Trang

Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

28-10-2013 : THỨ HAI TUẦN XXX MÙA THƯỜNG NIÊN - THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUDA TÔNG ĐỒ, Lễ Kính

THỨ HAI 28/10/2013
Thứ Hai sau Chúa Nhật 30 Quanh Năm
THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUĐA TÔNG ĐỒ. Lễ kính.


 * Tông đồ Simon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ vì người thuộc nhóm cực đoan, chống người Rôma. Người được xếp thứ mười một trong bản danh sách các Tông Đồ.
     Còn thánh Giuđa, cũng được gọi là Ta-đê-ô, là người đã hỏi Chúa trong Bữa Ăn Tối: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình cho chúng con, mà không tỏ mình cho thế gian?”. Và ông đã nhận được lời Chúa hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”.

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 12-17
"Anh em đã nhận lãnh tinh thần nghĩa tử, trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: Abba, lạy Cha".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống.
Những ai sống theo Thánh Thần Thiên Chúa, thì là con cái Thiên Chúa. Vì không phải anh em đã nhận tinh thần nô lệ trong sợ hãi nữa, nhưng đã nhận tinh thần nghĩa tử; trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: "Abba, lạy Cha". Vì chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy nếu là con cái, thì cũng là những người thừa tự: nghĩa là thừa tự của Thiên Chúa, và đồng thừa tự với Ðức Kitô, vì chúng ta đồng chịu đau khổ với Người, để rồi chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 67, 2 và 4. 6-7ab. 20-21
Ðáp: Thiên Chúa chúng tôi là Thiên cứu độ Chúa (c. 21a).
Xướng: 1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Nhưng người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa, họ mừng vui sung sướng. - Ðáp.
2) Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày kia! Thiên Chúa là Ðấng cứu độ, Người vác đỡ gánh nặng chúng tôi. Thiên Chúa chúng tôi là Thiên Chúa cứu độ, Chúa là Thiên Chúa ban ơn giải thoát khỏi tay tử thần. – Ðáp

Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 13, 10-17
"Chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc người con gái của Abraham này trong ngày Sabbat sao?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: "Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà". Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.
Nhưng viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat, nên ông cất tiếng bảo dân chúng rằng: "Có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong ngày đó, chớ đừng đến trong ngày Sabbat".
Chúa trả lời và bảo ông ta rằng: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabbat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?"
Khi Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người đều hổ thẹn, và toàn dân vui mừng vì những việc lạ lùng Người đã thực hiện.
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm : Cốt Lõi Của Ðạo
Một đêm mùa Ðông lạnh như cắt, một vị ẩn sĩ không chịu nổi cái lạnh của sa mạc, đã tìm đến xin trú ẩn tại một ngôi chùa. Nhìn thấy gương mặt tiều tụy của vị ẩn sĩ, tu sĩ canh giữ ngôi chùa không nỡ để ông ta đứng mãi giữa trời. Vị tu sĩ cho ông vào, nhưng lại nói một cách cương quyết: "Ông có thể ngủ đêm trong chùa, nhưng chỉ một đêm thôi, ngày mai ông phải rời khỏi nơi này tức khắc, vì đây là nơi tu hành, chứ không phải là trại tế bần".
Giữa đêm, vị tu sĩ nghe thấy tiếng động kỳ lạ. Ông thức dậy và chứng kiến cảnh tượng khác thường: giữa ngôi chùa vị ẩn sĩ đang ngồi sưởi ấm bên một đống lửa cháy phừng. Nhìn lên bàn thờ, vị tu sĩ không còn thấy tượng Phật bằng gỗ nữa. Ông hỏi vị ẩn sĩ, vị này chỉ vào đống lửa điềm nhiên đáp: "Tôi không chịu nổi cái lạnh, nên đã dùng tượng Phật để nhóm lên đống lửa này". Nghe thế, vị tu sĩ quát lớn: "Ông khùng rồi sao? Ông có biết ông đã làm gì không? Ðây là tượng Phật, ông đã đốt cháy Ðức Thích Ca của chúng tôi".
Sáng hôm sau, vị tu sĩ trở lại để đuổi vị ẩn sĩ ra khỏi chùa; ông thấy vị ẩn sĩ đang bới đống tro như để tìm kiếm vật gì đó. Thấy vị tu sĩ thắc mắc, ông ta trả lời: "Tôi đang tìm kiếm những cái xương của Ðức Phật mà ngài bảo là tôi đã thiêu đốt tối hôm qua".
Về sau, vị tu sĩ canh giữ ngôi chùa kể lại câu truyện cho một Thiền sư, và Thiền sư đã trách ông như sau: "Ông là một tu sĩ xấu, bởi vì ông xem một tượng Phật chết trọng hơn một mạng người sống".
Một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của Chúa Giêsu, chính là cuộc xung đột giữa Ngài và những người Biệt phái. Những người Biệt phái bám vào việc tuân giữ nghi thức và luật lệ đến độ dẫm lên trên cả mạng sống con người. Trong khi đó, đối với Chúa Giêsu, cốt lõi của đạo chính là tình yêu. Phân định về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát: "Ngày Hưu lễ được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Hưu lễ". Ngài đã giải thoát một người đàn bà khỏi bị còng lưng trong ngày Hưu lễ, để chứng tỏ sự sống của con người, giá trị của con người, hay đúng hơn, tình yêu thương cao cả hơn tất cả những nghi thức và việc tuân giữ bên ngoài.
Xin cho chúng ta hiểu rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Xin cho những lời cầu kinh, những việc tuân giữ luật lệ không là những cái vỏ hình thức bên ngoài, mà phải dẫn chúng ta đến những hành động cụ thể của tình yêu. Xin cho chúng ta luôn xác tín rằng sống cho tình yêu là được sống trong Chúa.
(Veritas Asia)

Ngày 28 tháng 10
Lễ Thánh Simon Và Giuđa, Tông Ðồ
Lễ Kính


Bài Ðọc I: Ep 2, 19-22
"Anh em đã được xây dựng trên nền tảng các tông đồ và các tiên tri".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em không còn là khách trọ và là khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng của các Tông đồ và Tiên tri, và chính Ðức Kitô làm đá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5
Ðáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyện tụng cho đêm kia. - Ðáp.
2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.

Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúng con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa; chúng con tuyên xưng Chúa là Chúa tể; lạy Chúa, ca đoàn vinh quang các tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 6, 12-19
"Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ: Ðó là Simon mà Người đặt tên là Phêrô và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là nhiệt thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội. Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm : Chọn Lựa Của Chúa

Chúng ta nên nhớ thánh Simon này khác với Simon được Chúa Giêsu đặt tên là Phêrô và thánh Giuđa này khác với Giuđa Iscariốt. Phụng vụ trong ngày lễ mừng hai thánh Simon và Giuđa hôm nay, Chúa muốn cho chúng ta chứng kiến lại việc chọn các tông đồ.
Simon nhiệt thành và Giuđa mà chúng ta mừng kính hôm nay, không có những nét nổi bật như Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngay cả Philipphê hay Batôlômêô mà cũng còn được nhắc đến thêm đôi ba lần nữa trong sách Tin Mừng, nhưng hai vị này thì chỉ nhìn thấy trong Nhóm Mười Hai, được Chúa Giêsu chọn sau khi Ngài đã trải qua một đêm cầu nguyện với Chúa Cha. Tuy nhiên cuộc sống và cái chết chứng tá của thánh Simon và thánh Giuđa sau này đủ để nói lên rằng các ngài đã sống trọn vẹn trong cung cách tông đồ của mình và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa.
Trọn vẹn trong phong cách tông đồ và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa, đó là điều mà ai ai cũng thế, khi đã theo Chúa thì chỉ ước mơ được như vậy. Ðã ước mơ thì phải cố gắng mà vươn tới để ước mơ được thành hiện thực. Mặc dù các sách Tin Mừng không nói nhiều về Simon nhiệt thành và Giuđa, nhưng chúng ta cứ nhìn vào các vị kia thì cũng biết được đôi chút về tính tình, về mong muốn, về cách sống của hai ông là bộc trực, tham vọng và cùng ăn cùng ở với Chúa Giêsu với hy vọng tìm được một địa vị xứng đáng hơn trong cuộc đời làm môn đệ.
Chúa Giêsu không chỉ nhìn thấy cái hiện trạng bất toàn đó của cả nhóm mà Ngài biết rằng với thời gian huấn luyện, với ơn Chúa Thánh Thần thì những con người ấy biết dùng ngay những bất toàn của mình vào trong công cuộc loan báo Tin Mừng và sẽ thành công. Vấn đề là làm sao để cho các ông nhận chân được mục đích của con đường mà các ông quyết định. Cũng với sự bộc trực ấy, cũng với những tham vọng ấy, cũng với những tình huynh đệ keo sơn ấy nhưng các ông không còn chỉ ước mơ danh vọng, địa vị tầm thường nữa mà khát vọng lan rộng biên giới Nước Trời, khát vọng cho mọi người nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ. Nỗi niềm khát vọng ấy mãnh liệt đến độ đưa các ông là những con người sợ sóng gió, sợ quyền lực, sợ đủ mọi thứ đến chỗ gan dạ tột cùng của sự làm chứng, bằng lòng để bị treo như Thầy.
Lạy Cha
Công trình của Cha vẫn nối tiếp cho đến thời sau hết với những con người mong manh thân phận nhưng kiên cường lập trường. Chúng con cảm tạ Cha vì gương sáng của hai vị tông đồ Simon nhiệt thành và Giuđa. Mừng kính hai ngài hôm nay, chúng con cũng muốn nói với chính mình rằng bởi sức riêng chúng con thật là vô ích, nhưng cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần chúng con có thể làm được mọi sự. Giáo Hội đang nặng trĩu ưu tư cho công cuộc truyền giáo tại lục địa Á Châu to lớn, hai thánh tông đồ Simon và Giuđa sẽ là những khích lệ tuyệt vời cho những bước chân truyền giáo trên đất nước chúng con và trên lục địa Á Châu này.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Kính thánh Simon và Thadeus, TĐ
Bài đọc: Eph 2:19-22; Lk 6:12-16.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mỗi tín hữu được kêu gọi để góp phần xây dựng Nước Thiên Chúa.


Khi phải chọn người làm việc chung, nhiều người trong chúng ta có khuynh hướng chọn những người chung sở thích, tính tình hòa hợp, và cùng một nghề nghiệp, để có thể tránh những xung đột thì mới có thể thành công được. Nhưng cách chọn lựa của Thiên Chúa và của Đức Kitô rất khác con người, các Ngài chọn những người khác sở thích, tính tình trái ngược đến chỗ xung đột nhau, và nghề nghiệp khác nhau để xây dựng Giáo Hội và rao giảng Tin Mừng.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật vai trò của mỗi tín hữu trong việc xây dựng và mở mang Nước Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Ephesô phân tích tình trạng pháp lý của các tín hữu để khuyên nhủ họ không còn là người xa lạ hay tạm trú nữa; nhưng đã được trở thành người đồng hương vì được kêu gọi để cùng chung hưởng quê hương Nước Trời, và đã trở thành người nhà của Thiên Chúa để hưởng những quyền lợi như các phần tử trong nhà và chung sức lo cho Nước Chúa được phát triển. Trong Phúc Âm, sau khi cầu nguyện suốt đêm, Chúa Giêsu đã chọn Mười Hai Tông Đồ. Đây là những người rất khác nhau về tính tình, nghề nghiệp, sở thích; nhưng được kêu gọi để cùng nhau rao giảng Tin Mừng và tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu nơi trần gian.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa.
1.1/ Tình trạng pháp lý của người tín hữu: "Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa.'' Tác giả muốn phân biệt hai giai đoạn trước và sau khi một người biết Đức Kitô.
(1) Trước khi biết Đức Kitô: một người là người xa lạ vì không biết gì về Thiên Chúa hay Kế-hoạch cứu độ của Ngài; anh không được hưởng bất cứ quyền lợi gì của người trong nhà hay trong nước. Hay người đó có thể là người tạm trú: mặc dù anh được hưởng một số quyền lợi nhưng không trọn vẹn; mà nếu tạm trú, sẽ đến lúc anh phải ra đi.
(2) Sau khi biết Đức Kitô: Người tín hữu trở thành người đồng hương với các người thuộc dân thánh vì các tín hữu được kêu gọi để cùng được chung hưởng một quê hương là Nước Trời. Người đồng hương phải giữ một số những qui luật và hưởng một số những quyền lợi, nhưng không hoàn toàn. Khi trở thành người nhà của Thiên Chúa, người tín hữu được hưởng quyền lợi như những thành phần trong gia đình của Thiên Chúa; tuy nhiên, khi là người nhà, các tín hữu có bổn phận phải tuân giữ các điều luật và góp phần xây dựng trong nhà.

1.2/ Người tín hữu là một thành phần sống động của Đền Thờ Thiên Chúa: Khi đã trở thành người nhà của Thiên Chúa, người tín hữu trở thành viên gạch của Đền Thờ mà:
- nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ: Đây là những người đi tiên phong để kêu gọi mọi người gia nhập vào Giáo Hội của Thiên Chúa. Các ngôn sứ đã tiên báo sự xuất hiện của Đức Kitô; các Tông Đồ đã lãnh nhận sứ vụ rao giảng Tin Mừng trực tiếp từ Thiên Chúa. Họ là nền móng vì họ đã hy sinh xương máu để bảo vệ đức tin và Giáo Hội.
- đá tảng góc tường là chính Đức Giêsu Kitô: Trong kỹ thuật xây dựng của người Do-thái, đá tảng góc tường là nền tảng quan trọng nhất, vì từ phiến đá này, ngôi nhà hay Đền Thờ được xây lên. Nếu không có viên đá này, chẳng có ngôi nhà nào được xây lên. Tác giả có ý muốn nói: Đức Kitô là phần chính yếu nhất trong Đền Thờ của Thiên Chúa. Ý tưởng về "tảng đá góc tường" cũng được đề cập tới trong Thư I Phêrô (I Pet 2:6).
(1) Mọi phần hòa hợp và ăn khớp với nhau: Tác giả nhận xét như các thành phần của Đền Thờ được xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh như thế nào, thì các tín hữu cũng được chuẩn bị để sống hòa hợp với mọi thành phần trong Giáo Hội như thế nhờ Đức Kitô.
(2) Xây dựng trong cùng một Thánh Thần: Cùng với Đức Kitô, Thánh Thần của Thiên Chúa ban cho các tín hữu những quà tặng khác nhau, để cùng chung sức xây dựng Giáo Hội là Đền Thờ của Thiên Chúa: ''Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí.''

2/ Phúc Âm: Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa.
2.1/ Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi gọi các Tông-đồ: Cầu nguyện là một trong những chủ đề chính của Tin Mừng Lucas. Cầu nguyện được một người định nghĩa là bàn hỏi với Thiên Chúa. Quyết định lựa chọn Nhóm Mười Hai là quyết định vô cùng quan trọng cho sự sống còn của Giáo Hội; vì nếu Nhóm Mười Hai không trung thành chu toàn với sứ vụ, Giáo Hội sơ khai không thể tồn tại được. Thánh Lucas nói rõ "Chúa cầu nguyện suốt đêm;" điều này cho thấy Ngài không chọn Nhóm Mười Hai như một tổng thể, nhưng chọn mỗi cá nhân của Nhóm Mười Hai. Trong sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa, các Ngài biết rõ tính tình và những gì sẽ xảy ra cho từng cá nhân này.

2.2/ Chúa Giêsu chọn các Tông-đồ: "Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. Đó là ông Simon mà Người gọi là Peter, rồi đến ông Andre, anh của ông; sau đó là các ông James, John, Philip, Bartholomew, Matthew, Thomas, James con ông Alpheus, Simon biệt danh là Nhiệt Thành, Judah con ông James, và Judah Iscariot, người đã trở thành kẻ phản bội."
(1) Các con người không đặc biệt: Nếu xét theo tiêu chuẩn con người, Nhóm Mười Hai này chẳng có gì xuất sắc hay đặc biệt cả. Không một ai là học giả khôn ngoan, không ai có quyền thế trong xã hội; đa số là những người chài lưới thất học, nghèo hèn. Thế mà Đức Kitô chọn các ông để biến đổi thế giới. Điều này cho thấy khôn ngoan và sức mạnh không đến từ các Tông Đồ; nhưng hoàn toàn do nơi Thiên Chúa.
(2) Các loại người xung khắc tính tình với nhau: Cặp người xung khắc nhất có lẽ là Simon Nhiệt Thành chúng ta mừng kính hôm nay và Matthew, người thu thuế. Simon thuộc nhóm Nhiệt Thành, người rất ghét những người làm tay sai cho ngoại bang để bóc lột dân chúng; mà Matthew lại cộng tác với ngoại bang để lấy thuế của dân chúng. Làm sao Đức Kitô hòa giải và huấn luyện cho hai con người này trở thành bạn và cùng chung sức rao giảng Tin Mừng! Cặp thứ hai là Phêrô và Thomas: Phêrô rất dễ tin và nhanh chóng biểu lộ niềm tin của mình trước hết các Tông Đồ khác; trong khi Thomas rất cứng lòng đến độ thách thức phải xem thấy mới tin.
(3) Các con người có mọi yếu đuối và khuyết điểm: Ngoài Phêrô tin rồi chối, chúng ta có hai anh em James và John ham muốn uy quyền và danh vọng làm cho các môn đệ khác tức tối. Judah Iscariote là kẻ phản bội bán Chúa. Cả Nhóm Mười Hai bị Chúa Giêsu trách là không thể thức với Chúa một giờ trong cơn hấp hối của Ngài; và tất cả bỏ chạy trốn trừ John còn đứng lại dưới chân Thập Giá Chúa. Trong bản tính Thiên Chúa, Đức Kitô chắc chắn thấy rõ những điều này; nhưng Ngài vẫn chọn và kiên nhẫn huấn luyện để mang đến kết quả tốt lành sau cùng.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta đã được Thiên Chúa chọn để trở nên người nhà lo việc của Thiên Chúa. Chúng ta đã làm gì để góp phần vào việc mở mang Nước Chúa?
- Chúa chọn chúng ta không phải vì khôn ngoan, tài giỏi, hay thánh thiện; nhưng khi chúng ta vẫn còn mang đầy những yếu đuối, khuyết điểm, và tội lỗi trong người. Ngài muốn chúng ta hãy ngoan ngoãn vâng theo sự hướng dẫn của Thánh Thần và những dạy dỗ của Đức Kitô để sống xứng đáng như người môn đệ và làm cho tha nhân được đón nhận Tin Mừng.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


HẠT GIỐNG NẨY MẦM TUẦN 30TN
Lc 13,10-17

A. Hạt giống...
Câu chuyện này cho thấy rõ ý nghĩa giải phóng của ngày sabát :
- Đương sự là một người bị bệnh đến nỗi khòm lưng suốt 18 năm,
- mắt không thể nhìn lên được.
- Chính Chúa Giêsu nói bà đã bị xiềng xích trói buộc.
Việc  chữa bệnh cũng là việc giải phóng :
- Chúa Giêsu nói bà là con cái của Abraham.
- Ngài coi việc chữa bệnh là “tháo xiềng” cho bà.
- Bà đã đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.

B.... nẩy mầm.
1. Cách chung, Luật Chúa và luật Giáo Hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi trói buộc của tội lỗi và tật xấu. Cách riêng, luật thánh hóa ngày sabát (nay đổi thành ngày Chúa nhật) cũng thế. Tuy nhiên, một cách hiểu luật và giữ luật hoàn toàn vụ luật khiến cho luật trở thành xiềng xích và con người thành nô lệ.
2. Truyện cổ Đông phương kể rằng : ngày xưa, có vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn kì diệu và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn nhiều kim cương lóng lánh. Nó kì diệu ở chỗ : nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, ngón tay rất đau đớn.
Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần là lề luật của Chúa. (Góp nhặt)
3. Chứng bệnh của bà này cũng tượng trưng cho tội lỗi, cho nên thánh Luca nói bà này “bị quỷ ám”. Tội lỗi làm cho người ta “bị khòm lưng” và “không trông lên được.”
Xin Chúa hãy “nhìn thấy” hoàn cảnh khốn khổ của con vì tội lỗi, xin Chúa “đặt tay” lên con, làm cho con “đứng thẳng” và nhìn lên cao để tôn vinh Thiên Chúa.
4. Ngày Chúa nhựt là ngày giải phóng. Trong ngày đó tôi phải ca tụng tạ ơn Chúa vì đã giải phóng tôi, tôi phải quan tâm giải phóng chính mình khỏi mọi thứ xiềng xích xấu xa đang trói buộc mình, và cũng phải quan tâm giải phóng người khác khỏi lao nhọc, buồn khổ.
5. Truyện rất ngắn với tựa đề “Tính cách” của tác giả Nguyễn thị Hoài Thanh đăng trong 40 truyện rất ngắn do Hội Nhà văn xuất bản năm 1994 có nội dung như sau :
Mẹ tôi luôn chai lì trước cán cân cơm áo, nhưng mẫn cảm trong nghệ thuật. Những nước mắt tình buồn phim ảnh, những sụt sùi số phận cải lương, bà đều hồn nhiên ăn theo một cách ngon lành. Có lần cha tôi nói giỡn : “Coi chừng trôi tivi”…
Một hôm, đang bữa ăn, bỗng nhiên mẹ tôi hớn háo phớt ra  chặn đường em bé bán trứng vịt lộn : “Mày biến đâu tài thế ! Có chui xuống đất rồi cũng gặp tao”. Bà vừa nói vừa dằn mũng trứng đếm lấy trừ nợ. “Dì ơi, cho con khất, mẹ con còn ốm”. Mẹ tôi cười : “Nhà này cũng đang ốm đây, khỏi bẻm mép”. Con bé chưng hửng lã chã nước mắt nhìn cái mũng không, rồi bưng lên xiêu vẹo bước đi. Cha tôi cám cảnh, rút mùi xoa chấm mắt. Lâu lâu tivi phát vở kịch “Cô bé nghèo bán trứng vịt bị xiết nợ”. Lúc ấy, mẹ tôi lại khóc, còn cha tôi thì cười.
Truyện ngắn trên đây có thể là bức tranh sống động hàng ngày. Người ta dành nước mắt cho những vở kịch trong phim ảnh, trên sân khấu hơn là cho những chuyện xảy ra mỗi ngày trước  mắt ; người ta xót thương trên môi miệng hơn là bằng những hành vi cụ thể.
Thời Chúa Giêsu, có lẽ những người biệt phái cũng có một tính cách như thế. Họ nhân danh lề luật, nhất là luật ngày hưu l64, để biện minh cho thái độ sống ích kỷ của mình. ("Mỗi ngày một tin vui")

Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

28/10/13 THỨ HAI TUẦN 30 TN
Th. Simon và Giuđa, tông đồ
Lc 6,12-19

CÁCH CHỌN LỰA CỦA CHÚA
Chúa Giêsu đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông đồ.” (Lc 6,12-13)
Suy niệm: Đọc lịch sử ơn cứu độ chúng ta thấy Thiên Chúa chọn người cộng tác vào công trình của Ngài không dựa trên những tiêu chuẩn thông thường của con người: một Môsê ‘nói ngọng’ được chọn làm lãnh đạo; một Giêrêmia ‘con nít’ được chọn làm ngôn sứ. Ngay cả Đức Giêsu Con Thiên Chúa, sau khi đã cầu nguyện suốt đêm mới chọn 12 ông làm tông đồ, thế mà các ông cũng đầy dẫy những khuyết điểm: đã nóng nảy như “con của thiên lôi” lại còn ham hố địa vị; đến như Simon-Phêrô được gọi là đá tảng của Hội Thánh mà gặp lúc nguy nan cũng bai bải chối thầy. Theo cái nhìn tự nhiên đây quả là một thất bại. Thế nhưng từ những con người như thế, Chúa đã huấn luyện, biến đổi để xây dựng một Hội Thánh mà “quyền lực tử thần không thắng được” (Mt 16,18).
Mời Bạn: Làm tông đồ cho Chúa đâu chỉ dành cho những người có trình độ, khả năng, bằng cấp cao, lại càng không căn cứ trên những thành công, mà còn có cả những thất bại. Chúa cũng gọi và chọn bạn dù bạn yếu đuối bất toàn. Bạn hãy để Chúa hành động nơi bạn, miễn là bạn cộng tác bằng niềm cậy trông tuyệt đối vào tình yêu của Ngài. Chúa sẽ thực hiện công trình của Ngài. Vì đó là công trình của Thiên Chúa chứ không phải của con người.
Sống Lời Chúa: ‘Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời’.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa biết con vốn yếu đuối, nhưng Chúa vẫn thương chọn gọi và trao cho con sứ mạng làm chứng nhân của Chúa. Xin cho con luôn biết tín thác vào Chúa, để con nên người tông đồ đích thực của Chúa.

Có Chúa Giêsu mới sống thực
Hôm nay Hội Thánh kính hai thánh Tông Đồ Si-mon và Giu-đa. Ông Si-mon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ ông là người thuộc nhóm cực đoan, muốn dùng vũ lực chống Roma, còn ông Giu-đa cũng có tên là Ta-đê-ô, là tác giả thư cuối cùng trong bảy Thư Công Giáo. Ông là người hỏi Đức Giêsu trong bữa ăn tối:  “Thưa Thầy, tại sao Thầy tỏ mình cho chúng con mà không tỏ cho thế gian”, và ông đã nhận được Lời Chúa hứa:  “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,22-23).
Chưa bao giờ Đức Giêsu phải thức suốt đêm để cầu nguyện, ngoại trừ lúc Ngài chọn các môn đệ, để sai họ đi tiếp nối sứ mệnh của Ngài, hầu thâu họp muôn người về cho Chúa. Vì “ai có Chúa Giêsu thì sống, kẻ không có Chúa Giêsu là chết!” (1Ga 5,12). Do đó:
- Con người chỉ tồn tại nhờ được Chúa gọi tên (x Kn 11,25:  Bản dịch Lm Nguyễn Thế Thuấn).
- Đụng chạm vào Chúa Giêsu chính là hiệp thông với Hội Thánh.
1/ Con người chỉ tồn tại nhờ được Chúa gọi tên (x Kn 11,25).
Thực vậy, trong danh sách 12 môn đệ Đức Giêsu chọn, họ là những người bình thường như bao người khác, thế nên danh sách Nhóm Mười Hai có tới ba cặp tên trùng nhau :
- Simon em của An-rê và Simon Nhiệt Thành.
- Giacôbê anh của Gioan và Giacôbê con của An-phê.
- Giuđa Nhiệt Thành và Giuđa Iscariot.
Sau khi Đức Giêsu cầu nguyện, sáng sớm Ngài gọi những người muốn chọn, họ có tên bình thường như bao người khác Xoài, Ổi, Mít, Chanh, Cam (x Lc 6,12-16)… Nếu Đức Giêsu không chọn gọi họ, thì nay “họ đã qua đi như không bao giờ có họ trên đời, bởi không người nào trên đời còn nhớ đến họ, họ xong đời là xong hẳn, và cả con cái họ sau này cũng thế thôi!” (Hc 44,9)  Nhưng danh tính, sự nghiệp các môn đệ Đức Giêsu chọn vẫn còn lưu danh  muôn thuở, chỉ vì Đức Giêsu đã gọi họ từ trong thế gian và họ không còn thuộc về thế gian nữa (x Ga 17,6.15), để rồi đi tập họp mọi sự về cho Chúa, như lời thánh Phao-lô nói:  “Mọi sự thuộc về anh em, anh em thuộc về Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô thuộc về Chúa Cha” (1Cr 3,22-23).
2/ Đụng chạm vào Chúa Giêsu chính là hiệp thông với Hội Thánh.
Sau khi Đức Giêsu cầu nguyện để chọn các môn đệ và từ trên núi xuống, có cả đoàn lũ dân Do Thái miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cùng với dân ngoại miền Tia và Xi-đôn, cả các bệnh nhân cũng lũ lượt kéo đến nghe Lời Đức Giêsu, và các bệnh nhân được chữa lành ; cả đến các người bị thần ô uế nhập, cũng tìm cách sờ vào Đức Giêsu, thì họ được lành mạnh ngay (x Lc 6,17-19:  Tin Mừng). Hình ảnh này đã tiên báo về đời sống Hội Thánh Chúa Ki-tô, bởi vì từ núi Sọ, nơi Đức Giêsu bị đóng đinh, Ngài đã cầu nguyện cho cả kẻ hại Ngài được cứu độ, và từ cạnh sườn Ngài bị đâm, nước và máu đổ xuống phát sinh các Bí tích, đó chính là giờ phút Adam cuối cùng sinh Hội Thánh (x Ga 19). Như thế hình ảnh từ trên núi đi xuống trở thành dấu chỉ Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, trước khi Ngài lên Trời, Ngài sai các môn đệ đi tập họp muôn dân bằng hai việc:  ban Thánh Tẩy và dạy dân những Lời Đức Giêsu truyền (x Mt 28,19-20). Ai gia nhập Hội Thánh là người đó được Đức Giêsu chộp lấy (x Pl 3,12). Những ai thuộc về Hội Thánh Chúa Ki-tô thì thánh Tông Đồ nói:  “Anh em không còn phải là người xa lạ, hay là người tạm trú, nhưng là người đồng hương với những người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng  trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Chúa Ki-tô Giêsu. Trong Người toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí” (Ep 2,19-20:  Bài đọc).
Trong đoạn thư này thánh Phao-lô nhấn mạnh:  người được Chúa chọn là người đồng hương, là người nhà của Thiên Chúa, là ông muốn cho các tín hữu hiểu rằng:  Chúa sẽ ra sức bảo vệ mạng sống họ, đến nỗi sợi tóc trên đầu của họ cũng không bị mất! (x Mt 10,30) Điều này quan trọng hơn ông Phao-lô vốn dĩ là người Do Thái, nhưng để việc rao giảng Tin Mừng tránh người Do Thái trù dập tối đa, Phao-lô đã lấy được quốc tịch Roma để bảo vệ ông. Vì ai thuộc về công dân Roma, thì không người nào được quyền đánh họ trên 39 roi! Chính vì vậy mà năm lần ông bị người đồng chủng đánh không quá 39 trượng! Nhiều người Do Thái thấy thế thèm, nên hỏi ông Phao-lô:  “Phải tốn bao nhiêu tiền mới có quốc tịch ấy?” (x Cv 22,28 ; 2Cr 11,24-25). Còn người Công Giáo chẳng mất xu nào mà có quốc tịch Nước Trời, để cùng với muôn tạo vật diễn tả vinh quang Thiên Chúa, đúng với lời kinh:  “Tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu”



Suy niệm

Con nghe nhiều về câu “ơn gọi là một mầu nhiệm”, nhưng thực sự con chưa hiểu nhiều. Chỉ hiểu đơn giản: mầu nhiệm là một sự thật vượt quá sự hiểu biết của con người. Như vậy ơn gọi là một sự thật vượt quá sự hiểu biết của con người. Vì chính bản thân người được gọi, được chọn cũng không thể hiểu được. Những người ngoài cuộc càng không thể hiểu được.

Không hiểu nỗi vì Chúa đã “cầu nguyện suốt đêm” mà vẫn còn trục trặc trong việc chọn lựa. Luca ghi rõ ràng trong số 12 tông đồ có: “Giuđa Iscariôt, người đã trở thành kẻ phản bội” (Lc 6,16). Con trộm nghĩ sở dĩ Chúa thức suốt đêm để cầu nguyện là vì mỗi một ứng viên Chúa đều xem xét kỹ lưỡng, nhìn trước nhìn sau, đắn đo suy nghĩ, thậm chí có những lúc Chúa “gạch tên”, sau đó chọn lại… Nếu Chúa có một quyển sổ ghi tên các Tông đồ, thì chắc chắn sau đêm đó quyển sổ này nát bấy vì những ghi chú, bôi xóa của Ngài.

Biết chắc rằng Simon Phêrô có tính nóng nảy, bộc trực, Chúa cũng sợ hư bột hư đường, đã gạch tên ông, nhưng sau đó lại ghi đầu tiên vì Chúa cần một con người nhiệt thành.

Biết rõ Gioan có óc phe nhóm, bè phái, Chúa cũng sợ Giáo hội sẽ không lan rộng, nhưng cũng ghi tên ông vào, vì Chúa cần một con người có tình yêu mãnh liệt.

Biết rõ Matthêu làm ăn bất chính, Chúa cũng lo ông làm gương mù gương xấu cho anh em và tai tiếng cho Giáo hội, nên có lẽ Matthêu là người bị loại đầu tiên, nhưng Chúa cần ông để nêu gương cho sự dứt khoát từ bỏ.

Thấy được Tôma cứng đầu, khó dạy, sẽ có nguy cơ làm ngưng trệ mọi chương trình của Chúa vì đầu óc khoa học, logic của ông, nhưng Chúa cần một con người để làm chứng về một niềm tin không mù quáng.

Và Chúa cũng biết, cũng thấy, cũng hiểu Giuđa Iscariô với trọn vẹn con người ông, những ưu khuyết điểm. Không phải Chúa nhắm mắt chọn đại, mà là Chúa cũng cho ông cơ hội giống như anh em của mình. Chúa cần ông.
Và đúng như những gì Chúa dự đoán và mong đợi, các Tông đồ đã trở thành cột trụ của Giáo hội không phải vì các ông xứng đáng, nhưng vì các ông đã được thanh luyện, chắt lọc để bỏ đi những sai trái. Khi con người các ông mềm nhũn ra thì Chúa nhào nặn các ông theo ý Chúa.

Duy chỉ một mình Giuđa Iscariôt là thất bại. Có phải là Chúa thua cuộc không? Thưa không, mà do Chúa cho con người tự do, nhưng con người đã sử dụng không đúng đắn. Giuđa đã không theo đường lối Chúa để tu tâm dưỡng tánh, chỉnh đốn bản thân, mà theo chương trình của riêng mình, còn bắt Chúa phải thực hiện những gì ông đã hoạch định. Ông thất bại là vì tự mình định đoạt bản thân, mà bản thân ông Chúa đã biết là còn nhiều tham sân si chưa gạn lọc hết.

Qua phụng vụ lời Chúa hôm nay con thấy được mầu nhiệm nơi mỗi một con người và nơi bản thân con. Với bản tính của một con người, con vẫn còn những tham sân si, những tạp nhạp nơi bản thân… nói chung là con người con vẫn còn hỗn độn như thuở hồng hoang. Nhưng không vì thế mà Chúa lại chê bỏ, vì Chúa biết và Chúa cần sự thanh luyện nơi bản thân con.

Chúa sẽ gạn lọc hết tạp nhạp, sẽ sắp xếp lại những hỗn độn… Nhưng sau đó còn lại gì? Thưa nếu con để Chúa làm cho đến tận cùng thì con chỉ còn lại như một tấm gương trong không có gì cả. Chính lúc đó là lúc Chúa cần để vẽ nên những gì Chúa dự định. Nếu con để Chúa gạn lọc, sắp xếp thì con chỉ còn như một đống bùn nhão. Chính lúc đó là lúc Chúa cần để nắn nên những gì Chúa muốn.

Lạy Chúa, mầu nhiệm của ơn gọi là ở chỗ Chúa sử dụng được tất cả nếu con người để Chúa cải tạo. Xin Chúa giúp con có một tâm hồn mềm mại để Chúa dễ loại bỏ nơi con những gì còn cản trở, hầu Chúa có thể sử dụng con theo thánh ý Chúa.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

28 THÁNG MƯỜI

Gương Mù Của Chia Rẽ

Mặc dù hiệp nhất là điều mà con nguời sẽ chẳng bao giờ có thể tự mình đạt được, song chúng ta cũng phải tìm kiếm hiệp nhất và cố gắng tranh thủ hiệp nhất. Hiệp nhất là một trong những đặc tính của Giáo Hội, như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: " … Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền." Nhưng thực tế, trong Giáo hội duy nhất ấy lại có tình trạng … bất hoà giữa các Kitôhữu.
Nhiệm vụ tái lập mối hiệp nhất giữa tất cả những người tin vào Chúa Kitô ngày càng trở nên cấp bách. Những chia rẽ trong quá khứ và hiện tại là một gương mù cho những người ngoài Kitô giáo, những chia rẽ ấy là một sự đối nghịch rõ ràng với ý muốn của Chúa Kitô. Chúng là trở ngại nghiêm trọng cho nỗ lực rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội.
Công cuộc đại kết đòi hỏi những cố gắng không ngừng và những lời cầu nguyện tha thiết của chúng ta. Trước hết phải nhận thức rằng mối hiệp nhất của Phép Rửa có ý nghĩa rất sâu xa và rất hàm súc. Mối hiệp nhất này thực sự liên kết tất cả những người đã chịu Phép Rửa lại với nhau, và cho họ được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mối hiệp nhất này tồn tại mãi mãi, bất chấp những khác biệt hay những chia rẽ. Lời của Thánh Phaolô vẫn mãi còn xác thực: “Vì tất cả anh em đã được thanh tẩy trong Đức Kitô và mặc lấy Đức Kitô, nên không còn Do thái hay Hy lạp, cũng không còn nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; vì tất cả anh em là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,27 – 28).
Chúng ta phải sẵn sàng cộng tác với Đức Kitô và với các tín hữu khác để đạt được sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các môn đệ của Đức Kitô trên toàn thế giới. Chúng ta vui mừng nhìn thấy những bước tiến đã đạt được trong lãnh vực đại kết. Chúng ta đã có những nỗ lực vượt qua các thành kiến in hằn xưa nay, vượt qua những xét đoán sai lầm và những luận điệu khích bác. Chúng ta đã hiểu biết nhau hơn và tôn trọng nhau hơn trong tình huynh đệ. Đã có những bước tiến đáng kể trong cuộc đối thoại giữa các giáo hội và trong sự cộng tác giữa các Kitôhữu trong việc phục vụ cho nhân loại. Chúng ta ngày càng có được nhiều cơ hội hơn để cầu nguyện chung giữa các Kitô hữu – trong sự tôn trọng các truyền thống khác biệt. Tất cả chúng ta hãy tiếp bước trên con đường tiến đến sự hiệp nhất trọn vẹn trong Đức Kitô. Chúng ta tràn trề hy vọng mong chờ một ngày chúng ta sẽ thực sự nên một như Chúa Cha và Chúa Con là một.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II



Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 28-10
Thánh Simon và Thánh Giuđa Tông đồ;
Ep 2,19-22; Lc 6,12-19


LỜI SUY NIỆM: “Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ” (Lc 6,12-13).

Thánh sử Luca đưa ra câu chuyện Chúa Giêsu tuyển chọn Mười hai Tông đồ cho chúng ta thấy. Chúa Giêsu luôn cầu nguyện cùng Thiên Chúa, là Cha của Người, đặc biệt trong công việc Người muốn chọn những người kế vị Người; Người đã cầu nguyện suốt đêm cho đến sáng. Chúng ta là những con cái của Người, chúng ta cũng phải học với Người trong cầu nguyện. Giáo Hội giúp chúng ta Kinh Sáng Soi. Ước gì trong mọi sự chúng ta đều phải cầu nguyện với Chúa.

Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân

Ngày 28-10
Thánh SIMON Tông Đồ


Tân ước ngoài việc đặt thánh Simon vào danh sách nhóm 12, đã không cung ứng một chỉ dẫn trực tiếp nào liên quan đến vị tông đồ này. Ngài được phân biệt với Simon Phêrô bằng danh hiệu "nhiệt thành" (Lc 6,15; Cv 1,13), một danh hiệu không có ý nói rằng: Ngài là phần tử thuộc nhóm quá khích Do thái mang tên này, nhưng chỉ cho biết nhiệt tâm của Ngài đối với lề luật. Theo tiếng Aram, nhiệt thành là "Cana".
Điều này giải thích tại sao các thánh sử nhất lãm gọi Ngài là người xứ Cana (Mt 10,4; Mc 3,18). Có người cho rằng sinh quán của người là Galilêa. Một truyền thống còn nói thánh Simon là chàng rể phụ trong tiệc cưới tại Cana (Ga 2,1-12). Sách các thánh tử đạo kể rằng Simon sau khi chứng kiến phép lạ của Chúa Kitô, đã "bỏ rượu", bỏ lễ cưới để theo Chúa Kitô và được liệt vào số các tông đồ. Thực sự, chẳng có chứng cớ lịch sử nào nói tới việc này.
Cũng như thánh Giacôbê Hậu, có lẽ thánh Simon là một trong các "anh em của Chúa" (Mc 6,3). Nhưng người ta không thể đồng hóa thánh tông đồ với thánh Simon mà theo truyền thống là Đấng kế vị anh mình làm giám mục Giêrusalem.
Chúng ta không thu lượm được chi nhiều về hoạt động và cái chết của vị tông đồ. Có những tường thuật cho rằng: Ngài đi truyền giáo ở Phi Châu và các đảo Britania. Những tường thuật này không có nền tảng. Một truyền thống khác cho rằng Ngài đi truyền giáo ở Ai cập và cuối cùng ở Batư. Truyền thống này đáng tin hơn.
Nhiều nguồn tài liệu đồng ý cho rằng Ngài chịu tử đạo ở Batư. Một số ít hơn nói rằng Ngài cùng chịu tử đạo với thánh Giuda. Dầu vậy, vì không có tài liệu nào đủ tính cách cổ kính nên khó nói rõ về nơi chốn và hoàn cảnh thánh nhân qua đời.

Thánh GIUĐA Tông Đồ


Vị tông đồ này mang nhiều tên khác nhau như Tadêo (Mt 10,3; Mc 3,18) hay Giuda (Lc 6,16; Cv 1,13).
Chính Ngài là vị tông đồ trong cuộc đàm luận sau bữa tiệc ly đã hỏi Chúa Giêsu: - Thưa Thày, tại sao Thày tỏ mình ra cho chúng con mà không cho thế gian ?
Chúng ta có thể đồng hóa Ngài với tác giả bức thư, trong đó có trình bày Ngài là: "Giuda, nô lệ của đức Giêsu Kitô, anh em với Giacobê" (Gl 1) không ? Thực sự tiếng Hy lạp phải đọc câu văn này như ở Lc 6,16 là: "Giuda, con của Giacôbê". Hơn nữa câu 17 của bức thư, tác giả như tách mình ra khỏi số 12. Dĩ nhiên, điều này không làm giảm giá sự chính lục của bức thư. Có thể nói, tác giả "anh em với Chúa" (Mc 6,3) không phải là tông đồ nhưng có thể giá trong Giáo hội sơ khai như Giacôbê (Cv 15,13).
Thánh Giuda tông đồ, theo truyền thống, đã đi rao giảng Tin Mừng ở Mesopotamina và chịu tử đạo ở đó.
Một thời Ngài được tôn kính như đấng bảo trợ cho các trường hợp "vô vọng". Lòng sùng kính này bị quên lãng, có lẽ vì Ngài trùng tên với Giuda phản bội.


(daminhvn.net)


28 Tháng Mười

Chuyến Xe Cuộc Ðời

Cách đây hơn một trăm năm, khi đường sắt vừa mới được phát minh, nhu cầu đi lại mỗi lúc một bành trướng, một văn sĩ nọ, trong quyển lịch sử của xe lửa và đường sắt, đã ghi ra một số chỉ dẫn cho hành khách. Trong một chương có tựa đề "Những lời khuyên trước khi lên đường", ông đã đưa ra vài căn dặn như sau: "Trước khi bắt đầu cuộc hành trình, hành khách nên quyết định: mình sẽ đi đâu, sẽ lên chuyến xe lửa nào và ở đâu, tại nơi nào sẽ đổi tàu...".
Trong một đoạn khác, ông nhắc nhủ hành khách như sau: "Khuyên quý khách mang theo hành lý càng ít bao nhiêu càng tốt... Riêng với các bà, các cô, không được phép mang quá ba hành lý và năm gói nhỏ".
Những lời khuyên trên đây xem chừng như không có chút giá trị nào đối với hệ thống đường sắt hiện tại ở Việt Nam. Chen chúc nhau để có được một chỗ ngồi thích hợp, đã là quá lắm rồi, còn chỗ đâu để xác định số hành lý phải mang theo.
Nhưng dù thanh thản trong một con tàu đầy tiện nghi, hay chen chúc nhau trong một wagon chật hẹp bẩn thỉu, mỗi khi bước vào xe lửa, ai trong chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nghĩ đến chuyến đi của cuộc đời... Ðời cũng là một chuyến đi.

Bước lên chiếc xe lửa của cuộc đời, ai trong chúng ta cũng được mời gọi để chuẩn bị cuộc hành trình bằng một số câu hỏi cơ bản: tôi sẽ đi về đâu? Tôi phải mang những gì cần thiết cho cuộc hành trình?
Trên một số tuyến đường liên tỉnh tại Phi Luật Tân, thỉnh thoảng hành khách có thể đọc được một bảng hiệu có thể làm cho họ phải giật mình suy nghĩ: có thể đây là chuyến đi cuối cùng của bạn. Thật ra, ít có ai khi lên đường, lại có ý nghĩ ấy. Có lẽ người ta nghĩ đến công việc, nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những thú vui đang chờ đợi hơn là phải dừng lại với ý nghĩ của một cái chết bất ngờ.
Thái độ khôn ngoan nhất mà Chúa Giêsu thường lặp lại trong Tin Mừng của Ngài: đó là "Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào". Con người sinh ra để chết. Nói như thế không hẳn là một phát biểu bi quan về cuộc đời, mà đúng hơn là một cái nhìn trong suốt về hướng đi của cuộc đời.
Giá như ai trong chúng ta cũng biết rằng: công việc ta đang làm trong giây phút này đây là công việc cuối cùng trong cuộc đời, thì có lẽ mọi việc đều có một ý nghĩa và một mục đích khác hẳn.


(Lẽ Sống)

Thứ Hai 28-10
Thánh Simon và Thánh Giu-đê (Jude)

T
hánh Giu-đê là một nhân vật được đề cập đến trong Phúc Âm theo Thánh Luca, cũng như trong Công Vụ Tông Ðổ Thánh Mátthêu và Thánh Máccô gọi ngài là Thadeus (Ta-đê-ô). Ngoài ra ngài không được nhắc đến ở chỗ nào khác trong các Phúc Âm, ngoại trừ, khi kể tên các tông đổ Các học giả cho rằng ngài không phải là tác giả của các thư Thánh Giu-đa. Thực ra, Giu-đê cùng tên với Giu-đa Ítcariốt (Judas Iscariot). Do đó, vì sự bất xứng của tên Giu-đa (bán Chúa), nên người ta đã gọi tắt là "Giu-đê".
Thánh Simon được tất cả bốn Phúc Âm nhắc đến. Trong hai Phúc Âm, ngài được gọi là "người Nhiệt Thành" (Zealot). Phái Zealot là một nhánh Do Thái Giáo đại diện cho chủ nghĩa dân tộc Do Thái. Ðối với họ, lời hứa cứu tinh trong Cựu Ước có nghĩa là người Do Thái sẽ được tự do và có được một quốc gia độc lập. Chỉ có Thiên Chúa là vua của họ, nên việc nộp thuế cho người La Mã -- là người đang đô hộ -- được coi là xúc phạm đến Thiên Chúå Chắc chắn rằng một số người Zealot là miêu duệ tinh thần của người Maccabee, muốn tiếp tục lý tưởng tôn giáo và tranh đấu cho độc lập. Nhưng nhiều người trong nhóm họ cũng giống như quân khủng bố ngày nay. Họ lùng bắt để giết những người ngoại quốc và người Do Thái "cộng tác với địch." Họ là những người chủ chốt trong vụ nổi loạn chống La Mã và kết thúc bằng việc tiêu hủy thành Giêrusalem vào năm 70.
Lời Bàn
Như mọi trường hợp các thánh tông đồ, ngoại trừ Thánh Phêrô, Gioan và Giacôbê, chúng ta đang đối diện với những người thực sự vô danh, và chúng ta bàng hoàng trước sự kiện là sự thánh thiện của họ hoàn toàn nhờ vào ơn ích của Ðức Kitô. Ngài chọn một số người mà chúng ta không bao giờ nghĩ đến: một đoàn viên Zealot, một chuyên viên thu thuế, một ngư dân nóng tính, hai "người con của sấm sét" và một Giuđa Iscariot.
Ðó là sự nhắc nhở cho chúng ta biết, không phải ai cũng được chọn. Sự thánh thiện không lệ thuộc ở công trạng, văn hóa, cá tính, sự cố gắng hay thành đạt của loài người. Nó hoàn toàn là ơn sủng của Thiên Chúa.
Thiên Chúa không cần đến nhóm Zealot để giúp Nước Trời ngự đến bằng bạo lực. Thánh Giu-đê, cũng như các thánh khác, là vị thánh không có khả năng: Chỉ có Thiên Chúa mới tạo được đời sống thánh thiêng trong con người. Và Chúa muốn như vậy, nơi tất cả mọi người chúng ta.
Lời Trích
"Cũng như Ðức Kitô được sai đến bởi Thiên Chúa Cha, thì Người cũng sai các tông đồ, được đầy tràn Chúa Thánh Thần, để rao giảng cho mọi tạo vật (xem Máccô 16:15), để họ loan truyền rằng Con Thiên Chúa, qua sự chết và sự sống lại, đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của Satan (xem CVTÐ 26:18), và khỏi sự chết, và đưa chúng ta vào vương quốc của Thiên Chúa Cha" (Hiến Chương về Phụng Vụ, 6).


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét