói riêng và cho nhân loại nói chung. Một em bé sinh ra không những đóng góp thêm một sự hiện diện cho gia đình nhân loại, nhất là khi em đó lại là đứa con đầu lòng và là đứa con duy nhất của gia đình. Cha mẹ em vui mừng dĩ nhiên. Ðấy là kết quả của tình yêu! Hai người cảm thấy như được thăng tiến. Lần đầu tiên họ đóng góp cho đời một cái gì thật là bởi thịt máu mình. Họ nở mày nở mặt khi nhìn vào em bé. Chính vẻ vô tội, trong trắng hồn nhiên làm cho khuôn mặt của họ rạng ngời. Họ yêu đời hơn vì từ nay có một sự sống như đang mấp máy, giãy giụa trong cuộc đời họ. Ðó chỉ là những ơn lành tự nhiên mà một hài nhi mới đem lại cho gia đình, chưa kể tương lai của bất cứ em bé mới sinh nào cũng có thể rất vẻ vang.
Còn nói gì đến những ơn vô hình mà Hài Nhi thành Bêlem mang lại! Vì đây là Con Một Thiên Chúa sinh ra làm người, là hiện thân của Tình Yêu Chúa Cha đã yêu thương loài người đến nỗi ban cả Con Một Ngài cho ta, là đối tượng của Lời Hứa từ bao ngàn năm lịch sử và là Ân Ban bao gồm mọi ơn thiêng quá khứ, hiện tại và tương lai. Phụng vụ Mùa Giáng sinh mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng khám phá, đón nhận Hồng Ân cao cả này. Chúng ta chỉ nên sợ không có đủ giờ nhận thức được và lãnh hội được mọi khía cạnh phong phú, chứ không thể dại dột coi nhẹ việc suy niệm mầu nhiệm Mùa Giáng sinh.
Phụng vụ đề ra ba đề tài chủ yếu: Chúa Giáng sinh, Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa và lễ Hiển Linh. Ðề tài I dĩ nhiên phong phú hơn cả. Nhưng chúng ta phải nhờ Ðức Mẹ Thiên Chúa để chiêm ngưỡng Chúa Hài Nhi. Và chúng ta phải hân hoan nhìn thấy: Kìa ơn cứu độ Chúa mang tới đang soi sáng các dân tộc. Mầu nhiệm Chúa Giáng sinh vì thế chỉ hoàn tất trong mầu nhiệm Chúa Hiển linh, không phải chỉ hiển linh theo kiểu ngày trước khi Ngài kêu gọi ba nhà đạo sĩ ở phương Ðông đến thờ lạy, nhưng Ngài sẽ chỉ hiển linh hoàn toàn khi trở lại sau này trong vinh quang để vĩnh viễn đưa tất cả chúng ta vào trong hạnh phúc bất diệt.
Mùa Giáng sinh vì thế vẫn chưa thực sự chấm dứt Mùa Vọng. Nó chỉ đem lại ơn Nghĩa tử để chúng ta có tâm tư hành động như Con Một Thiên Chúa Giáng sinh làm người, hầu hằng ngày lấy thánh Ý Chúa Cha làm lẽ sống, đi vào kế hoạch cứu thế của Thiên Chúa chúng ta.

Lễ Chúa Giáng Sinh
Mọi sự đã sẵn sàng để chúng ta cử hành Lễ Chúa Giáng Sinh. Phụng vụ tỏ ra tưng bừng và phong phú. Ai cũng chú trọng đến Thánh Lễ Nửa Ðêm; nhưng lễ Rạng Ðông và Ban Ngày cũng đầy đủ ý nghĩa. Cớ sao lại muốn cử hành Thánh Lễ đúng Nửa Ðêm? Và tại sao lại còn thêm hai thánh lễ Rạng Ðông và Ban Ngày?
Chúng ta đã biết: chẳng ai có thể chắc chắn về ngày giờ Chúa sinh ra. Nhưng người ta đã chọn ngày Ðông Chí để khẳng định chính Ðức Kitô mới là Mặt Trời Công Chính đến đem ánh sáng và sự sống mới vào thế gian. Và như người ta quen tính ngày từ nửa đêm, Ðức Kitô cũng phải sinh ra vào lúc 0 giờ để thật sự được coi như là mặt trời bắt đầu mọc lên từ đúng nửa đêm. Ánh sáng mới, sự sống mới, cuộc đời mới, lịch sử mới bắt đầu từ lúc 0 giờ. Và giờ Chúa sinh ra phải được dùng để tính kỷ nguyên mới của ta hiện nay.
Nhưng khi chọn lúc Nửa Ðêm làm giờ Chúa sinh ra, Phụng vụ đã không nghĩ trước tiên đến khía cạnh mới mẻ của lúc 0 giờ. Khía cạnh đạo đức mới là yếu tố quyết định. Bầu khí tĩnh mịch của đêm khuya giúp con người dễ suy niệm, cầu nguyện và kết hợp với Thiên Chúa hơn lúc ban ngày... Khác với tập tục Do Thái giáo, ngay từ buổi ban đầu Giáo hội đã có thói quen "canh thức". Và như vậy để noi gương Ðức Kitô thường thích cầu nguyện trong đêm khuya và để theo lời Người dạy: hãy tỉnh thức và cầu nguyện vì Con Người sẽ đến như kẻ trộm. Giáo hội đã bắt đầu canh thức khi cử hành mầu nhiệm Phục sinh. Giáo hội thấy các biến cố trọng đại nhất trong lịch sử cứu chuộc đều xảy ra vào lúc đêm khuya: nào khi Chúa cứu dân ra khỏi Ai Cập, nào lúc Chúa lập Phép Thánh Thể và khi Ngài sống lại. Việc Chúa Giáng sinh nằm trong Lịch sử đó, và là biến cố then chốt. Sách Khôn ngoan đã có lời: "Trong khi màn thinh lặng êm ru gói cả vạn vật và đêm nhẹ bước chạy được nửa đường, lời toàn năng của Chúa đã rời ngai trời xuống thế" (18,14). Lời sách viết về thần sứ xuống giết con đầu lòng đất Aicập để giải phóng dân. Nhưng lời ấy sẽ chân thật biết bao nếu áp dụng vào việc Chúa giáng thế vì chính Người mới thật là Ðấng đến để cứu thế. Phụng vụ đã căn cứ vào lời trên và vào thói quen canh thức để ấn định Giờ Chúa sinh ra vào 0 giờ và cử hành Thánh Lễ Giáng Sinh vào Nửa Ðêm.
Ở Yêrusalem, Giáo hội dâng lễ Ðêm tại Bêlem. Sau lễ, tín hữu về tới Yêrusalem thì trời vừa bừng sáng. Ðền thờ Chúa sống lại thu hút mọi người vào đó để liên kết hai mầu nhiệm Giáng sinh và Phục sinh lại với nhau để thấy Lễ nào cũng chỉ đem lại tinh thần mới và đời sống mới. Thế là có Thánh lễ Rạng Ðông. Còn lễ Ban Ngày dần dần trở thành cần thiết để mọi người có thể mừng Ngày Chúa đản sinh trong bầu khí long trọng dễ tổ chức. Mọi nơi khác đã lần lượt bắt chước Giáo hội Yêrusalem.
Phụng vụ cử hành ba Thánh Lễ Ngày Chúa Giáng Sinh và gán cho mỗi Thánh Lễ một ý nghĩa riêng biệt. Thánh lễ Nửa Ðêm chú trọng đến Ánh Sáng từ trời cao đã xé màn đêm xuống soi sáng địa cầu, đưa ta đi vào suy niệm việc Giáng sinh của Ngôi Lời Thiên Chúa. Thánh lễ Rạng Ðông khuyên ta theo gót các mục đồng đi thờ lạy Hài Nhi mới sinh. Còn Thánh lễ Ban Ngày giới thiệu cho ta thấy "Một Con Trẻ đã sinh ra" để vĩnh viễn ở với chúng ta hàng ngày.
Chúng ta hãy đi vào từng Thánh Lễ.

Suy Niệm:
(Ngày 24 Tháng 12 Lễ Chúa Giáng Sinh - Thánh Lễ Nửa Ðêm)
(Ys 9,2-4.6-7; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14)
Bài Tin Mừng Luca hấp dẫn, đến nỗi chúng ta như quên hai bài đọc trước. Nhưng có lẽ chúng ta vẫn sẽ phải trở về để hiểu rõ bài Tin Mừng hơn và để nhận ra thái độ đạo đức phải có trước mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh.

A. Việc Chúa Sinh Ra
Luca là tác giả duy nhất nói tỉ mỉ việc Chúa Giáng sinh. Ông viết quyển Tin Mừng của ông sau hai thánh Matthêô và Marcô. Và ông lại viết cho những người sống ở ngoài đất Israel, không biết gì về cuộc đời của Chúa và cũng không quen các tập tục Dothái. Ðộc giả của ông phần lớn là dân ngoại mới theo đạo. Họ sống trong nền văn hóa La-Hy. Luca tỏ ra là một học giả trong nền văn minh đó. Ông sưu tập tài liệu, viết truyện có đầu có đuôi. Ông không thể bắt đầu kể chuyện về Chúa từ khi Ngài ra đi giảng đạo. Lối viết tiểu sử của Hylạp đòi phải khởi sự từ việc Chúa Giáng sinh.
Không những thế, Luca còn bắt chước các văn sĩ cổ điển của La-Hy. Viết về một nhân vật xuất chúng không những phải kể lại đúng biến cố đã xảy ra nhưng còn phải cho độc giả thấy ngay vẻ xuất chúng qua nhân vật ấy. Luca sung sướng tiếp nhận lối hành văn của người đồng thời để giới thiệu hai mầu nhiệm của việc Chúa Giáng sinh, cũng là hai bản tính trong Hài Nhi vừa sinh ra ở Bêlem.
Bài Tin Mừng rõ ràng có hai phần. Phần trên kể lại sự kiện trên bình diện loài người; việc Chúa sinh ra rất chân thực, không có gì khác lạ. Nhưng trong phần sau, Luca đã lấy ánh sáng bởi trời, ánh sáng của đức tin siêu nhiên để bảo ta nhận biết Hài Nhi vừa sinh ra kia là Thiên Chúa. Cả hai khía cạnh tự nhiên và siêu nhiên được chú trọng như nhau để nói lên sự kiện Ðức Kitô là Con người - Thiên Chúa và ta phải nhìn nhận nơi Con Trẻ thành Bêlem cả nhân tính lẫn thiên tính.
Nói thế chứ cả khi kể lại việc Chúa sinh ra trên bình diện loài người, Luca cũng đã tỏ ra là một cây bút rất đạo đức. Ông xác định thời buổi Chúa sinh ra dưới thời César-Augustô và Quirinô bấy giờ là Tổng trấn Syri. Rõ rệt hơn nữa, sự việc đã xảy vào đúng lúc kiểm tra dân số. Và Chúa đã Giáng sinh tại một địa điểm rõ ràng: ở Bêlem xứ Yuđê, và trong một hoàn cảnh cụ thể: hai ông bà Yuse và Maria không tìm được nơi nào trong quán trọ, nên phải đặt Hài Nhi chỗ máng ăn của súc vật. Với những nét tả chính xác như vậy, Luca làm cho người ta thấy Ðức Kitô thật là một người, đã sinh ra trong thời gian và không gian nhất định và đã phải chấp nhận một hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ai muốn kiểm chứng cũng có thể làm được. Nên không một ai có thể phủ nhận bản tính loài người nơi Ðức Kitô, và hết thảy chúng ta phải đón nhận Người như là một anh em trong số loài người chúng ta.
Nhưng đồng thời khi kể lại câu chuyện lịch sử ấy, Luca còn để ý đến khía cạnh Tin Mừng. Như Ðức Kitô sẽ cho ta thấy sau này, Tin Mừng của Người luôn luôn gắn bó với đức Khó nghèo và mầu nhiệm Tử nạn. Thiên Chúa luôn ban Tin Mừng cứu độ qua các phương tiện tầm thường và đòi cố gắng hy sinh. Việc Chúa Giáng sinh mang ơn cứu độ đến, đã xảy ra trong cảnh khó nghèo và như bị chèn ép, bỏ rơi, hất hủi. Luca cho ta thấy ngay bộ mặt đế quốc to lớn của César-Augustô thời bấy giờ với sức mạnh vô địch truyền kiểm tra khắp nơi. Còn Chúa mang ơn cứu độ đến thì sinh ra làm một Hài Nhi nằm trong máng ăn của súc vật. Người không tìm được chỗ đứng nào trong xã hội và bị hất hủi. Người sẽ xây dựng lại hạnh phúc cho loài người từ thân phận nghèo hèn, đói rét.
Và để làm nổi bật khía cạnh tin mừng cứu độ, Luca đã dùng lại phương pháp của Cựu Ước. Ông mô tả việc Chúa Giáng sinh theo kiểu so sánh, biền ngẫu. Ðoạn văn này mà được đọc với đoạn Tin Mừng kể chuyện Yoan Tẩy Giả sinh ra, sẽ cho ta thấy rõ thâm ý của tác giả muốn dùng lại kiểu viết văn so sánh của Cựu Ước. Và chúng ta có thể thấy ông dùng lại những từ của sách Khởi nguyên 25,24 để hàm ý Ðức Kitô vượt xa Yoan Tẩy Giả và Yacob (cũng gọi là Israel), nên Ngài thật là Israel mới, là Con Thiên Chúa, là Dân Mới của Thiên Chúa.
Xác quyết như vậy cũng chưa đủ, Luca trong phần còn lại của bài Tin Mừng còn giới thiệu với chúng ta chân tướng đích thực của Hài Nhi và những ơn Người mang lại cho ta. Người là Thiên Chúa vì ánh sáng của Thiên Chúa phủ trên Người và bao nhiêu thần đang thờ lạy xướng ca. Người đến không mang theo sự sợ hãi như trong thời Cựu Ước mỗi lần có việc Chúa hiển linh; trái lại, Người mang theo Tin Mừng to lớn cho toàn dân, vì Người là Cứu Chúa. Người ta chỉ đón nhận Ơn đó nếu chấp nhận "dấu chỉ" của Thiên Chúa, tức là chấp nhận tính cách khó nghèo và con đường thập giá của Phúc Âm. Lúc đó người ta sẽ thấy vinh quang của Chúa và vinh quang ấy đem lại an bình vì họ thấy rõ mình được Chúa thương.
Như vậy, bài Tin Mừng Luca quá súc tích. Nó cho ta không những đề tài phong phú để suy nghĩ mà còn gợi lên nhiều thái độ phải có đứng trước mầu nhiệm Chúa Giáng sinh. Ta hãy nhận thức nhờ sự hỗ trợ của hai bài đọc trước.

B. Bài Học Giáng Sinh
Isaia từ ngàn xưa đã nhìn thấy việc Hài Nhi sinh ra cho ta đêm nay là như một luồng sáng mạnh đến mở măt cho ta đang lẩm cẩm đi trong bóng tối sự chết. Ðời sống con người từ trước tới nay như chỉ luẩn quẩn trong cảnh chém giết bóc lột lẫn nhau. Nay Ðấng kỳ diệu đến mang lại hòa bình và tình thương. Người bẻ gãy mọi ách nô lệ, không bằng sức mạnh nhưng bằng thiên tính mà Yoan đã định nghĩa là Tình Yêu, và Phaolô trong thư đọc hôm nay đã khẳng định yêu thương là hiện thân cứu chuộc. Thiên Chúa trong mầu nhiệm Giáng sinh hiện thân để cứu chuộc chúng ta. Vì loài người chúng ta mà Người đã xuống thế. Phụng vụ bảo ta hãy quỳ gối thờ lạy mầu nhiệm này. Nhưng rồi Phụng vụ lại bảo ta đứng lên đi theo con đường Người đã đi, là xả thân cứu đời.
Chúng ta chỉ mừng lễ Chúa Giáng sinh cách xứng đáng khi nghe lời Phaolô khuyên bảo Titô: hãy để cho Ơn Chúa Cứu Thế dạy dỗ mình từ bỏ mọi ham muốn thế tục và ích kỷ, tập sống công bình và đạo hạnh ở đời này, để đi đến niềm trông đợi hạnh phúc vinh quang. Mừng lễ Chúa Giáng sinh như vậy là suy nghĩ về nguyên nhân nào đã tạo nên cảnh bất hạnh trong đời sống con người trước đây, nhận thức giá trị đường lối đạo đức công bình của Tin Mừng khó nghèo và bác ái; để xây dựng hòa bình hạnh phúc cho mọi người. Dĩ nhiên Chúa sinh ra để cứu ta khỏi tội, nhưng tội lội cụ thể là tất cả những chướng tai gai mắt, bất công bóc lột giam giữ con người trong thế lực phi nhân phi nghĩa của đồng tiền và dục vọng.
Ơn Thánh Thể mà chúng ta lãnh nhận trong Thánh Lễ này chính là thiên tính và thần lực để giúp chúng ta bắt đầu nếp sống mới, bỏ mọi dục vọng vị kỷ hầu sống cho mọi người, như Ðức Kitô đã giáng sinh làm người chỉ vì hết thảy mọi người chúng ta.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



Lễ Rạng Ðông

Bài Ðọc I: Is 62, 11-12
"Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa làm cho nghe thấy tận cùng cõi trái đất rằng: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến. Người đem theo phần thưởng với Người và sự nghiệp trước mặt Người. Những người được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ gọi họ là dân thánh. Còn ngươi, ngươi sẽ được gọi là thành quý chuộng, thành không bị bỏ rơi.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 96, 1 và 6. 11-12
Ðáp: Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta.
Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy nhảy mừng, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.
2) Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người! - Ðáp.

Bài Ðọc II: Tt 3, 4-7
"Chúa đã cứu độ chúng ta theo lượng từ bi Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Khi Ðấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người, thì không phải do những việc công chính chúng ta thực hiện, nhưng do lòng từ bi của Người, mà Người đã cứu độ chúng ta, bằng phép rửa tái sinh và sự canh tân của Thánh Thần, Ðấng mà Người đã đổ xuống tràn đầy trên chúng ta qua Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, để một khi được công chính hoá bởi ân sủng của Ngài, trong hy vọng, chúng ta được thừa kế sự sống đời đời, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 2, 14
Alleluia, alleluia! - Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 2, 15-20
"Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: "Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết". Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Ðó là lời Chúa.


Lễ Ban Ngày

Bài Ðọc I: Is 52, 7-10
"Khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ, nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị!
Tiếng của người canh gác của ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêru-salem. Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6
Ðáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca! - Ðáp.
4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Dt 1, 1-6
"Chúa đã phán dạy chúng ta qua người Con".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu Ðấng Oai Nghiêm trên cõi trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn các thiên thần bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu.
Phải, vì có bao giờ Thiên Chúa đã phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con"? Rồi Chúa lại phán: "Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta". Và khi ban Con Một mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: "Tất cả các thiên thần Chúa hãy thờ lạy Người!"
Ðó là lời Chúa.

Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 1, 1-18 {hoặc 1-5. 9-14}
"Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi".
Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.
Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài vắn này: Ga 1, 1-5. 9-14
"Ngôi Lời đã làm Người và ở cùng chúng ta"
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể
Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Quả thế, chưa có cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng bài ca bất hủ về Giáng sinh.
Thực ra, Lễ Giáng sinh cũng là một bản nhạc bất hủ của Thiên Chúa dành cho con người. Nếu như âm nhạc là một sự kết hợp hài hoà giữa âm thanh và thinh lặng, thì mầu nhiệm Thiên Chúa làm người cũng là một thứ âm nhạc. Thánh Gioan Tông đồ- người đã chiếm ngắm mầu nhiệm ấy đã diễn tả bằng một câu ngắn gọn: “Và Ngôi Lời đã hoà thanh nhục thể”.
“Ngôi Lời đã hoà thành nhục thể” nghĩa là đã trở thành một người như chúng ta, Ngài đã sống giữa chúng ta. Ngài đã nói thứ ngôn ngữ của xứ sở và thời đại của Ngài. Những lời của Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá trên thế giới từ 2.000 năm qua. Lời ấy đã được dịch ra trên 5.000 thứ ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau trên khắp thế giới, và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và thức ăn cho tất cả nhân loại. Thế nhưng trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc, Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng, thinh lặng của hang đá Belem, thinh lặng của 30 năm tại Nazaret.
Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là lời đã hoá thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế? Bởi vì Ngài không chỉ nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả sự thinh lặng nữa, Ngài nói với chúng ta bằng tất cả cuộc sống của Ngài. Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở thành thiết thân với mọi ngươi và từng người sinh ra trong cõi đời này. Ngài muốn nói với chúng ta rằng sự sống của con người là một giá trị thánh thiêng bất khả di nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng mỗi người sinh ra trên thế gian này dù có xấu xa thấp hèn đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, cũng đều là con cái Thiên chúa. Phẩm giá cao cả ấy, Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống lam lũ, nghèo hèn, thinh lặng của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những kẻ bị đẩy ra bên lề xã hội.
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây 2000 năm. Sự hiện hữu của Ngài là một hiện hữu giới hạn: giới hạn trong một không gian, một thời đại; giới hạn trong một cách sống. Chúa Giêsu đã không hề làm một người chồng, một người cha trong gia đình, Ngài chưa từng sống trong một xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng cuộc nhập thể của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hoá thành nhục thể vẫn tiếp tục tái diễn trong lịch sử nhân loại. Và lễ giáng sinh mà chúng ta cử hành hôm nay không chỉ đến mỗi năm một lần nhưng tiếp tục được cử hành trong từng phút giây cuộc sống chúng ta. Thật thế, có lễ Giáng sinh khi chúng ta để cho ngài được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh khi chúng ta để cho Lời Ngài thấm nhập cuộc sống chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng sinh khi chúng ta tiếp tục nhận ra ý nghĩa của cuộc đời, cho dù phải trải qua đắng cay chua xót. Có lễ Giáng sinh khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quí của Thiên Chúa trong mỗi người anh em chúng ta. Và có lễ Giáng sinh khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em chúng ta. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh do đó không chỉ được hát lên mỗi năm một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng phút giây cuộc đời chúng ta.
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hoá thành nhục thể tiếp tục nhập thể trong từng tâm tư, suy nghĩ hành động và cách cư xử của chúng ta để bằng lời nói cũng như bằng hành động mỗi người chúng ta cũng trở thành lời cho mọi người, trở thành lời cho mọi người, trở thành âm nhạc cho mọi người.



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Bài đọcIsa 52:7-10; Heb 1:1-6; Jn 1:1-18.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa họat động trong lịch sử con người.
Nhiều người trong chúng ta dễ dàng bị thuyết phục bởi câu nói xem ra rất chí lý, “đạo nào cũng là đạo; đạo nào cũng dạy con người làm điều lành tránh điều ác!” Từ đó, nhiều người đưa đến kết luận, ai theo đạo nào cũng được. Nếu chúng ta chỉ dựa vào đạo lý để tin vào các thần, sẽ có rất nhiều thần trong thế giới này; nhưng những thần này có làm lợi gì cho chúng ta đâu? Có những vị thần do trí tưởng tượng của con người tạo nên, có những vị thần do con người tự nhận, có những vị thần do con người phong chức cho; đâu là Vị Thần đích thực và là Người điều khiển thế giới này? Một trong những tiêu chuẩn giúp chúng ta nhận ra là dựa vào giòng lịch sử của con người để tìm hiểu, kiểm chứng, và xác nhận ảnh hưởng và sự can thiệp của Vị Thần này vào đời sống nhân lọai.
Trong suốt Mùa Vọng qua, và trong các Bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của Vị Thần đích thực này chính là Thiên Chúa. Ngài không phải là một vị thần sống xa cách và không quan tâm gì đến cuộc sống của dân chúng; trái lại cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều sống mật thiết và quan tâm đến mọi khía cạnh của con người suốt giòng lịch sử: từ khi tạo dựng cho đến Ngày Cánh Chung. Trong Bài đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa vào cuộc sống của dân trước, đang, và sau thời gian Lưu Đày. Trong Bài đọc II, Tác giả của Thư Do-Thái cho thấy 2 cách can thiệp khác nhau của Thiên Chúa: thuở xưa Ngài phán dạy qua các Tiên-tri; thời nay Ngài dạy dỗ con người qua chính Người Con Nhập Thể. Điều này cũng đã được Tiên-tri Isaiah và Jeremiah loan báo trước: “Mọi người sẽ được dạy dỗ bởi chính Thiên Chúa” (Isa 54:13, Jer 31:33, Jn 6:45). Trong Phúc Âm, Thánh Gioan nhìn thấy vai trò của Ngôi Hai ngay từ ban đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng con người; và vai trò của Người trong Kế họach Cứu Độ của Thiên Chúa. Chính Người Con này đã nhập thể để ở với con người, để yêu thương dạy dỗ, và để hiến mình thành của lễ hy sinh đền tội cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người bốn bể sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
1.1/ Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị." Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo Tin Mừng phải loan báo 3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu độ:
(1) Công bố bình an: Bình an là một trong những chữ được Tiên-tri Isaiah dùng nhiều nhất; nó không phải là sự vắng mặt của chiến tranh, nhưng là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người. Con người được hòa giải với Thiên Chúa; vì thế, con người có bình an.
(2) Loan tin tốt lành: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa, Đấng Tốt Lành. Ngài ban phúc lành của Ngài cho con người: tha thứ tội lỗi và cho được hưởng ơn cứu độ.
(3) Công bố ơn cứu độ: Ơn Cứu Độ đến từ Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn trong việc giải phóng Dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon; nhưng bao gồm cả việc giải phóng dân khỏi tội lỗi, và đem lại cho dân sự tốt lành và bình an.
Thiên Chúa là Vua hiển trị, chính Ngài sẽ lãnh đạo dân. Những người canh gác của Thành Thánh Jerusalem sẽ nhìn thấy Đức Chúa, và cất tiếng reo hò. Ngài sẽ cai trị dân và cho họ hưởng bình an, những điều tốt lành, và ơn cứu độ.
1.2/ Mọi người sẽ nhìn thấy Thiên Chúa cứu độ Jerusalem: “Hỡi Jerusalem điêu tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Jerusalem. Trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Người: người bốn bể rồi ra nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.” Sự kiện Chúa giải phóng dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon và cho về lại Jerusalem, là một phép lạ mà các dân trong vùng đều hay biết: không bằng sức mạnh quân sự, không bằng sức cố gắng của dân Do-Thái; nhưng bằng niềm tin tưởng của Cyrus, Vua Ba-Tư vào Thiên Chúa. Tương tự khi Chúa Giêsu giải phóng dân khỏi tội bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá tại Jerusalem, nước Do-Thái còn đang dưới ách đô hộ của Đế-quốc Rôma.
2/ Bài đọc II: Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.
2.1/ Thánh Tử cao trọng hơn các tiên-tri: Trong Mầu Nhiệm Cứu Độ, những gì Thiên Chúa muốn được mặc khải qua hai giai đọan:
(1) “Thời xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ.” Các tiên-tri, vì khả năng giới hạn, không thể lĩnh hội một lần; nên Thiên Chúa phải mặc khải nhiều lần và qua nhiều người. Mỗi thời đại có những vấn đề khác nhau, nên mặc khải của các tiên tri cũng khác nhau, chẳng hạn: Tiên-tri Amos chú trọng đến công bằng xã hội; Tiên-tri Isaiah chú trọng đến việc sửa dạy để thanh luyện dân chúng; Tiên-tri Hosea chú trọng đến sự trung thành của Thiên Chúa và sự bất trung của dân. Các tiên-tri chỉ biết một khía cạnh về Thiên Chúa, không một tiên tri nào biết tất cả các khía cạnh của Thiên Chúa. Các tiên tri cũng dùng các cách khác nhau để mặc khải: tuyên sấm (Amos, Isaiah), hành động như đóng kịch (Jeremiah).
(2) Thời sau hết, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta trực tiếp qua Thánh Tử: Mặc khải do Thánh-Tử hòan hảo hơn tất cả mặc khải của các tiên-tri, vì Thánh-Tử biết rõ tất cả những gì xảy ra nơi Thiên Chúa ngay từ thuở ban đầu. Các tiên-tri là những bạn hữu của Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu là Người Con của Thiên Chúa. Ngài không chỉ biết một phần sự thật như các tiên tri; nhưng nơi Ngài ẩn chứa tất cả sự thật. Qua Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa. Tác giả Thư Do-Thái không chủ ý khinh thường các tiên tri; nhưng muốn làm nổi bật vai trò của Thánh Tử.
Người Do Thái quan niệm họ đang sống giữa hai thời đại: thời hiện tại và thời cánh chung; thời hiện tại hòan tòan xấu và thời tương lai là thời huy hòang của Đức Chúa. Giữa hai thời đại là Ngày của Đức Chúa đến và Đức Kitô là Người bắt đầu triều đại của Thiên Chúa.
2.2/ Thánh Tử cao trọng hơn các thiên-thần.
1/ Sự cao trọng của Thánh Tử: C.J. Vaughan chỉ ra 6 điều quan trọng liên quan đến Đức Kitô:
(1) Vinh quang nguyên thủy của Thiên Chúa thuộc về Đức Kitô: “Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa.” Vinh quang của Thiên Chúa gồm chứa không trong sự đánh phạt con người hay giảm họ xuống hàng tôi tớ, nhưng trong phục vụ, yêu mến, và chết cho con người.
(2) Vương quốc thuộc về Đức Kitô: “Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.” Các tác giả Tin Mừng không bao giờ nghi ngờ sự chiến thắng thuộc về Đức Kitô; đơn giản vì Ngài là Con Thiên Chúa. Khi mọi việc hòan tất, Ngài sẽ trao vương quốc lại cho Thiên Chúa.
(3) Công cuộc tạo dựng cũng thuộc về Đức Kitô: “Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ.” Thiên Chúa tạo dựng bằng Lời “Hãy có!” tức thì mọi vật liền có.
(4) Công việc quan phòng vũ trụ cũng thuộc về Đức Kitô: “Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật.” Thiên Chúa không những dựng nên vũ trụ, nhưng còn quan phòng điều khiển nó theo một trật tự hòa điệu. Ngài điều khiển nó theo sự khôn ngoan, mà Ngôi Lời là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
(5) Công cuộc cứu chuộc là do Đức Kitô: Bằng cái chết, Ngài gánh tội cho con người; bằng sự hiện diện liên tục với con người, Ngài giải phóng con người khỏi tội.
(6) Cuộc vinh thắng khải hòan cũng thuộc về Đức Kitô: “Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời.” Theo tác giả Sách Do-Thái, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa để làm Trạng-sư bênh vực cho con người.
2/ Thánh Tử cao trọng hơn các thiên-thần: Truyền thống Do-Thái tin thiên thần là các sứ giả (aggeloi, Hy-Lạp, và mal’akim, Do-Thái) của Thiên Chúa: các thiên-thần có nhiệm vụ trao mệnh lệnh của Thiên Chúa cho con người và tường thuật những gì con người làm hay cầu xin lên Thiên Chúa. Quan hệ trực tiếp giữa Thiên Chúa và con người không thể xảy ra; nếu con người nhìn thấy Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ phải chết (Acts 7:53, Gal 3:19). Vì thế, dễ dàng cho người Do-Thái chấp nhận các thiên thần hơn là chính Thiên Chúa. Tác giả Thư Do-Thái muốn nhấn mạnh Đức Kitô không phải là một trong số các thiên thần; nhưng cao trọng hơn các thiên thần bội phần. “Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu. Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con; hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta. Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.”
3/ Phúc Âm: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.”
3.1/ Sự hiện hữu và vai trò của Ngôi Lời:
(1) Ngôi Lời hiện hữu từ khởi thủy: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.” Từ ngữ “Ngôi Lời” có lịch sử trong cả Do-Thái và Hy-Lạp. Cả hai lịch sử đều cho “Lời” là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, là trí tuệ của Ngài. Thánh sử Gioan dùng từ Hy-Lạp để nói về Đấng Thiên Sai của Do-Thái, cho người Hy-Lạp hiểu. Nếu Ngôi Lời là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Ngôi Lời luôn hiện hữu với Thiên Chúa từ khởi thủy.
(2) Vai trò của Ngôi Lời trong việc tạo dựng vũ trụ: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” Nếu Ngôi Lời là trí tuệ của Thiên Chúa, cái gì có trong trí tuệ thì sẽ có; cái gì không có trong trí tuệ thì sẽ không có. Sự sống và Ánh sáng là hai chủ đề chính trong Tin Mừng Gioan, và có liên quan mật thiết với nhau. Sự sống không chỉ thuần túy thể lý, nhưng mở rộng tới sự sống đời đời. Chỉ có Ngôi Lời có khả năng đem sự sống đời đời này cho con người.
(3) Ngôi Lời là ánh sáng: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian; ai tin Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống” (Jn 8:12). Bóng tối đối ngược với ánh sáng, và con người cần ánh sáng xua tan bóng tối để con người có thể nhìn thấy; nhưng cũng có những con người muốn ở trong bóng tối nên muốn diệt trừ ánh sáng, vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những tội lỗi của họ cho người khác nhìn thấy.
3.2/ Phản ứng của con người: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” Ánh sáng của Ngôi Lời chính là sự thật Ngài mang từ Thiên Chúa đến cho con người. Đứng trước sự thật, Thánh-sử Gioan tường thuật 2 phản ứng chính:
(1) Không nhận biết và không tiếp nhận Người: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” Con người ít nhất hai lần từ chối Ngôi Lời: Lần thứ nhất, Thánh Phaolô đồng ý với Gioan khi tố cáo: “Con người phải nhận biết Thiên Chúa qua những gì Thiên Chúa tạo dựng, nhưng họ đã không nhận ra Thiên Chúa” (Rom 1:19-20). Thiên Chúa tạo dựng qua Ngôi Lời, con người chẳng nhận ra Ngôi Lời cũng chẳng nhận biết Thiên Chúa. Lần thứ hai là qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, rất nhiều người đã nhìn thấy Ngôi Lời, nhưng vẫn từ chối tiếp nhận Ngài.
(2) Phần thưởng dành cho những ai tiếp nhận Người: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.” Phần thưởng trọng đại dành cho những ai tin vào Ngôi Lời là họ trở thành con Thiên Chúa; và được hưởng tất cả mọi ơn lành dành cho người con.
3.3/ Những hồng ân Ngôi Lời ban cho con người: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật… Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có.”
(1) Ân sủng: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.” Đức Kitô, tuy trong thân xác con người, nhưng chứa đựng tất cả khôn ngoan, uy quyền, tình thương, và sự bình an của Thiên Chúa (như các tên gọi của Ngài trong Thánh Lễ Nửa Đêm). Bất cứ ai có được Ngài, là hưởng được tất cả những gì Ngài có. Ngài là sự tòan hảo của Thiên Chúa, và Ngài ban cho con người đời sống thần linh của Ngài.
(2) Sự thật: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Người Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.” Ngôi Lời mặc khải cho con người biết sự thật về Thiên Chúa và tất cả các ý định của Ngài. Khi Philip xin Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa, Đức Kitô bảo ông: “Ai đã xem thấy Thầy là đã thấy Cha” (Jn 14:9).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lịch sử rất quan trọng trong việc hiểu biết và củng cố niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Người không biết lịch sử sẽ dễ dàng chạy theo những niềm tin mơ hồ. Nguy hiểm của những niềm tin này là con người không đạt được mục đích của đời mình.
- Lịch sử của Do-Thái quan trọng cho niềm tin của các Kitô hữu, vì Thiên Chúa đã chọn họ làm Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Chúng ta cần học hỏi lịch sử của họ qua các Sách Cựu Ước để hiểu biết Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa cho con người.
- Theo Lịch sử Cứu Độ, Thiên Chúa đã dùng những cách thức khác nhau để dạy dỗ con người: thời Cựu Ước, Ngài dùng các tiên-tri để nói thay và dạy dỗ con người; thời Tân-Ước, Thiên Chúa cho Người Con nhập thể để dạy dỗ và mặc khải rõ ràng Kế Họach Cứu Độ cho con người.
- Mọi người chúng ta đều cần được dạy dỗ bởi chính Người Con này. Chúng ta phải có Đức Kitô trong cuộc đời để Ngài soi sáng, dạy dỗ, ban ơn, và chỉ đường cho chúng ta về hưởng hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa. 
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét