29/12/2017
Thứ Sáu – Ngày thứ năm trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh.
Bài Ðọc I: 1 Ga 2, 3-11
"Ai thương yêu
anh em mình thì ở trong sự sáng".
Trích thư thứ nhất của
Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến,
chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa Giêsu, nếu
chúng ta giữ các giới răn Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn
Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời Người,
thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy, và nhờ điều đó
mà chúng ta biết được chúng ta ở trong Người. Ai nói mình ở trong Người, thì phải
sống như Người đã sống.
Các con thân mến, đây
không phải là một giới răn mới mà cha viết cho các con, nhưng là giới răn cũ
các con đã có từ ban đầu. Giới răn cũ đó, là lời các con đã nghe rồi. Nhưng đây
cha lại viết cho các con một điều răn mới, là điều chân thật nơi Người và nơi
các con, vì tối tăm đang qua đi, và sự sáng đã soi đến rồi.
Ai nói mình ở trong sự
sáng, mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong tối tăm. Ai thương yêu anh
em mình, thì ở trong sự sáng, và nơi người ấy không có cớ vấp phạm. Còn ai ghét
anh em mình, thì ở trong tối tăm, đi trong tối tăm và không biết mình đi đâu,
vì tối tăm đã làm mù mắt họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a.
2b-3. 5-6
Ðáp: Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan (c.
11a).
Xướng: 1) Hãy ca mừng
Thiên Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng
Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
2) Ngày ngày hãy loan
truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ
Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.
3) Vì mọi chúa tể của
chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. Sáng láng và oai
nghiêm toả trước thiên nhan, uy hùng và tráng lệ phủ trên ngai báu. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! -
Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và đã cư ngụ giữa chúng ta. Những ai tiếp nhận
Người, thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 22-35
"Ánh sáng đã
chiếu soi các lương dân".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi mãn thời hạn thanh
tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho
Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được
gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa", và việc dâng lễ vật như đã nói
trong lề luật Chúa là "một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con".
Và lúc đó tại
Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ,
đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần
mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược
Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi
hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh tay
mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, bây giờ
Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy
ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các
lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người đều kinh
ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với
Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người
trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người
ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều
tâm hồn được biểu lộ".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Dâng Chúa vào
Đền thờ
Một đêm khuya nọ, tại
một vùng quê hẻo lánh bên Anh quốc, một cậu bé đang hấp hối và người mẹ goá phải
đi bộ cả chục cây số để tìm bác sĩ. Nhìn dáng vẻ quê mùa nghèo nàn của người
đàn bà, ông bác sĩ không tỏ ra mấy sốt sắng: có nên mất giờ cho thằng bé đó
không? Lại nữa nếu cứu sống nó thì lớn lên nó cũng tiếp tục kiếp nông dân cùng
khổ như cha ông nó mà thôi. Ông bác sĩ định từ chối. Thế nhưng bị lương tâm nghề
nghiệp cắn rứt, cuối cùng ông đã đến chữa bệnh cho đứa bé. Sau này đứa bé đó đã
trở thành một trong những nhà chính trị lỗi lạc nhất của nước Anh.
Người Mỹ thường nói:
“Mỗi đứa trẻ sinh ra đều có thể là một tổng thống tương lai của Hoa Kỳ”. Quả thực
mỗi đứa trẻ sinh ra đều mang lại hy vọng cho người lớn. Với cái nhìn đức tin
thì niềm hy vọng ấy lại càng lớn lao hơn. Đó là cái nhìn của cụ già Simêon về
Hài Nhi Giêsu. Nơi Hài nhi Giêsu, cụ đã nhận ra ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
vinh quang của Israel Dân Chúa. Thế nhưng ánh sáng và vinh quang ấy được tỏ lộ
xuyên qua tăm tối của Thập giá và khổ đau.
Đó cũng là cái nhìn
chúng ta phải có khi chiêm ngắm Hài nhi trong máng cỏ. Trong Hài nhi bé nhỏ,
chúng ta nhìn thấy Đấng cứu độ trần gian; trong cảnh nghèo hèn tăm tối của máng
cỏ, chúng ta nhận ra hào quang sáng chói của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Xuyên qua cái bé nhỏ
tâm thường nhận ra những giá trị siêu việt, xuyên qua tăm tối của thất bại khổ
đau nhận ra ánh sáng hy vọng, đó là cái nhìn đích thực của niềm tin. Chúng ta
cũng cần có cái nhìn như thế trong cách giao tiếp với tha nhân: nơi những con
người nghèo hèn thấp kém trong xã hội, chúng ta luôn được mời gọi nhận ra hình ảnh
Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của nhân vị. Chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào
cuộc sống hằng ngày với cái nhìn ấy: từng phút giây của cuộc sống độc điệu âm
thầm mỗi ngày đều là hạt giống của sự sống vĩnh cửu; thất bại mất mát, khổ đau
cũng là khởi đầu của những ân phúc dồi dào mà Thiên Chúa luôn có thể ban tặng
con người.
Nguyện xin Hài nhi
Giêsu củng cố chúng ta trong niềm tin ấy. Nguyện xin Đức Maria, người mà một lưỡi
gươm sẽ đâm thấu qua tâm hồn nhưng vẫn luôn tin tưởng cậy trông, phù trợ chúng
ta trong cuộc lữ hành đầy gian nan thử thách này.
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Ngày 29 tháng 12 BNGS
Bài đọc: I Jn
2:3-11; Lk 2:22-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết Thiên Chúa là bước đi trong đường lối của Ngài.
Quan niệm về “biết” của
người Việt-Nam gần gũi với người Do-Thái hơn Hy-Lạp. Người Hy-Lạp quan niệm biết
là họat động của tri thức, trong khi người Do-Thái quan niệm biết phải ảnh hưởng
đến đời sống. Người Việt-Nam chúng ta quan niệm “tri hành phải đồng nhất” thì mới
mang lại kết quả tốt đẹp cho con người, và chúng ta đặt tầm quan trọng trên việc
làm hơn là lời nói: “lời nói mới lung lay, nhưng gương bày lôi kéo.” Biết mà
không làm, có lợi chi đâu?
Các Bài đọc hôm nay đặt
trọng tâm vào việc biết Thiên Chúa là phải bước đi trong đường lối của Người.
Trong Bài đọc I, Thánh Gioan làm sáng tỏ quan niệm “biết Thiên Chúa” cho người
Hy-Lạp. Theo ngài, biết Thiên Chúa không phải chỉ thuần tri thức, nhưng liên
quan đến đời sống luân lý của người tin. Ngài quả quyết: “Ai nói rằng mình biết
Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật
không ở nơi người ấy.” Trong Phúc Âm, Thánh Luca nêu lên những tấm gương của những
người biết và sống theo đường lối của Thiên Chúa: Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria, và
cụ già Simeon.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường
Đức Giêsu đã đi.
1.1/ Hai lối hiểu biết
khác nhau: Khi Kitô Giáo vượt qua lãnh thổ
Do-Thái tràn vào Hy-Lạp, Thánh-sử Gioan phải đương đầu với sự hiểu biết và lý
luận của người Hy-Lạp; một trong những điều ngài phải làm sáng tỏ là quan niệm
“biết Thiên Chúa.”
(1) Theo Hy-Lạp: Biết
Thiên Chúa là lãnh vực của trí tuệ, chứ không phải là lãnh vực của luân lý; vì
thế, một người có thể nói mình biết Thiên Chúa mà không cần giữ giới răn của
Ngài. Đối với người Hy-Lạp, con người có thể tự mình giải thóat bằng kiến thức
và suy luận (Gnosticism, chủ thuyết thuần tri thức).
(2) Theo Do-Thái: Biết
Thiên Chúa là bước đi theo đường lối của Ngài, là giữ cẩn thận các giới răn của
Ngài. Đó là lý do tại sao ngài cắt nghĩa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận
ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.
Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ
nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy
tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được
mình đang ở trong Thiên Chúa. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi
trên con đường Đức Giêsu đã đi.”
1.2/ Giới răn yêu thương
vừa cũ vừa mới: “Anh em thân mến, đây không
phải là một điều răn mới tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ mà anh
em đã có ngay từ lúc khởi đầu. Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe. Nhưng
đó cũng là một điều răn mới tôi viết cho anh em, điều ấy thật là thế nơi Đức
Giêsu và nơi anh em, bởi vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.”
(1) Là giới răn cũ: vì
đã được nhắc tới ngay từ đầu. Sách Levi có giới răn này: “Ngươi phải yêu đồng
loại như chính mình” (Lev 18:19).
(2) Là giới răn mới:
vì được thực hiện bởi Đức Kitô (Jn 13:34). Có những cái cũ, nhưng trở nên mới
vì người thực hành nó; chẳng hạn, bài nhạc cũ nhưng được trình bày theo lối mới.
Cũng vậy, khi Đức Kitô sống giới răn yêu thương, Ngài mở ra cho con người một
chân trời hòan tòan mới. Ngài mở rộng giới răn yêu thương tới tội nhân và kẻ
thù. Ngài dạy: “không có tình yêu nào cao quí cho bằng tình yêu của người dám
thí mạng sống cho người mình yêu.” Ngài đã đi trước làm gương cho con người bằng
cái chết trên Thập Giá.
1.3/ Ánh sáng và bóng tối:
Thánh Gioan đồng nhất:
- Ánh sáng là yêu
thương: “Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy
không có gì nên cớ vấp phạm.”
- Bóng tối là hận thù:
“Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong
bóng tối... Ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối mà chẳng
biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng.”
2/ Phúc Âm: Các mẫu gương của những người sống theo đường lối của Thiên
Chúa.
2.1/ Gia Đình Thánh tuân
giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày
lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Moses, Bà Maria và Ông Giuse đem con lên
Jerusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi
con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa," và cũng để
dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
2.2/ Ông Simeon tin vào Lời
Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.
(1) Ông Simeon là người
công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần
hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy
cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy,
ông lên Đền Thờ.
(2) Lúc cha mẹ Hài Nhi
Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an
bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân
Ngài."
2.3/ Ông Simeon nói tiên
tri:
(1) Về con trẻ: “Thiên
Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng
dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy, những ý nghĩ từ
thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được đứng dậy là
hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời của
Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ chối
không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng dậy
là các người thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng khi
được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2) Về Mẹ Maria: “Còn
chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời của Chúa Giêsu
là cuộc đời của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành với con từ
lúc sinh ra trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải chứng
minh việc biết Thiên Chúa bằng đời sống chứng nhân: tuân giữ những gì Thiên
Chúa truyền dạy.
- Giới răn quan trọng
nhất Thiên Chúa dạy chúng ta là “mến Chúa yêu người.” Chúng ta không chỉ biết
giới răn này, nhưng phải mang ra áp dụng trong cuộc đời và với mọi người.
Bài Viết Mới
Lm. Anthony ĐINH
MINH TIÊN, OP.
Th. Tô-ma Béc-két, giám mục, tử
đạo Lc 2,22-35
MỘT LẦN ĐƯỢC ẴM CHÚA HÀI NHI
Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để
chu toàn tập tục, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay và chúc tụng Thiên
Chúa. (Lc 2,27-28)
Suy niệm: Để được một lần ẵm lấy Chúa Giê-su Hài Nhi, vị tiên
tri già Si-mê-on đã phải chờ đợi suốt cả một đời người đằng đẵng, mà là một cuộc
đời công chính và đạo đức. Chắc hẳn đền thờ Giê-ru-sa-lem phải là nơi ông thường
xuyên lui tới, bởi vì Con Thiên Chúa sẽ xuất hiện ở nơi nao nếu không phải là
nơi chính nhà của Cha Ngài? Rồi còn nữa, một lần gặp Đức Ki-tô, lập tức ông đã
nói tiên tri, làm chứng cho Ngài. Và bạn có thấy không, được bồng ẵm Chúa Hài
Nhi ông tràn trề mãn nguyện và không thể không thốt lên lời chúc tụng tạ
ơn: “Giờ đây xin để tôi tớ Chúa ra đi bình an, vì chính mắt con đã thấy
ơn cứu độ…”?
Mời Bạn: Chúng ta phải học mẫu gương
của cụ Si-mê-on thật nhiều trong cách chúng ta rước Chúa Giê-su Thánh Thể: –
Cụ chuẩn bị cả đời để được ẵm Chúa một lần; còn tôi dọn lòng thế nào mỗi khi rước
Chúa? – Được ẵm Chúa, cụ sung sướng như đạt được hạnh phúc nhất đời và tạ ơn
Chúa bằng những tâm tình sốt sắng; còn tôi đã cám ơn sau khi rước Chúa thế nào?
– Vừa gặp Đức Ki-tô, ngay lập tức cụ đã loan báo về Người; còn chúng ta đã bắt
đầu loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô chưa nhỉ?
Chia sẻ: Điều gì đánh động tâm hồn bạn nhất trong cách cụ Si-mê-on
trông đợi và đón tiếp Chúa Hài Nhi?
Sống Lời
Chúa: Trong tuần bát nhật giáng sinh,
bạn đi lễ ngày thường và rước lễ sốt sắng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin đến viếng thăm hồn
con, và làm cho cõi lòng khô khan nguội lạnh của con được ấm lên bằng tình yêu
mến Chúa nồng nàn.
(5 phút Lời Chúa)
Ơn cứu độ cho muôn dân (29.12.2017 – Thứ sáu, Ngày V trong tuần Bát nhật Giáng sinh)
Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng
ngày, cần có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon.
Suy niệm:
Luật lệ thường làm người ta cảm thấy gò bó, mất tự do.
Người Do Thái phải giữ Luật Chúa đã ban cho Môsê.
Con trai thì phải được cắt bì và đặt tên tám ngày sau
khi sinh (Lc 2,21).
Con trai đầu lòng thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa
(Xh 13,1-2),
nên cha mẹ phải nộp năm sê-ken bạc cho tư tế
để
chuộc lại con cho mình (Ds 3,47-48).
Người
phụ nữ sau khi sinh con, bị coi là nhơ uế (Lv 12, 2-8),
phải
ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền thờ.
Bốn
mươi ngày sau khi sinh con trai, bà cần làm lễ thanh tẩy.
Bà
phải dâng cho Đền thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu,
và
một con chim gáy hay bồ câu để làm lễ tạ tội.
Nếu
nghèo, bà chỉ cần dâng một cặp bồ câu non hay chim gáy là đủ.
Giuse
và Maria đã vui vẻ giữ những luật này,
dù
ngày nay đối với chúng ta, chúng thật là khó hiểu và khó chấp nhận.
Hãy
nhìn ngắm đôi vợ chồng nghèo lên Giêrusalem.
Họ
đã vượt một quãng đường xa, với đứa con mới hơn tháng tuổi.
Maria
chịu thanh tẩy, dù bà biết mình đã cưu mang Đấng Thánh.
Bà
đã dâng lễ vật đơn sơ của một người nghèo (c. 24).
Dù
Luật không buộc, ông bà cũng đem Con lên Đền thờ để dâng.
Họ
muốn con mình thuộc trọn về Thiên Chúa (x. 1 Sm 1, 22).
Ông
bà đã không đòi hỏi một đặc ân hay miễn trừ nào.
Giữ
Luật là cách họ thể hiện tình yêu đối với Chúa.
Có
ai nhận ra đôi vợ chồng với đứa con nhỏ này là ai không?
Có,
một người công chính và sùng đạo tên là Simêon.
Thánh
Thần hằng ngự trên ông (c. 25),
và
nói cho ông biết ông sẽ thấy Đức Kitô trước khi lìa đời (c. 26).
Chính
Thánh Thần thúc đẩy ông lên Đền thờ vào lúc này (c. 27).
Bỗng
nhiên ông thấy mầu nhiệm lớn lao đang tỏa sáng,
nơi
Hài Nhi bé nhỏ, con của đôi vợ chồng nghèo.
Mọi
mong chờ lâu nay của ông được đền đáp.
Các
mục đồng đã nhận ra Đức Kitô nơi bé thơ quấn tã, nằm máng cỏ,
còn
Simêon nhận ra Ngài nơi em bé được bồng ẵm bởi đôi vợ chồng.
Ông
đã bồng Hài Nhi trong vòng tay, ngất ngây vì hạnh phúc.
Môi
ông bật lên lời chúc tụng của người sẵn sàng nhắm mắt ra đi.
Ơn
cứu độ cho muôn dân đã đến đây rồi (cc. 30-31).
Hài
Nhi bé nhỏ này là Ánh sáng cho muôn dân,
là
Vinh quang cho Dân Ítraen của Đức Chúa (c. 32).
Để
nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày,
cần
có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon.
Thánh
Thần như trò chuyện, mách bảo, thôi thúc ông từ bên trong.
Thánh
Thần soi sáng để ông nhận ra điều lớn lao mắt phàm không thấy.
Nhưng
để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần,
chúng
ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon.
Chẳng
còn mơ ước gì ngoài việc được gặp mặt Đức Kitô qua cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ
như tấm bánh nơi nhà Tạm,
nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,
nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người
gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo Hội
gồm những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa cũng ở rất sâu
trong lòng từng kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa
đang tạo dựng cả vu trụ
và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra
Chúa đang hẹn gặp con
nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước đường đời của con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
HÃY NÂNG TÂM HỒN LÊN
29 THÁNG MƯỜI HAI
Đến Gần Bởi Đức Tin
Mầu nhiệm Giáng Sinh
soi sáng chúng ta thấy rõ tiếng gọi mời người Kitôhữu yêu thương anh chị em
mình bằng tình yêu huynh đệ. Đến với nguồn suối ân sủng và yêu thương bất tận
này, chúng ta được mời gọi tiến đến cảm nếm bằng con mắt đức tin và bằng sự
khôn ngoan đích thực.
Sự khôn ngoan cho
chúng ta biết bằng cách nào chúng ta có thể sống như anh chị em của nhau, rút
ra nguồn cảm hứng và năng lực từ mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Thật vậy, khi
chúng ta tiến tới gần Bê-lem hơn, chúng ta thấy Thiên Chúa của mình bé nhỏ biết
bao. Vốn là Đấng cao cả vô hạn, nhưng Ngài đã tự hạ mình xuống làm một đứa trẻ
thấp hèn. Ngài giống chúng ta mọi sự, dù Ngài là Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã tự đồng
hóa với chúng ta và đến ở gần chúng ta quá đỗi! Nếu chúng ta đến với Ngài ở
Bê-lem với lòng đơn sơ và với sự khôn ngoan của những người chăn chiên và những
nhà đạo sĩ ấy, Đức Giêsu sẽ dạy cho ta biết cách đến gần gũi mọi người, bắt đầu
từ những người bé nhỏ thấp hèn nhất – để chúng ta có thể giúp mọi người sống
cho Thiên Chúa.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Hạnh Các Thánh
29 Tháng Mười Hai
Thánh Tôma Becket
(1118 - 1170)
(1118 - 1170)
Là một người kiên quyết
dù có đôi lúc giao động, nhưng sau đó biết rằng không thể hòa giải với tội lỗi,
ngài trở nên một giáo sĩ hăng say, bị tử đạo và được tuyên xưng là thánh -- đó
là cuộc đời Thánh Tôma Becket, Tổng Giám Mục của Canterbury, bị giết ngay trong
vương cung thánh đường của ngài vào ngày 29-12-1170.
Thánh Tôma sinh ở
Luân Ðôn. Ngài theo học ở cả hai trường đại học Luân Ðôn và Ba lê. Sau cái chết
của người cha, ngài bị khánh tận, Ðức Tổng Giám Mục Canterbury, là người đã từng
sai ngài đến Rôma một vài lần, đã cấp dưỡng và cho ngài theo học giáo luật.
Trong khi làm tổng phó
tế cho giáo phận Canterbury, vào lúc 36 tuổi ngài được Vua Henry II, là bạn của
ngài, chọn làm thủ tướng Anh, là nhân vật quyền thế thứ nhì trong nước, chỉ sau
vua. Ngài nổi tiếng vì lối sống xa hoa và phung phí, nhưng khi Vua Henry chọn
ngài làm giám mục chính tòa Canterbury thì cuộc đời ngài thay đổi hoàn toàn.
Ngài được thụ phong linh mục chỉ một ngày trước khi được tấn phong giám mục. Và
ngài quyết liệt thay đổi đời sống bằng sự khổ hạnh. Không bao lâu, ngài đụng độ
với vua về vấn đề quyền lợi của Giáo Hội và hàng giáo sĩ.
Vua Henry nhất quyết nắm
lấy quyền điều khiển Giáo Hội. Có khi, vì cố giữ hòa khí, Ðức Tổng Tôma phải
nhượng bộ. Ngài tạm thời chấp nhận Hiến Chương Clarendon, không cho phép giáo
sĩ được xét xử bởi một toà án của Giáo Hội và ngăn cản họ không được trực tiếp
kháng án lên Rôma. Nhưng sau cùng Ðức Tổng Giám Mục Tôma tẩy chay Hiến Chương
này, ngài trốn sang Pháp và sống ở đó trong bảy năm. Khi trở về Anh ngài biết
mình sẽ bị chết. Vì ngài từ chối không miễn tội cho các giám mục được vua sủng
ái, vua Henry đã tức giận kêu lên, "Không có ai đưa tên giáo sĩ rắc rối
này khuất mắt ta hay sao!" Bốn hiệp sĩ đã thể hiện lời nguyện ước của vua,
và đã hạ sát Ðức Tổng Giám Mục Tôma ngay trong vương cung thánh đường
Canterbury.
Chỉ trong vòng ba năm
sau, Ðức Tôma được phong thánh và ngôi mộ của ngài trở nên nơi hành hương.
Chính Vua Henry II đã ăn năn sám hối tại ngôi mộ Thánh Tôma, nhưng người kế vị
là Henry VIII đã chiếm đoạt ngôi mộ ấy và tẩu tán các thánh tích của ngài. Tuy
nhiên, Ðức Tôma Becket vẫn là một thánh nhân anh hùng trong lịch sử Giáo Hội
cho đến ngày nay.
Lời Bàn
Không ai có thể trở
nên thánh mà không phải chiến đấu, nhất là với chính bản thân. Thánh Tôma biết
ngài phải giữ vững lập trường khi bảo vệ đức tin và quyền lợi Giáo Hội, dù có
phải hy sinh mạng sống. Chúng ta cũng phải giữ vững lập trường khi đối diện với
những áp lực -- chống với sự bất lương, gian dối, hủy diệt sự sống -- mà hy
sinh tham vọng muốn nổi tiếng, muốn đầy đủ tiện nghi, muốn được thăng quan tiến
chức và ngay cả muốn giầu của cải.
Trích từ
NguoiTinHuu.com
29 Tháng Mười Hai
Hoàng Tử Và Cậu Bé Nghèo
Văn hào Anh Mark
Twain cách đây ba thế kỷ, có viết một quyển tiểu thuyết mang tựa đề "Hoàng
tử và cậu bé nghèo". Chuyện kể lại tình bạn của hai cậu bé giống hệt nhau
khiến người ta tưởng là sinh đôi. Một trong hai cậu bé tên là Edward, hoàng tử
xứ Galles. Còn Tom Canty, người bạn của vị hoàng tử, lại là một cậu bé con nhà
nghèo.
Một ngày kia, hai cậu
bé có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào thế chỗ của vị
hoàng tử Edward trong triều đình, còn Edward thì khoác lên mình mảnh áo rách rưới
và bắt đầu cuộc phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ bên cạnh những người
cùng cực nhất trong xã hội.
Thế nhưng một lúc
nào đó, hai cậu bé cũng cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu lưu này. Edward
mới sực tỉnh về ngôi vị hoàng tử của mình. Trong bộ quần áo rách rưới nhơ bẩn,
cậu tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng mình là hoàng tử nối ngôi của xứ Galles.
Nhưng cảnh sát đã không tin... Thế là hoàng tử Edward đành phải lặng lẽ bước
vào tù vì tội giả mạo.
Giữa lúc Tom, cậu
bé nghèo, sắp sửa được tấn phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất hiện...
Không mấy chốc cậu đã được phục hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu. Chính nhờ
kinh nghiệm của những tháng ngày làm người ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ
với những người cùng khổ, mà Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và giàu
lòng thương người.
Cũng giống như câu
chuyện trên đây, Thiên Chúa đã đến giữa loài người để hoán đổi vị thế với chúng
ta. Ngài mặc lấy thân xác nghèo hèn của chúng ta để chúng ta được mang lấy tước
phẩm được làm con Chúa. Nhờ ân sủng của Ngài, Ngài chia sẻ với chúng ta sự sống
thần linh và đón nhận trong thân xác Ngài tất cả những hệ lụy của kiếp sống khổ
đau của con người.
Mang lấy trong thân
xác Ngài khổ đau của nhân loại, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với từng người,
nhất là những người khổ đau. Ðồng hóa mình với những người đau khổ, Chúa Giêsu
vạch ra cho chúng ta con đường để gặp gỡ Ngài: Ngài hiện diện trong những đau
khổ, bé mọn nhất. Tiếp rước những người đó chính là tiếp rước Ngài.
Thiên Ðàng là một gặp
gỡ triền miên với Chúa, nhưng cuộc gặp gỡ này chỉ được chuẩn bị bằng những gặp
gỡ của chúng ta với tha nhân, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúng ta khước từ tha
nhân, chúng ta cũng khước từ chính Chúa. Tha nhân là Bí Tích của Thiên Chúa.
Chính trong tha nhân mà chúng ta phải nhận ra và yêu mến Chúa.
Nơi bàn thờ, vị linh mục
đọc lại lời của Chúa Giêsu: này là Mình Ta, này là Máu Ta... Khi chỉ cho chúng
ta mỗi một con người, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ nói: "Này là Mình
Ta...".
Thánh lễ là một cuộc gặp
gỡ với Chúa. Cuộc gặp gỡ này chỉ có ý nghĩa và giá trị nếu trong cuộc sống hằng
ngày, chúng ta cũng biết nhận ra Chúa trong từng cuộc gặp gỡ với tha nhân...
Xin Chúa thêm Ðức Tin để chúng ta có thể nhận ra Chúa Giêsu trong tha nhân, nhất
là những người cùng khổ, bé mọn trong xã hội.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét