Trang

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

13-10-2013 : (phần 2) CHÚA NHẬT XXVIII MÙA THƯỜNG NIÊN năm C

CHÚA NHẬT 13/10/2013
Chúa Nhật 28 Quanh Năm Năm C
(Phần II)

Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXVIII Quanh Năm C, ngày 13.10.2013
CHÚA NHẬT XXVIII QUANH NĂM, NĂM C
Sách Các Vua quyển thư II 5.14-17; Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi Timôtê  2.8-13
 và Phúc Âm Thánh Luca 17. 11-19
I.                   Giáo Huấn P.Â.:   
Thế giới loài người tội lỗi như những người mắc bệnh phong cùi: Họ bị trở nên xấu xa, ô uế và bị từ chối quyền hiệp thông trong gia đình Thiên Chúa.
Chúa Giêsu, Người của Thiên Chúa, được sai đến trần gian như vị cứu tinh để chữa lành thế giới tội lỗi. Muốn được chữa lành phải tin Chúa Giêsu là Vị Cứu Thế và phải kêu cầu “Lạy Chúa Giêsu, xin dủ lòng thương xót chúng tôi!”
Chúa Giêsu đến với người tội lỗi để mang con người trở lại tình trạng tốt lành nguyên thuỷ: trong sạch và được hoàn trả lại tình trạng làm con Thiên Chúa, sống trong Gia đình Thiên Chúa.
Con người phải ý thức thân phận tội lỗi của mình để kêu Chúa cứu chữa. Một khi đã được chữa lành, phải biết cúi đầu cảm nhận và tri ơn Chúa.
II.        Vấn nạn P.Â.    
Ý nghĩa chuyện tiên tri Elisha và tướng Naaman, người phong cùi xứ Aram trong bài đọc một lấy từ sách các Vua quyển II.
 Tiên tri Elisha:  Tiên tri Elisha là con trai của Shaphat, người vùng Abel-Meholah. Elisha được chọn làm môn đệ của Đại Tiên Tri Elia đang khi Ông nầy đang cày ruộng với 12 con bò. Elia chọn Elisha bằng cách ném chiếc áo choàng lên Elisha, như dấu chỉ thừa hưởng quyền làm tiên tri. Elisha giết bò và lấy cày làm củi để nấu thức ăn đãi tiên tri Elia.  Sau khi Elia được cất về trời trong cơn gió lốc. Elisha đóng vài trò làm tiên tri cho Do Thái suốt 60 năm từ năm 892-832 trước Công nguyên như trong Sách Các Vua quyển II ghi lại ở chương 5.8.
Elisha kế thừa sự nghiệp tiên tri của Elia và nổi tiếng với những việc lạ thực hiện nhân danh Thiên Chúa Giavê như sau:
Elisha đã trả ơn cho bà goá thành Sarepta bằng cách cho dầu ăn trong bình chứa nhà bà không bao giờ cạn như được ghi lại trong sách các Vua quyển II chương 4:1-7.  Tiên tri đã cho con trai người đàn bà xứ Shunam được sống lại như được ghi trong sách các Vua quyển II chương 4.38-41. Nhất là tiên tri đã chữa tướng Naaman, người Aram khỏi bệnh phong cùi bằng cách bảo ông tắm bảy lần trong giòng sông Jordan như được ghi lại trong sách các Vua quyển II chương 5.1-19. Khi quân đội vua Giêhôram lâm cảnh khát nước trần trọng, tiên tri đã cầu cho mưa rơi xuống có nước cho toàn quân uống thoả thuê như ghi lại trong Sách các Vua quyển II chương 3.9-20. Tiên tri đã làm phép lạ biến hai mươi ổ bánh nuôi một trăm người ăn uống phủ phê.
Bài đọc I một hôm nay, chuyện tiên tri Elisha chữa tướng Naaman khỏi bệnh phong cùi có một tương quan rất gần với ý nghĩa của bài Phúc Âm Thánh Luca, việc Chúa chữa lành mười người phong cùi.


Tướng Naaman đã tìm đến với tiên tri Elisha và đã được khỏi bệnh cùi. Ông ta đã phải tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa nơi con người của Chúa là tiên tri Elisha. Ông đã phải vâng theo lệnh của tiên tri và xuống tắm bảy lần trong giòng sông Giôđan, cho dù nước của sông nầy không sạch bằng sông Damacus bên xứ Ông. Tướng Naaman dìm người bảy lần trong giòng sông Giôđan và da thịt ông trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Tướng Naaman đã tuyên tín rằng: Không đâu có Thiên chúa ngoại trừ ở Do Thái.

Naaman được sạch bệnh phong cùi không phải vì nước sông Jordan.  Nước sông Jordan chỉ là một phương tiện Thiên Chúa dùng để làm cho Naaman được sạch. Đi tắm bảy lần tại sông Jordan, giúp Naaman diễn tả thái độ tin tưởng cần thiết để có thể lãnh nhận ơn Thiên Chúa. Nếu Naaman không có thái độ thần phục tin tưởng nầy qua việc đi tắm như tiên tri yêu cầu, thì ông không thể khỏi bệnh. Nước sông Jordan và lòng tin phải có, đã giúp Naaman được lành bệnh.

Trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót và chữa lành mười người phong cùi vì họ đã van xin “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Lời van xin của mười người phong cùi bộc lộ niềm tin nơi Chúa Giêsu là người của Thiên chúa, là Đấng có thể chữa lành bệnh tật, là Đấng sẽ làm cho họ được thanh sạch và hoàn trả họ lại cuộc sống trong cộng đoàn dân Thánh Chúa.

Người ta thường giải thích rằng: ý chính của bài Phúc Âm chữa mười người phong cùi là bài học về lòng biết ơn vì chỉ có một người trở lại sấp mình dưới chân chúa và tạ ơn Ngài. Chình Chúa đã hỏi “Không phải tất cả mười người được khỏi bệnh sao? Còn chín người kia đâu sao không thấy trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại này?”

Tôi không nghĩ rằng giáo huấn về lòng biết ơn hay tri ơn là chủ đề hay trọng tâm giáo huấn của Phúc Âm hôn nay. Nhưng là niềm tin vào Chúa Giêsu, là người của Thiên Chúa, là Đấng cứu thế, Đấng có thể làm cho con người khỏi bệnh tật và mang con người trở lại tình trạng trong sạch buổi ban đầu. Đây là trọng điểm của Giáo Huấn, vì:

Bài Phúc Âm hôm nay nối tiếp bài phúc âm Chúa Nhật 27 quanh năm của tuần vừa qua, Phúc Âm Luca 17.5-10 nói về lòng tin nhỏ bé chỉ cần bằng hạt cải cũng có thể làm những chuyện chuyển núi dời non. Việc chuyển núi dời non không là chuyện con người làm được, nhưng là chuyện của Thiên chúa quyền năng, Chúa thực hiện vì con người có lòng tin vào Chúa. Vì Chúa làm tất cả, nên con người phải nhìn nhận mình chỉ là đầy tới vô dụng.

Phúc Âm hôm nay, chương 17 từ câu 11-19, nói về niềm tin của mười người phong cùi, niềm tin họ chỉ bằng hạt cải được thể hiện qua lời kêu xin thành khẩn “Lạy Thầy Giêsu, xin thương cứu chúng con!” Niềm tin nhỏ bé nhưng bày tỏ đúng lúc, đúng người và đúng trọng điểm của đức tin “Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng Cứư Thế!
Tôi không chối bỏ bài học về lòng tri ơn Thiên Chúa trong bài Phúc Âm mười người phong cùi được chữa lành. Nhưng bài học về lòng tri ơn không là trọng tâm của giáo huấn. Hơn nữa, lòng biết ơn nầy phải được thực hiện bằng việc: quay lại, sấp mình dưới chân Chúa và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, tức chân nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và mình đã được nhận lãnh ơn ứu độ. Ơn cứu độ là được tha tội và được hoàn trả lại tình trạng ân sủng, tức tình trạng nghĩa tử lúc ban đầu. Nếu so sánh lòng biết ơn với Đức Mến, thì phải cần có Đức Tin: Tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và cảm tạ ơn Ngài vì ơn cứu độ Ngài ban cho chúng ta. Nên lòng biết ơn hay đức mến đến sau và làm trọn vẹn cho Đức tin vào Chúa Giêsu “Lạy Thầy Giêsu, xin thương cứu chúng con!”
Luật liên quan tới sạch và dơ được qui định trong sách Lêvi Lv 13,18-59
Tư Tế có quyền thẩm định bệnh phong cùi cũng như sạch và dơ
Sách Lêvi chương 13,18-23 nói: “Khi thịt có ung nhọt trên da mà đã lành, nhưng nếu nơi mọc ung nhọt lại có mụt trắng hay đốm trắng hoe đỏ, người ấy sẽ để tư tế xem bịnh. Tư tế xem bịnh và nếu thấy nó có vẻ lõm hơn nền da, và lông đã hóa trắng, tư tế sẽ tuyên bố nó dơ: đó là vết thương bịnh phong đã lở lói trong ung nhọt. Nếu tư tế xem vết thương và thấy trong đó không có lông trắng và không lõm hơn nền da, và nó đã sạm lại, tư tế sẽ giam cứu người ấy bảy ngày. Nếu nó cứ lan trên da, tư tế sẽ tuyên bố nó dơ: đó là vết thương. Nhưng nếu đốm ấy dừng lại không lan, đó là sẹo của ung nhọt! Tư tế sẽ tuyên bố người ấy sạch.
Sách Lêvi Chương 13, từ câu 24-28 nói:” Khi da thịt bị lửa phỏng và vết thương phỏng sinh thịt non làm thành đốm trắng hoe đỏ hay toàn trắng nhợt, tư tế xem bịnh và nếu thấy lông hóa trắng trên đốm và hình như lõm sâu hơn nền da: đó là phong lở lói nơi vết phỏng! Tư tế sẽ tuyên bố nó dơ: đó là vết thương bịnh phong! Nhược bằng tư tế xem bịnh và thấy nơi đốm không có lông trắng cũng không lõm hơn nền da và nó đã sạm lại, tư tế sẽ giam cứu người ấy bảy ngày. Ngày thứ bảy, tư tế xem bịnh nó. Nếu thực đốm lan trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy nhơ: đó là vết thương bịnh phong! Còn nếu đốm dừng yên không lan trên da, nhưng đã sạm lại: đó là mụt vì phỏng! Tư tế sẽ tuyên bố là người ấy sạch, vì đó là sẹo vết phỏng.
Sách Lêvi Chương 13, từ câu 29-37 nói: Khi người đàn ông hay đàn bà nào có vết thương nơi đầu hay nơi cằm, tư tế sẽ xem vết thương và nếu thấy hình như nó sâu hơn nền da và lại có lông hoe vàng trong đó và mịn, tư tế sẽ tuyên bố người ấy dơ: đó là chốc; đó là chứng phong nơi đầu hay nơi cằm! Khi tư tế xem vết thương chốc và nếu thấy hình như không sâu hơn nền da và không có lông đen trong đó, tư tế sẽ giam cứu người có vết thương chốc bảy ngày. Ngày thứ bảy, tư tế sẽ xem vết thương và nếu thấy chốc không lan và nơi đó không có lông hoe vàng và chốc hình như không sâu hơn nền da, người ấy sẽ cạo đầu, cằm, nhưng không cạo chốc. Và tư tế sẽ giam cứu người bị chốc bảy ngày nữa. Ngày thứ bảy tư tế sẽ xem vết chốc và nếu thấy chốc không lan trên da và hình như nó không sâu hơn nền da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy sạch. Người ấy sẽ giặt áo sống đi và được sạch. Nhưng nếu khi tẩy uế rồi, chốc cứ lan ra thực, 36tư tế xem bịnh nó và nếu chốc lan trên da, tư tế sẽ không cần xem có lông hoe vàng hay không: người ấy nhơ! Nhưng nếu theo mắt ngài thấy, chốc ngừng yên và có lông đen mọc trong đó, thì chốc đã lành: người ấy đã sạch và tư tế tuyên bố người ấy sạch.
Sách Lêvi chương 13, từ cầu 45-59 nói về qui chế cách ly dành cho người bị bệnh phong cùi và thiêu huỷ những vật dụng liên quan đến bệnh phong cùi “Người bị bịnh phong có vết thương nơi mình, thì áo xống phải xé tả tơi, đầu để tóc rối che mình đến râu mép và kêu: nhơ,  nhơ! Bao nhiêu ngày còn mang vết thương nơi mình, người ấy mắc uế, nó nhơ, nó sẽ ở riêng một mình, chỗ nó ở phải để bên ngoài trại. Khi áo mà có vết thương phong hủi, dù là nơi áo len hay áo vải, nơi sợi dọc hay sợi ngang của tấm vải hay tấm len, nơi da hay nơi vật gì bất cứ làm bằng da, nếu có vết thương xanh xanh hay đo đỏ nơi áo, nơi da, nơi sợi dọc sợi ngang hay nơi đồ gì bất cứ bằng da: Đó là vết phong hủi: người ta sẽ tỏ cho tư tế xem. Tư tế sẽ xem xét vết thương ấy và giam cứu vật có vết thương bảy ngày. Ngày thứ bảy ngài sẽ xem xét vết thương, nếu thấy vết thương loang ra nơi áo, nơi sợi ngang hay sợi dọc, nơi da và vật gì bất cứ làm bằng da, vết thương ấy là phong hủi dễ lây: Đó là vật dơ. người ta sẽ đốt đi, áo hay sợi ngang sợi dọc len hay vải hay đồ đoàn gì bất cứ bằng da mà có vết thương ấy: Đó là phong hủi dễ lây! Phải phóng hỏa nó đi! Đó là phòng loan lở, ngươi sẽ phóng hỏa vật có vết thương ấy! Áo hay sợi ngang sợi dọc hay đồ gì bất cứ bằng da, ngươi giặt rồi và vết thương đã biến, người ta giặt nó lần nữa và nó là sạch. Đó là luật về vết thương phong hủi nơi áo len hay áo vải, hay sợi ngang sợi dọc hay đồ gì bất cứ bằng da, để tuyên bố nó là sạch hay là dơ ".
Luật liên quan tới sạch và dơ trong Sách Lêvi được áp dụng triệt để trong thời Chúa Giêsu. Phúc Âm nói “Lúc Người vào một làng kia thì có mười người phong cùi đón gặp Người. Họ đứng lại đàng xa và kêu lớn tiếng “Lạy Thầy Gisêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi! Thấy vậy, Đức Chúa Giêsu bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế!”
Người phong cùi bị coi như dơ bẫn, ô uế, phải sống xa người lành sạch. Họ ăn mặc rách rưới và trên tay luôn có chuông để báo động “dơ bẩn!” cho mọi người xa tránh họ. Họ đứng từ đàng xa kêu cầu Chúa Giêsu cứu họ. Chúa Giêsu đã bảo họ “Hãy đi trình diện với các thầy tư tế!” Thầy tư tế có quyển thẩm định bệnh cùi và tuyên bố ai sạch và ai dơ là vì: Có bệnh, có nghĩa là có tội. Có bệnh có nghĩa là bị loại khỏi sinh hoạt cộng đoàn. Linh mục trong thời Cựu Ước là người có quyền tuyên bố người mắc bệnh hay khỏi bệnh, người nào sạch hay kẻ nào dơ, người nào được quyền trở lại sống chung trong cộng đoàn và người nào không.
Đau khổ tinh thần của người bị bệnh phong cùi: bị khai trừ khỏi cộng đoàn nhân loại và bị xếp vào hạng dơ bẫn, bị mọi người xa tránh.
Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, như tiên tri Elisa trong bài đọc một trích từ sách các vua. Họ tin tưởng kêu Chúa cứu chữa. Chúa chữa người phong cùi khỏi bệnh, có nghĩa là phục hồi quyền chung sống trong cộng đoàn nhân loại. Cùng một cách thức, Chúa cứu chúng ta khỏi tội lỗi và dơ bẩn. Ngài trả lại cho chúng ta tình trạng sạch sẽ như thuở ban đầu và phục hồi quyền làm con Thiên chúa, sống trong cộng đoàn Dân Thánh chúa.
Chúa Giêsu chữa bao nhiêu người phong cùi?
Sao Ngài không chữa hết tất cả người phong cùi thời ấy?

Người ta có thể liệt kê được tất cả 34 phép lạ Chúa Giêsu thực hiện. Trong số nầy có hai phép lạ chữa lành những nạn nhân phong cùi:
Trong Phúc Âm Matthêô 8:1-3 và trong Phúc Âm Thánh Marcô 1:40-42 tường thuật rằng: Sau bài giảng trên núi, đám đông kéo đến với Chúa. Có một người bị bệnh phong cùi đến quì trước Ngài và van xin “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi hết bệnh!” Chúa Giêsu chạm đến người phong cùi và nói “Ta muốn anh khỏi bệnh!” Lập tức bệnh cùi biến mất.
Trong bài Phúc Âm Thánh Luca 17:11-19 hôm nay, Chúa chữa 10 người phong cùi vì họ đã tin Chúa là Đấng cứu thế và kêu cầu “Lạy Thầy Giêsu, xin cứu chữa chúng tôi!” Chúa bảo họ đi trình diện tư tế và tất cả 10 người đã được lành sạch.

Như vậy chỉ có 11 người được chữa khỏi bệnh cùi. Chắc chắn còn hàng ngàn nạn nhân phong cùi khác rất ước mong được chữa lành?  Chúa không chữa lành tất cả nạn nhân phong cùi. Cũng giống như Chúa cũng không cho tất cả những ai chết sống lại, mà chỉ có con trai bà goá thành Naim, con gái Ông Giairô và Lazarô bạn của Chúa.  Lý do:

Phép lạ được thực thi không nhằm mục đích chữa bệnh hay cứu sống phần xác, nhưng nhằm chứng minh rằng:
Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã được các tiên tri loan báo.
Chúa Giêsu là con Thiên Chúa, Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứư con người khỏi tội  và ban cho con người sự sống vĩnh cửu.
Chúa Giêsu không làm vai trò của thầy thuốc chữa bệnh thể lý. Nhưng qua việc chữa bệnh phần xác, Chúa hướng đến việc chữa trị phần tâm hồn mà chúng ta gọi là cứu độ.
Chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện không chỉ với quyền năng phi thường, nhưng với sự hợp tác của các tông đồ, và của các môn đệ Chúa.
Tất cả chúng ta được kêu gọi làm môn đệ Chúa để mang tin mừng cứu độ loan truyền khắp thế gian. Chúng ta có bổn phận tiếp tục thực hiện những phép lạ chữa bệnh tâm linh mà Chúa đã dùng phép lạ chữa bệnh thể lý để chứng minh vai trò cứu nhân độ thế của Chúa và của Giáo Hội.

III.      Thực hành P.Â.:
Xin góm nhặt những mẫu chuyện về lòng tri ơn:
Dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thực hiện
1.                  Có một người đạo đức thật sự và có lòng tin tưởng mạnh mẽ vào tình yêu thương của Chúa.  Một ngày kia, ông bị bọn cướp trấn lột và đêm hôm đó, Ông đã ghi vào nhật ký đời mình những hàng chữ như sau: Hãy luôn cảm tạ ơn Chúa vì:
Mình vẫn còn may mắn chán so với nhiều người! Vì cho đến bây giờ mình mới bị ăn cướp.
Mình vẫn còn may mắn chán so với nhiều người! Vỉ chỉ mất tiền, chứ mạng sống vẫn an toàn.
Mình vẫn còn may mắn chán so với nhiều người! Vì những gì bị ăn cướp là những quà tặng của Chúa cho ta! Bây giờ coi như Chúa tặng cho người tước đoạt chúng từ ta.
Mình vẫn còn may mắn chán so với nhiều người! Vì ta bị ăn cướp chứ ta chưa đến nỗi phải đi ăn cướp!
Chúng ta cần nhận ra nhiều cái may trong cuộc sống để cảm tạ Thiên chúa. Một trong những cái may lớn nhất trong đời là có đức tin vào Thiên Chúa là Đấng sẽ ban ơn cứu độ cho chúngt ta.
2.                  Có một cô gái trẻ xinh đẹp nhưng vô phước bị mủ cả hai mắt. Cô căm ghét bản thân mù loà của mình.  Cô căm ghét tất cả mọi người ngoại trừ người bạn trai của cô. Người bạn trai này luôn bên cạnh cô, chăm sóc và an ủi cô mỗi ngày. Cô đã quả quyết rằng nếu có được một đôi mắt sáng và nhìn được thế giới này thì cô sẽ cưới ngay người bạn trai của mình làm chồng.
Một ngày nọ, có một người đã tặng đôi mắt sáng của mình cho cô gái và cô có thể nhìn thấy tất cả và tất nhiên là thấy được người bạn trai của mình. Người bạn trai của cô đã hỏi cô “Bây giờ em đã nhìn thấy được tất cả, vậy em có bằng lòng lấy anh làm chồng không?” Cô gái đã thật sự bị sốc khi cô nhìn thấy người bạn trai của mình vì anh ta cũng bị mù và cuối cùng … cô đã từ chối và không giữ lời hứa của mình.
Người bạn trai của cô đã ra đi trong nước mắt và sau đó anh viết thư về cho cô gái chỉ với một hàng chữ “HÃY GIỮ GÌN VÀ CHĂM SÓC ĐÔI MẮT CỦA ANH!”.
Không có mấy người nhớ đến cuộc sống cũ của mình:  bất hạnh hay bệnh tật.
Không có mấy người nhớ đến những người đã luôn ở bên cạnh mình, đã nâng đỡ mình trong những lúc khó khăn và thất vọng.
Không có mấy cha xứ đã nhớ đến những người đã giúp đỡ mình từng li từng tí khi mình mới chân ướt chân ráo đến một giáo xứ.
3.      Một em bé trai bị mù, ngồi bên lề đường, với một cái nón đặt gần chân nó. Nó dựng một tấm bảng có ghi như vầy: “Tôi bị mù, xin giúp tôi!”. Trong cái nón của nó, lúc đó chỉ có thưa thớt một vài đồng bạc cắc.
Một người đàn ông đi qua. Ông ta thò tay vào túi, lấy ra vài đồng bạc rồi thả vào cái nón. Sau đó, ông với tay lấy cái bảng, xoay mặt sau ra phía trước và ghi một vài chữ lên đó. Ông để tấm bảng lại chỗ cũ để những ai qua lại có thể đọc được hàng chữ mới ông vừa viết lên đó.
Sau đó cái nón của em bé mù bắt đầu có nhiều tiền. Có nhiều người hơn hồi sáng cho tiền em bé mù này. Buổi chiều hôm ấy, người đàn ông đã đổi hàng chữ trên tấm bảng, quay trở lại tìm đứa bé để xem tình hình ra sao. Đứa bé mù nhận ra bước chân của người đàn ông này và hỏi: “Có phải chính ông đã đổi những hàng chữ trên tấm bảng này? Ông đã viết gì trên tấm bảng vậy?”
Người đàn ông bèn đáp: “Chú chỉ ghi ra sự thật mà thôi. Những gì chú ghi ra trên tấm bảng cũng giống như câu cháu đã ghi, nhưng chỉ theo một cách thức khác thôi” Người đàn ông đã viết trên tấm bảng như sau: “Hôm nay là một ngày đẹp trời nhưng tôi không thấy được”.
Các bạn có nghĩ rằng hàng chữ của em bé mù ăn xin và hàng chữ của người đàn ông có cùng nói lên một ý nghĩa không? Dĩ nhiên, cả hai hàng chữ đều cho người ta biết cậu bé bị mù và xin giùp đỡ. Nhưng hàng chữ thứ nhất chỉ nói rằng đứa bé bị mù, vậy thôi. Nhưng hàng chữ thứ hai nói với mọi người rằng họ thật là may mắn bởi vì họ không bị mù. Bây giờ các bạn có còn ngạc nhiên vì sao hàng chữ thứ hai, do người đàn ông viết, gặt hái nhiều kết quả cho cậu bé mù.
Nhiều khi chúng ta chỉ trình bày gương mặt thểu não hay đôi khi cảm động rưng rưng ngấn lệ để tỏ lòng thương xót người cùng khổ. Có bao giờ chúng ta nghĩ đến một cách thức chạnh lòng thương xót tích cực hơn chăng, chẳng hạn như tiết kiệm chút ít giúp người phong cùi đang sống ẩn mình trong những gia đình vùng sâu vùng xa như Cà Mau, Năm Căn không?
Xin hãy làm một nghĩa cử thương xót tích cực để tỏ lòng tri ơn Chúa vì mình đã được những món quà tặng thật quí báu như: Thân thể lành mạnh, đẹp trai, tốt tướng, làm ăn có tiền, cơm dư ăn, quần áo thừa mứa không chỗ chứa. ... Xoay tấm bảng lại! Hãy viết lên đó đôi hàng chữ liệt kê vài may mắn trong đời mình để nhận ra bao nhiêu ơn lành Chúa ban. Để rồi, quay lại, cúi sâu trước ân tình Chúa và lớn tiếng cảm tạ muôn hồng ân Chúa ban.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên 

THIÊN CHÚA BẤT TẬN TRONG CÔNG TRÌNH THI ÂN GIÁNG PHÚC! (CHÚA NHẬT XXVIII/C)
SUY NIỆM

Tri Ân là tâm tình cao quý nhất của kẻ bé nhỏ khiêm hạ cũng như của bậc quân tử của đấng trượng phu. Tri Ân biểu lộ một nền giáo dục sung mãn giúp con người biết nói lời Cám Ơn trong việc nhỏ cũng như trong việc lớn. Tri Ân không có biên giới cũng không phân biệt tuổi tác giai cấp. Lời tri ân là hương thơm tỏa ra từ môi miệng của người ý thức mình lãnh nhận một ân huệ mà mình không xứng đáng. Một ân huệ nhưng-không đến từ người có lòng tốt. Tri Ân càng cao cả hơn khi được biểu lộ với Đấng là THIÊN CHÚA, là CHA và là Chủ Tể sự sống của muôn vật muôn loài.

THIÊN CHÚA không bao giờ biết đến các giới hạn trong kho tàng phong phú khôn lường và khả năng thi ân vô biên. Không! Tuyệt đối Không! Con người trái lại rất nhỏ bé hạn hẹp và vô cùng tương đối. THIÊN CHÚA thì bất tận trong mọi công trình thi ân giáng phúc. THIÊN CHÚA ban cho con người ơn lành từng giây từng phút và trong mọi hoàn cảnh. Chân Lý này đủ để khuyến khích con người đặt trọn niềm tin tưởng nơi lòng từ bi nhân hậu vô bờ của THIÊN CHÚA. Và nhất là, biết dâng lời cảm tạ tri ân đối với mỗi một món quà, một hồng ân đến từ THIÊN CHÚA.

Mỗi ngày qua từ sáng sớm cho đến lúc chiều tối con người nhận không biết bao nhiêu ơn lành nhưng-không của THIÊN CHÚA. Rồi đi xa hơn. Từ khi mở mắt chào đời cho đến khi tắt thở xuôi tay trở về cùng THIÊN CHÚA con người cũng nhận được trăm trăm triệu triệu hồng ân. Mỗi giây phút trôi qua là một hồng ân sự sống. Nhưng rất thường khi con người sống cách vô tâm vô tình không bao giờ nghĩ đến ơn lành nhận lãnh để cám ơn THIÊN CHÚA và hướng lòng trí lên với Người. Cứ thế hết năm này qua năm khác cho đến khi phải ra đi trình diện trước tòa THIÊN CHÚA và phải tính sổ cùng trả lẽ trước mặt Người. Lúc ấy con người mới nhận ra mình đã hoang phí cuộc đời vì đã không bao giờ nói lời tri ân cũng như đã không sống xứng đáng với bổn phận làm con cái THIÊN CHÚA! Một linh hồn nơi Lửa Luyện Hình đã than thở rằng: ”Giá như chúng tôi chỉ được năm phút đồng hồ mà bạn phí phạm khi quay về với mình và tự hỏi tại sao thế này tại sao thế kia, thì có gì mà chúng tôi đã không làm để bày tỏ lòng tri ân thảo mến đối với Đấng là CHA nhân hậu vô biên?!”

Ngoài hồng ân sự sống, tín hữu Công Giáo còn đặc biệt tri ân vì hồng ân Đức Tin, được thuộc về Giáo Hội Công Giáo, duy nhất, thánh thiện và tông truyền. Nếu Đức Tin được xem như ”tuân phục” thì nó có vẽ bị giới hạn, nhưng trong thực tế Đức Tin được tỏ lộ như một ”đặc ân” một ”món quà” khi tín hữu Công Giáo ý thức về hiện trạng của mình. Thật thế, Đức Thánh Cha Phaolô VI xem Giáo Hội Công Giáo như Cộng Đoàn các hữu-thể được kêu gọi sống trong trật tự thể theo một kế hoạch siêu nhiên. Các tín hữu được hồng phúc thuộc về Giáo Hội Công Giáo sẽ tìm thấy nơi Giáo Hội định mệnh riêng của mình, lý do hiện hữu của mình, lời mời gọi chu toàn một sứ vụ và nhất là có niềm hy vọng trong cuộc sống. Trong Giáo Hội Công Giáo không ai bị lạc hướng, bị tuyệt vọng. Bởi vì, chính qua Đức Tin mà THIÊN CHÚA dẫn đưa con người đi từ bóng tối tiến về ánh sáng. Đây là lý do thúc đẩy các tín hữu Công Giáo luôn luôn sống trong tâm tình cảm tạ tri ân THIÊN CHÚA ngày qua ngày.

Xin kết thúc tâm tình tri ân với Thánh Vịnh 1 phác họa hai con đường mà mỗi tín hữu Công Giáo chân chính biết rõ phải chọn cho mình lối sống nào để đẹp lòng THIÊN CHÚA và để biểu lộ lòng tri ân Người.

Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân,
chẳng bước vào đường quân tội lỗi,
không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng,
nhưng vui thú với lề luật Chúa,
nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày.
Người ấy tựa cây trồng bên dòng nước,
cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh,
cành lá chẳng khi nào tàn tạ.
Người như thế làm chi cũng sẽ thành.
Ác nhân đâu được vậy:
chúng khác nào vỏ trấu gió thổi bay.
Nên ngày xử án, bọn ác nhân làm sao đứng vững,
quân tội lỗi đâu được đoàn tụ với chính nhân!
Vì Chúa hằng che chở nẻo đường người công chính,
còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ diệt vong.

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt (radiovaticana.va)


Lectio: Chúa Nhật XXVIII Thường Niên (C)

Chúa Nhật, 13 Tháng 10, 2013
Mười người phong cùi:
Lòng biết ơn về món quà cho không của ơn cứu rỗi
Lc 17:11 –19 

Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa, trong khi Chúa vẫn còn đi ngang qua đất nước của chúng con, ngày nay Chúa đã dừng lại nơi đây và đã vào làng của con, bước vào nhà con, vào trong đời sống của con.  Chúa đã không ngần ngại, Chúa đã không khinh khi về tội lỗi tày trời của con; thế mà thậm chí Chúa còn yêu thương con hơn nữa.  Ôi lạy Thầy Chí Thánh, con chỉ dám đứng ở đàng xa, cùng với anh chị em con là những người cùng đồng hành với con trên thế gian này.  Con cất cao tiếng và kêu xin Chúa; con cho Chúa xem những vết thương của tâm hồn con.  Con khẩn cầu Chúa, xin Chúa hãy chữa lành con với thần dược của Chúa Thánh Thần, xin ban cho con thuốc chữa thật sự từ Lời Chúa; chẳng có gì có thể chữa khỏi con, mà duy chỉ có Chúa, vì Chúa là Tình Yêu…   

1.  Tôi đọc Lời Chúa 
a)  Phúc Âm:

11 Khi Chúa Giêsu trên đường đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa.  12 Khi Người vào một làng kia, thì gặp người phong cùi đang đứng ở đàng xa, 13 họ cất tiếng thưa rằng:  “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi.”  14 Thấy họ, Người bảo họ rằng:  “Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế.”  Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch.  15 Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, 16 rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người.  Mà người ấy lại là người xứ Samaria.  17 Nhưng Chúa Giêsu phán rằng:  “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu?  18 Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này.”  19 Rồi Người bảo kẻ ấy rằng:  “Ngươi hãy đứng dậy mà đi: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi.”

b)  Bối cảnh

Đoạn Tin Mừng này đưa chúng ta vào trong giai đoạn thứ ba của con đường Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem; bấy giờ mục tiêu đến đã gần kề và Thầy giục giã các môn đệ mạnh mẽ hơn, đó là, chúng ta cùng theo Người tiến về thành thánh, trong mầu nhiệm của ơn cứu độ, mầu nhiệm của tình yêu.  Đoạn Tin Mừng chỉ được thi hành qua đức tin, được nuôi dưỡng bởi lời cầu nguyện phó thác, khẩn cầu, không ngơi nghỉ và mãnh liệt; chúng ta thấy được điều này khi chúng ta đọc qua các chương trước và chương sau đoạn này (17:6; 17:19; 18:7-8; 42).  Những lời này mời gọi chúng ta tự nhận mình là những người phong cùi, trở nên trẻ nhỏ (Lc 18:15-17) và người thủ lãnh giàu có đã hoán cải và nhận lãnh ơn cứu rỗi trong nhà của mình (Lc 18:18 và kế tiếp); nếu chúng ta thật sự chấp nhận những điều này và giữ gìn chúng như trong cách đem chúng vào đời sống thực hành, cuối cùng chúng ta cũng sẽ có thể đi đến Giêricô (19:1) và từ đó bắt đầu đi lên núi Ôliu với Chúa Giêsu (19:28), tiến đến vòng tay vui mừng của Đức Chúa Cha.

c)  Cấu trúc:

Câu 11:  Chúa Giêsu đang trên đường đi và đi ngang qua biên giới Samaria và Galilê; chút từng chút, Người tiến gần đến Giêrusalem, không có nơi nào mà Người không thăm viếng, không có điều gì mà Người không để mắt đến với lòng thương xót và tình yêu mến.
Các câu 12–14a:  Chúa Giêsu vào một làng kia, nó không có tên, bởi vì đó là nơi, nó là đời sống của tất cả mọi người và ở đó Chúa đã gặp mười người phong cùi, những người mắc bệnh nan y, đang chết dần mòn, bị xa lánh và sống cách ly, bị hất hủi và xem thường.  Ngay lập tức, Đức Giêsu chấp nhận lời cầu nguyện của họ, tiếng kêu van từ trái tim, mời gọi họ đi vào Giêrusalem và họ không còn phải ở đằng xa nữa, mà hội nhập vào Trái Tim của Thành Thánh, đền thờ và các thày tư tế.  Người mời họ trở lại nhà Chúa Cha.
Câu 14b:  Những người phong cùi mới bắt đầu cuộc hành hương về Giêrusalem, và họ đã được chữa lành, họ trở nên những con người mới.
Các câu 15-16:  Nhưng chỉ có một người trong bọn họ quay trở lại tạ ơn Chúa Giêsu:  dường như chúng ta có thể thấy anh ta chạy nhảy với niềm vui sướng.  Anh ta lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, và sấp mình phủ phụcthờ lạy dưới chân Thánh Thể.
Các câu 17-19:  Chúa Giêsu chữa lành cho mười người, chỉ có một người quay lại, mà người ấy lại người xứ Samaria, một người không thuộc về Dân Riêng của Chúa:  trên thực tế, ơn cứu độ là cho tất cả mọi người, cũng cho cả những người ở xa, khách ngoại kiều.  Không ai bị loại trừ khỏi lòng yêu thương của Chúa Cha, Đấng đáng được tạ ơn nhờ đức tin.

2.  Suy gẫm Lời Chúa

a)  Tôi đi vào trong thinh lặng:

Lời mời gọi này đã rõ ràng trong lòng tôi:  Tình yêu của Chúa Cha đang chờ đợi tôi, giống như người Samaria duy nhất quay trở lại, tràn đầy hân hoan và lòng biết ơn.  Thánh thể chữa lành của tôi đã sẵn sàng; căn phòng phía trên lầu đã được trang hoàng, bàn ăn đã được bày biện, con bê đã được làm thịt, rượu đã được đổ vào ly… nhà của tôi đã được chuẩn bị sẵn sàng.  Tôi chăm chú đọc lại đoạn Tin Mừng, chậm rãi, dừng lại trên những chữ, trên các động từ; tôi dõi theo cử động của các người phong cùi, tôi lập lại những lời ấy, nhận các lời ấy như là của tôi, tôi cũng di động, tiến tới cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu.  Và tôi đã để bản thân mình được hướng dẫn bởi Chúa, tôi lắng nghe tiếng nói của Người, mệnh lệnh của Người.  Tôi cũng đi về Giêrusalem, về đền thánh, đó là trái tim tôi, và trong cuộc hành hương này tôi suy nghĩ về tất cả tình yêu mà Đức Chúa Cha đã dành cho tôi.  Tôi để cho mình được bảo bọc trong vòng tay yêu thương của Người, tôi cảm nhận được sự chữa lành của linh hồn tôi…  Và bởi vì điều này, trong niềm hân hoan, tôi đứng lên, quay lưng, chạy về hướng nguồn hạnh phúc thật sự đó là Chúa.  Tôi chuẩn bị bản thân mình để cảm tạ Người, ca tụng Người một bài ca mới về tình yêu tôi dành cho Người.  Tôi sẽ dâng lên Chúa những gì để đáp trả lại tất cả mọi điều Người đã ban cho tôi đây? …   

b)  Tôi xem xét sâu xa hơn một số thuật ngữ:

Trong cuộc hành trình:  Bằng vào ngôn ngữ Hy Lạp xinh đẹp của mình, thánh Luca nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu đang tiếp tục con đường của Người hướng về Giêrusalem và ông xử dụng một động từ rất mạnh mẽ và đẹp, ngay cả khi rất phổ biến và được dùng tới nhiều.  Chỉ riêng trong phạm trù của đoạn Tin Mừng này, nó xuất hiện ba lần:
Câu 11:  trên đường đi
Câu 14:  đi
Câu 19:  đang đi
Nó là một động từ về việc chuyển dịch rất mạnh mẽ, thể hiện đầy đủ tất cả các năng động thích hợp của sự di chuyển; nó có thể được phiên dịch với tất cả những sắc thái hoặc âm điệu sau đây:  tôi đi, tôi đi đến, tôi rời, tôi đi từ một nơi này đến một nơi khác, tôi đi qua, tôi đi theo.  Và thậm chí hơn nữa, nó còn có ý nghĩa của vượt qua, lội, vượt khỏi, khắc phục những trở ngại.  Và Chúa Giêsu, người ngược xuôi đây đó, người khách hành hương không mệt mỏi:  Chúa là Người đầu tiên rời khỏi nhà của Người ở trong lòng Chúa Cha, và xuống thế làm người cùng chúng ta, để hoàn thành cuộc xuất hành vĩnh cửu của công cuộc cứu rỗi và giải phóng chúng ta.  Người biết mọi nẻo đường đi, mỗi con đường của nhân loại; không có một đoạn đường nào chưa khám phá hoặc không thể vượt qua đối với Người.  Đây là lý do tại sao Người mời gọi chúng ta cũng bước đi, di chuyển, vượt qua, tự đặt mình trong tình trạng của một cuộc ra đi liên tục.  Để cuối cùng, chúng ta cũng có thể quay về, cùng với Người, và cùng tiến bước về nhà Chúa Cha.

Vào một làng kia:  Chúa Giêsu đi qua, ngang qua, bước qua, di chuyển và đến với chúng ta; có lần, rồi sau đó, Người quyết định đi vào, dừng lại một thời gian lâu hơn.  Như câu chuyện xảy ra, Luca dừng lại trên một sốchi tiết và viết rằng Chúa Giêsu đi vào một ngôi làng.  Để đi vào, trong ý nghĩa của Kinh Thánh, có nghĩa là thâm nhập, đây là lối vào trong nội tâm, có hàm ý chia sẻ và tham gia.  Một lần nữa, chúng ta thấy mình đối diện với một động từ rất phổ biến và rất phổ dụng;  chỉ nội trong sách Phúc Âm Luca nó xuất hiện rất nhiều lần và cho thấy rõ ràng ý định của Chúa Giêsu muốn đến gần với chúng ta, để trở thành một người bạn và để biểu lộ tình yêu của Người.  Người không coi thường hay hắt hủi bất cứ lối vào nào, bất cứ một sự hiệp thông nào.  Người vào nhà của người phong cùi Simon (4:38), đi vào nhà người Biệt Phái (7:36 và 11:37), rồi vào nhà ông trưởng hội đường (8:51) và của người thu thế Da-kêu (19:7).  Người tiếp tục đi vào lịch sử loài người và tham dự, cùng ăn uống, cùng chịu đau khổ, than khóc và vui mừng, chia sẻ mọi thứ.  Như chínhNgười đã nói, chỉ cần mở cửa thì Người sẽ vào trong nhà (Kh 3:20), và Người sẽ ở lại (Lc 24:29).

Mười Người Phong Cùi:  Tôi tự hỏi tình trạng con người này thực sự có ý nghĩa gì, căn bệnh được gọi là phong cùi này.  Tôi bắt đầu với văn bản của Kinh Thánh tả luật lệ dành cho người bị phong cùi ở Israel.  Đó là: “Bất cứ ai bị một căn bệnh truyền nhiễm về da sẽ phải mặc áo rách và xõa tóc; và sẽ phải che miệng và kêu lớn tiếng:  “Ô uế, ô uế!”  Ngày nào còn bệnh, người ấy sẽ bị xem như là ô uế, và là ô uế, người ấy phải sống riêng, sẽ phải ở một nơi bên ngoài trại”.  (Lv 13:45-46).  Vì vậy, tôi hiểu rằng người bị bệnh phong cùi là một người bị đánh đập, thương tổn, hành hạ: điều gì đó đã xảy ra với người ấy bằng bạo lực, sức mạnh và đã để lại trong người ấy dấu hiệu của đau đớn, một vết thương.  Anh ta là một người buồn rầu, trong nỗi thống khổ triền miên, vì nó được cho thấy qua hình ảnh quần áo tả tơi và đầu bù tóc rối; anh ta phải che miệng vì không có quyền nói, hay gần như không được phép hít thở ở giữa những người khác:  anh ta có khác chi một người đã chết.  Người ấy không được phép thờ phượng Chúa, không được bước vào Đền Thờ, hoặc đụng chạm đến những vật thánh.  Người ấy là một kẻ bị tổn thương hoàn toàn, một người bị thiệt thòi, bị loại trừ, bị gạt sang một bên, sống trong cô độc.  Bởi vì tất cả mọi điều này, mười người phong cùi đi gặp Chúa Giêsu, đã dừng lại ở khoảng cách xa và thưa chuyện với Người từ đàng xa, hét lên nỗi đau đớn, nỗi tuyệt vọng của họ.

Lạy Thầy Giêsu:  Lời kêu này, lời cầu nguyện này của những người phong cùi thật là đẹp.  Hơn hết cả, họ gọi Chúa bằng tên, như giữa những bằng hữu gọi nhau.  Có vẻ như họ đã quen biết nhau một thời gian, họ biết về nhau, họ đã gặp nhau trước kia trong tâm hồn.  Những người phong cùi này đã được mời vào bàn tiệc thân mật của Chúa Giêsu, vào tiệc cưới của ơn cứu rỗi.  Sau họ, chỉ có người mù ở thành Giêricô (Lc 18:38) và tên trộm lành trên Thập Giá (Lc 23:42) sẽ lập lại lời cầu khẩn này với cùng một sự thân thiết, cùng một tình yêu:  Đức Giêsu!  Chỉ có những người nhận ra mình đang bị bệnh tật, nghèo khó, bị làm hại, trở nên những kẻ được Thiên Chúa mến chuộng.  Rồi họ gọi Người là “Thầy”, bằng cách dùng một chữ mang ý nghĩa đúng hơn là “Đấng ở trên cao ” và ông Phêrô cũng đã dùng, khi trên thuyền, ông đã được gọi bởi Chúa Giêsu để đi theo Người (Lc 5:8) và ông nhận biết được mình là kẻ tội lỗi.  Và ở đây chúng ta tìm thấy chính chúng ta trong tâm điểm của sự thật, ở đây mầu nhiệm của bệnh phong cùi được mặc khải như là một căn bệnh của tâm hồn:  đó là tội lỗi, nó khiến chúng ta sống xa Chúa, thiếu tình bạn, thiếu sự hiệp thông với Người.  Điều này làm héo úa linh hồn chúng ta và khiến cho nó chết đi từ từ.

Người ấy quay trở lại:  Đây không phải là một cử động thể chất đơn giản, hay một thay đổi trong hướng đi và chân bước, nhưng nó là một sự thay đổi thực sự trong nội tâm, một thay đổi nhanh chóng hay cách mạng sâu xa.  “Quay trở lại” là một động từ của chuyển đổi, quay trở lại với Thiên Chúa.  Đó là thay đổi một cái gì đó thành một cái khác (Kh 11:6); đó là quay trở về nhà (Lc 1:56; 2:43), sau khi đã trẩy đi xa, như người con hoang đàng đã làm, đã mất trong tội lỗi.  Đây là những gì người phong cùi này đã làm:  anh ta biến đổi bệnh tật của mình trở nên một ân sủng, việc bị xem là người lạ, kẻ ngoại cư, bị sống cách xa Chúa trở thành tình bạn, trở thành một mối quan hệ thân mật, như giữa cha và con.  Anh ta thay đổi, bởi vì anh đã để cho mình được thay đổi bởi chính Chúa Giêsu, anh ta đã để cho mình được chạm tới bởi tình yêu của Người.

Tạ ơn Người:  Động từ này đẹp, trong tất cả mọi ngôn ngữ, nhưng một cách đặc biệt trong tiếng Hy-Lạp, bởi vì nó mang theo ý nghĩa của Thánh Thể.  Vâng, chính xác là như thế:  người phong cùi “nhận lãnh Thánh Thể!”  Anh ta ngồi tại bàn tiệc của lòng thương xót, nơi Chúa Giêsu đã để cho mình bị đau đớn, bị thương tổn ngay cả trước anh ta; nơi Người trở thành kẻ bị nguyền rủa, bị loại trừ, kẻ bị ném ra khỏi trại để tập hợp tất cả chúng ta lại trong Trái Tim của Người.  Anh ta nhận lãnh bánh và rượu của tình yêu một cách cho không, của ơn cứu rỗi, của sự tha thứ, của đời sống mới; cuối cùng anh ta lại một lần nữa có thể đi vào đền thờ và tham gia vào việc Phụng Vụ, trong sự thờ phượng.  Sau hết, anh ta có thể cầu nguyện, được đến gần Thiên Chúa với tất cả lòng tín thác.  Người ấy không còn phải mặc quần áo tả tơi, nhưng được mặc những bộ quần áo của lễ hội, của tiệc cưới; bây giờ anh ta được mang dép nơi chân, được đi giày và đeo nhẫn nơi tay.  Anh ta không còn phải che miệng khi nói, nhưng từ bây giờ anh ta có thể ca tụng và ngợi khen Thiên Chúa, anh ta có thể mỉm cười và nói chuyện một cách cởi mở; anh ta có thể đến gần Chúa Giêsu và ôm hôn Người, như một người bạn với một người bạn.  Bữa tiệc được chấm dứt, niềm vui tràn đầy.

Hãy đứng dậy và về!:  Đây là lời mời gọi của Đức Giêsu, lời mời gọi của Chúa.  Đứng dậy, đó là ‘Phục Sinh’ trở về với cuộc sống!  Đây là cuộc sống mới sau cái chết, một ngày mới sau đêm tối.  Vì thánh Phaolô cũng vậy, trên đường đến Đa-mát, cùng một lời mời này đã được nghe, một mệnh lệnh của tình yêu: “Hãy đứng dậy!”(Cv 22:10-16), và ông đã được sinh ra lần nữa, từ trong lòng của Chúa Thánh Thần; ông đã được phục hồi thị lực và có thể nhìn thấy một lần nữa, ông đã bắt đầu ăn, đã nhận phép Thánh Tẩy và một tên mới.  Bệnh phong cùi của ông đã biến mất

Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi:  Tôi đọc lại câu nói này của Chúa Giêsu, tôi lắng nghe nó trong các cuộc đối thoại của Người với những người mà Chúa gặp gỡ, với người phụ nữ tội lỗi, với người phụ nữ bị bệnh băng huyết, với người đàn ông mù…
-  Chúa Giêsu, quay lại, thấy người phụ nữ và nói:  “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Và ngay từ giờ ấy bà đã được khỏi bệnh tức khắc (Mt 9:22; Lc 8:48).
-  Và Chúa Giêsu phán:  “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu chữa anh” và tức khắc anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi (Mc 10:52).
-  Đức Giêsu nói với người phụ nữ:  “Lòng tin của chị đã cứu chữa chị, chị hãy đi bình an” (Lc 7:50).
-  Và Đức Giêsu nói với anh ta:  “Anh nhìn thấy đi.  Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 18:42).
Giờ đây tôi cùng cầu nguyện với các thánh tông đồ và tôi cũng nói:  “Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho con!” (Lc 17:6); “Xin hãy giúp vì lòng tin yếu kém của con” (Mc 9:24).

  
3.  Tôi cầu nguyện cùng Chúa Lời

a)    Đương đầu với cuộc sống:

Lạy Chúa, con đã gom góp được những mật ong tốt lành Lời Chúa từ Kinh Thánh của Thiên Chúa; Chúa đã ban cho con ánh sáng, Chúa đã nuôi dưỡng trái tim con, Chúa đã cho chỉ con thấy chân lý.  Con biết rằng trong số những người bị phong cùi đó, trong số những người bị bệnh nan y, con cũng ở đó và con biết rằng Chúa đang đợi chờ con, để con quay trở lại, đầy niềm vui, để dự tiệc Thánh Thể với Chúa, trong tình thương xót của Người.  Con cũng khấn cầu Chúa ban cho con ánh sáng của Thần Khí Chúa để con có thể thấy rõ, nhận biết và để cho Chúa thay đổi con.  Chúa hỡi, con đang mở rộng trái tim con, cuộc sống con, trước thiên nhan Chúa đây … xin hãy đoái nhìn con, xin hãy hỏi han đến con, xin hãy chữa lành con.

b)    Một vài câu hỏi:

-  Nếu vào ngay giờ khắc này, Chúa Giêsu đi ngang qua đời tôi, Chúa sẽ dừng chân để bước vào làng của tôi, tôi có sẽ sẵn sàng chào đón, chấp nhận Người không?  Liệu tôi có sẽ vui mừng để đón Người vào nhà không? Tôi có sẽ mời Người, sẽ cố nài nỉ, giống như các môn đệ ở Emmau chăng?  Hãy nghe đây, Người đang đứng ngoài cửa và đang gõ cửa…  Tôi có sẽ đứng lên và ra mở cửa cho Người Yêu của tôi không? (Dc 5:5)

-  Mối quan hệ của tôi với Người như thế nào?  Tôi có thể gọi Người bằng tên, như những người phong cùi đã làm, ngay cả nếu phải gọi từ đàng xa, với tất cả mọi sức lực của đức tin của họ không?  Liệu rằng lời cầu khẩn đến danh thánh Chúa Giêsu có luôn được thốt ra từ con tim tôi, từ miệng lưỡi tôi không?  Khi tôi đang gặp nguy hiểm, trong lúc đau khổ, khóc lóc, tên của ai sẽ được thốt lên một cách tự phát từ miệng lưỡi tôi? Tôi có thể không cố gắng và không chú ý nhiều tới khía cạnh này, nó có vẻ như phụ thuộc, không có giá trị lắm, thay vì cho thấy một thực tại sâu sắc và mạnh mẽ không?  Tại sao tôi không bắt đầu nhủ thầm danh thánh Chúa Giêsu trong tim tôi, thậm chí chỉ với đôi môi của tôi, như một lời kinh nguyện, như một bài thánh ca?  Điều này có thể được đồng hành với tôi trên đường đến sở làm, trong khi tôi đi bách bộ, trong khi tôi làm việc này việc nọ…

-  Liệu tôi có đủ can đảm để trình bày chân thành những ác ý, tội lỗi của tôi như những căn bệnh thực sự không?  Chúa Giêsu bảo mười người phong cùi đi gặp các thày tư tế, như theo luật Do-Thái, nhưng hôm nay, cũng đối với tôi, điều này thật là quan trọng, không thể thiếu được để sống với đoạn Tin Mừng này:  tôi tự nhủ, nên phơi bày ra ánh sáng những gì đã làm tôi đau khổ trong lòng và ngăn chặn tôi khỏi sự thanh thản, hạnh phúc, bình an.  Nếu không thể làm việc này trước một linh mục thì ít nhất thật là cần thiết tôi phải đặt mình trước mặt Chúa, mặt đối mặt với Người, không mặt nạ, không dấu diếm bất cứ một điều gì và nói với Người tất cả sự thật về tôi.  Chỉ bằng cách này mới có thể thực sự chữa lành.

-  Ơn cứu rỗi của Chúa dành cho tất cả mọi người; Người yêu thương tất cả với một tình yêu bao la.  Nhưng rất ít người đã mở lòng mình để nhận lãnh sự hiện diện của Người trong đời sống của họ.  Một trong mười người.  Tôi đang đặt mình về phía bên nào?  Tôi có thể nhận ra được tất cả những điều tốt đẹp mà Chúa đã làm cho tôi trong đời tôi không?  Hay tôi chỉ biết tiếp tục phàn nàn, luôn luôn mong muốn điều gì đó hơn nữa, quở trách và buộc tội, phản đối, đe dọa?  Tôi có thực sự biết làm thế nào để nói lời cảm ơn, một cách chân thành, với lòng biết ơn, tin rằng tôi đã nhận được tất cả mọi thứ, rằng Chúa luôn luôn ban cho tôi dư thừa?  Thật là rất tốt đẹp nếu tôi chịu bỏ ra một ít thời giờ để cảm tạ Chúa về tất cả những lợi ích Người đã ban cho tôi trong suốt cuộc đời, vì tôi có thể nhớ hết cho đến bây giờ.  Tôi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ có thể làm xong, bởi vì sẽ luôn có những việc gì khác hiện đến trong tâm trí tôi.  Sau đó, điều duy nhất tôi có thể làm được là giống như người bị phong cùi kia, người duy nhất trong số mười người:  quay trở lại, chạy đến bên Chúa và phủ phục dưới chân Người, lớn tiếng ngợi khen Người.  Tôi có thể làm việc này bằng cách hát một bài thánh ca, hoặc chỉ lặp đi lặp lại lời tạ ơn của tôi, hay có lẽ khóc vì vui sướng.
-  Và giờ đây tôi lắng nghe lời mời gọi của Chúa Giêsu:  “Con hãy đứng dậy mà đi”.  Sau kinh nghiệm này, tôi không thể không bước tới, không thể sống khép mình trong thế giới riêng của tôi, trong mối phúc thật bìnhan của tôi và quên đi hết mọi chuyện.  Tôi phải đứng dậy, đi ra, và tiến bước trên đường.  Nếu Chúa đã chúc phúc cho tôi, đó là mệnh lệnh tôi phải đem tình yêu của Người đến cho anh em tôi.  Niềm vui của cuộc gặp gỡ với Người và việc đã được chữa lành trong tâm hồn sẽ không bao giờ là sự thật nếu nó không được chia sẻ và phục vụ cho những người khác.  Một lần xảy ra là quá đủ, mang đến cho tâm trí tôi rất nhiều bạn bè, rất nhiều người, hoặc gần hoặc xa tôi, những người đang cần niềm vui và hy vọng.  Nếu thế, tại sao tôi không bắt tay vào việc ngay lập tức?  Tôi có thể gọi điện thoại, gửi lời nhắn, viết thư hoặc thậm chí một vài dòng chữ ngắn, hoặc có lẽ tôi có thể đi ghé thăm một ai đó, bầu bạn với người ấy và mạnh dạn nói về cái hay và niềm vui khi có Chúa Giêsu như một người bạn hữu, người thày thuốc, Đấng Cứu Độ của tôi.  Bây giờ là thời điểm để làm điều đó.

c)    Tôi cầu nguyện với một bài Thánh Vịnh

Lạy Chúa, con kêu lên tới Chúa, và Người đã chữa lành con.

Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được CHÚA tha thứ,
người có tội mà được khoan dung.
Hạnh phúc thay, người CHÚA không hạch tội,
và lòng trí chẳng chút gian tà.

Bao lâu con lặng thinh không thú lỗi,
nhưng gân cốt con rã rời, cả ngày con gào thét.
Bởi thế, con đã xưng tội ra với Người,
chẳng giấu Người lầm lỗi của con.
Con tự nhủ: "Nào ta đi thú tội với Chúa,"
và chính Người đã tha thứ tội vạ cho con.

Vì thế, ai là người hiếu trung với Chúa
sẽ kêu cầu Người lúc gặp cảnh gian truân;
cho dầu nước lũ có ngập tràn
cũng không dâng tới họ.
Chính Chúa là nơi con ẩn náu,
giữ gìn con khỏi bước ngặt nghèo.
Khắp bốn bề, Chúa làm trổi vang lên
những khúc ca mừng con được giải thoát.

Chúa rằng: "Này đây Ta răn dạy,
chỉ cho con biết đường lối phải theo,
để mắt nhìn con, Ta ban lời khuyên nhủ.

Hỡi những người công chính,
hãy vui lên trong CHÚA, hãy nhảy mừng.
Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo.

4.  Tôi chiêm niệm và tôi ngợi khen

Lạy Chúa, con đã chạy đến cùng Chúa từ sự cô độc và cô lập, với tất cả những nặng nề và xấu hổ về tội lỗi củacon, sự bệnh hoạn của con.  Con đã kêu van, con đã thú nhận, con khẩn cầu lòng thương xót Chúa, vì Chúa là Tình Yêu.  Chúa đã nghe con ngay cả trước khi con có thể kết thúc lời cầu nguyện thô thiển của con, thậm chí từ đàng xa Chúa đã biết đến con và lắng nghe con.  Chúa biết tất cả mọi sự về con, nhưng Chúa không bị kinh hoảng, Người không coi thường, không xa lánh con.  Và chỉ điều này đã đủ để cho con tín thác vào Chúa, rộng mở trái tim con và ơn cứu độ của Chúa đã tuôn đổ xuống con.  Con đã cảm thấy niềm an ủi từ sự hiện diện của Chúa.  Con hiểu rằng Chúa đã chữa lành con.  Rồi sau đó, lạy Chúa, con đã không thể làm được điều gì khác hơn là quay trở lại cùng Chúa, để ít nhất nói nên lời cảm tạ Chúa, để khóc với niềm vui sướng dưới chân Người.  Con đã nghĩ con không có một ai ở cạnh, không thể chịu đựng nổi, không thể vượt khỏi bất cứ thử thách nào; nhưng thay vào đó, Chúa đã cứu con, Chúa đã cho con thêm một cơ hội để bắt đầu trở lại.
Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa vì con không còn là một người bị phong cùi nữa!  Con đã vất đi quần áo tơi tả của con và mặc vào lễ phục.  Con đã phá vỡ sự cô lập của tủi hổ, của khắc nghiệt và con đã bắt đầu thoát xác, để lại phía sau là ngục tù của con.  Con đã chỗi dậy, con đã hồi sinh.  Hôm nay, với Chúa, con bắt đầu sống lại.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét