Trang

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

13-10-2013 : (phần 1) CHÚA NHẬT XXVIII MÙA THƯỜNG NIÊN năm C

CHÚA NHẬT 13/10/2013
Chúa Nhật 28 Quanh Năm Năm C
(Phần I)


Bài Ðọc I: 2 V 5, 14-17
"Naaman trở lại gặp người của Thiên Chúa và ông tuyên xưng Chúa".

Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Naaman, quan lãnh binh của vua xứ Syria, xuống tắm bảy lần ở sông Giođan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau đó, ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: "Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel. Vì thế, tôi xin ông nhận lấy phần phúc của tôi tớ ông".
Tiên tri trả lời rằng: "Có Chúa hằng sống, tôi đang đứng trước mặt Người: Thật tôi không dám nhận đâu". Naaman cố nài ép, nhưng tiên tri không nghe. Naaman nói thêm rằng: "Tuỳ ý ông, nhưng tôi xin ông ban phép cho tôi, là đầy tớ của ông, được chở một ít đất vừa sức hai con la chở được, vì từ nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ cho thần minh nào khác".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (c. 2b).
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca! - Ðáp.

Bài Ðọc II: 2 Tm 2, 8-13
"Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Ðức Kitô".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy nhớ rằng Chúa Giêsu Kitô bởi dòng dõi Ðavít, đã từ cõi chết sống lại, theo như Tin Mừng cha rao giảng. Vì Tin Mừng đó mà cha phải đau khổ đến phải chịu xiềng xích như một kẻ gian ác, nhưng lời của Thiên Chúa đâu có bị xiềng xích! Vì thế, cha cam chịu mọi sự vì những kẻ được tuyển chọn, để họ được hưởng ơn cứu độ cùng với vinh quang trên trời trong Ðức Giêsu Kitô.
Ðây cha nói thật: Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta cùng sống với Người. Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta không tin Người, Người vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ chính mình Người.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời! - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 17, 11-19
"Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria.
Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm : Ðược ơn cứu độ, được tình thương của Chúa cứu thế

Ðể chuẩn bị khánh nhật truyền giáo cử hành vào Chúa nhật sau, chúng ta sung sướng được nghe những bài Kinh Thánh hôm nay. Bài đọc sách Các Vua và bài Tin Mừng Luca rõ ràng nói đến hai người lương dân đã nhận được ơn của Chúa; còn trong bài thư Phaolô, chúng ta phải chắc chắn công nhận có lời tạ ơn Thiên Chúa đã ban Tin Mừng cứu độ cho lương dân.
Nhưng nếu Chúa muốn dùng chúng ta để cho lương dân nhận biết Người, thì Người cũng muốn dùng họ để thêm lòng tin cậy mến cho chúng ta. Thế nên những bài Kinh Thánh hôm nay không phải chỉ nói lên hành động của Chúa đối với dân ngoại; mà cũng muốn dạy bảo chúng ta thêm nhờ những hành động này. Bởi vì trước mặt Chúa mọi người đều liên đới và phải bổ khuyết cho nhau để làm nên thân thể hoàn toàn của Ðức Giêsu Kitô.
Chúng ta hãy lần lược đọc các bài Kinh Thánh để đón nhận mọi giáo huấn của Chúa.

1. Một Người Ðược Ðức Tin
Câu chuyện Naaman, người xứ Syri, đã được nhiều người biết. Thiết tưởng chẳng cần phải dài dòng thuật lại rằng: Ông là vị tướng chỉ huy toàn thể quân lực Syri, được vua Syri tín cẩn, nhưng lại mắc bệnh phong cùi. Nghe tin ở đất Giuđa có vị tiên tri nổi danh làm phép lạ. Ông xin thư vua Syri đến đất Do Thái để gặp nhà tiên tri. Êlisê bảo ông cứ xuống sông Hòa Giang tắm 7 lần thì sẽ được khỏi bệnh. Thoạt đầu ông không muốn nghe vì nghĩ sông Hòa Giang của Do Thái có gì sạch hơn sông ở Syri. Nhưng, sau nghĩ lại, ông đã vâng lời xuống sông tắm 7 lần và đã được sạch... đang khi ấy ở đất Do Thái có biết bao người bị phong cùi mà không được chữa khỏi như ông. Trường hợp của ông nói lên lòng thương - và phải nói là ưu ái nữa - của Thiên Chúa đối với lương dân.
Bài học hôm nay chỉ nhắc sơ đến việc Naaman được chữa lành. Những gì xảy ra sau đó mới là trọng tâm. Chúng ta thấy Naaman được sạch rồi đã cùng đoàn tùy tùng trở lại gặp nhà tiên tri. Ông nói: bây giờ tôi đã biết: trên khắp cả mặt đất chẳng có chúa nào khác ngoài Chúa của Israel.
Naaman đã bỏ tà thần để suy phục Thiên Chúa. Ông đã được đức tin sau khi được lành bệnh. Từ nay ông trở thành dân của Chúa. Và chắc chắn đức tin của ông dứt khoát, mạnh mẽ hơn nhiều người Do Thái. Ðể chứng tỏ niềm tin này, trước hết ông xin phép dâng chút lễ mọn cho nhà tiên tri, tức là người của Chúa, theo thông lệ thời bấy giờ. Không phải ông muốn cám ơn Êlisê vì đã chữa ông khỏi bệnh. Ý nghĩa gói ghém trong việc muốn dâng tặng lễ vật là để nói lên niềm tin Êlisê là tiên tri, tức là người của Chúa. Naaman muốn cư xử như mọi tín hữu. Những người này khi đến với các tiên tri vẫn dâng cho các ngài một chút lễ mọn để nói lên niềm tin công nhận và tôn trọng những người được Chúa chọn.
Êlisê từ chối. Có lẽ vì tế nhị, hoặc vì muốn người tân tòng hiểu đạo một cách thuần túy. Cũng có thể Êlisê muốn thử đức tin của Naaman, vì theo lời nói tiếp sau của ông này, chúng ta thấy Naaman có vẻ sợ nhà tiên tri chưa coi mình như là một tín hữu thường. Ông nói: "Nếu không, thì xin cho tôi chở về một xe đất cặp la kéo được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ cho một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa, Chúa của Israen". Bởi vì theo quan niệm thời bấy giờ, đất nước nào thì thần linh ấy. Naaman đã tin Chúa của Israen thì phải thờ Ngài trên đất của Ngài. Ðất cát xứ Syri không xứng đáng với Ngài nữa vì là đất của dân ngoại và đã ra nhơ nhớp vì tà thần. Nay trở về quê quán, Naaman phải đem một ít đất Do Thái về để dựng bàn thờ mới trên đất ấy mà thờ phượng Thiên Chúa. Nếu Êlisê cho phép làm như vậy, Naaman mới chắc chắn nhà tiên tri đã tin mình và coi mình như tín hữu. Và vì thế lời xin của Naaman còn là một lời tuyên xưng đức tin chân chính.
Chúng ta phải cảm phục ông, cũng như chúng ta thường cảm phục đức tin của những người mới trở lại. Chúng ta thấy họ sau khi đã nhận biết Chúa thì thành khẩn muốn theo Chúa cho đến cùng. Họ muốn là những tín hữu một trăm phần trăm, khiến chúng ta, những người "đạo cũ, đạo dòng" phải suy nghĩ.

Câu chuyện Naaman và đức tin của ông đã được Ðức Giêsu nhắc lại để nêu gương cho môn đệ của Người. Chúng ta còn phải đọc đi đọc lại cũng với nhiều gương sáng khác để thấm thía những bài học mà Chúa muốn dùng lương dân để nói với chúng ta. Cũng trong chiều hướng đó, phụng vụ hôm nay còn muốn chúng ta đọc thêm đoạn Tin Mừng Luca.

2. Một Ðức Tin Tiến Bộ
Hôm ấy, Ðức Giêsu đang trên đàng đi lên Giêrusalem. Ðối với tác giả Luca, đây là cuộc hành trình đầy ý nghĩa. Ðức Giêsu đi lên Giêrusalem không phải chỉ để chịu chết mà đồng thời cũng là được vinh thăng. Do đó từ ngữ "đi lên" Giêrusalem đã được lựa chọn một cách tính toán và hữu ý. Ðây là một cuộc đi lên. Và như chính Ðức Giêsu nói, khi nào được "đưa lên", Người cũng kéo tất cả lên với Người. Con đường đi lên Giêrusalem vì thế vừa là đàng để Chúa đi lên, và đồng thời cũng là đàng để chúng ta đi lên với Chúa là sự thật và là sự sống. Ðó là con đường của Kitô giáo, của hết thảy chúng ta khi muốn sống đạo.
Tác giả Luca còn xác định thêm, khi đã lên Giêrusalem, Ðức Giêsu và môn đệ của Người "đã ngang qua Samari và Galilê". Nói rõ ra, thì Người đã không chọn một trong hai con đường thời bấy giờ dẫn từ Galilê xuống Giuđêa và đi qua Samari. Người đi con đường riêng khác với mọi người và lần theo bờ sông Hòa Giang; bởi vì Người muốn xuống Giuđêa trước rồi mới đi bọc lên để sau này Gioan có thể viết rằng: "Ơn giải thoát khơi nguồn tự Do Thái" (4,22). Nhưng Luca vẫn nhấn mạnh điều này, là khi còn sống, Ðức Giêsu đã tiếp xúc với dân Samari. Hơn nữa, Người còn ban đức tin cho dân này, dân mà Do Thái vẫn coi như dân ngoại và không đáng được vào sổ dân Chúa. Và như vậy Luca làm như vậy để phản đối mọi khuynh hướng chỉ muốn giữ đức tin cho người Do Thái. Theo người, chính Do Thái phải mở mắt ra mà xem công việc của Chúa làm nơi lương dân như câu chuyện người sắp kể.
Vậy, trên đường đi lên Giêrusalem, Ðức Giêsu vào một làng kia. Mười người phung cùi muốn đón gặp nhưng theo luật dạy chỉ dám đứng lại đàng xa. Họ là thành phần ô uế của xã hội, không được đến gần ai kẻo làm dơ nhớp người ấy. Nhưng họ tin Ðức Giêsu. Họ nghĩ Người có thể chữa họ khỏi bệnh. Thế nên họ cất tiếng thưa: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Ðối với họ, danh từ "Thầy" rất phong phú. Họ không nghĩ đến khả năng giáo huấn của Ðức Giêsu đâu. Họ trông chờ quyền năng ở nơi Người. Họ đã nghe nói Người làm nhiều phép lạ. Người là Thầy theo nghĩa ấy. Người là tiên tri của Chúa như Naaman đã nghĩ như vậy về Êlisê.
Ở đây, mười người phong cùi còn xưng đích danh Ðức Giêsu. Họ không sợ "phạm húy". Họ muốn nói lên lòng tín nhiệm muốn kéo Người lại gần mình, như người trộm lành sau này cũng kêu tên Ðức Giêsu như thế để được chia phần số phận với Người, vì thực ra âm thầm họ ý thức được bệnh tình của họ chỉ có lòng thương xót của Thiên Chúa mới chữa được. Họ như nói lên niềm tin của dân Chúa đang trông chờ ơn cứu độ lòng Chúa thương xót, tức là nhờ Chúa là Ðấng thương xót.
Chắc chắn Ðức Giêsu đã coi lời họ xin là biểu thị lòng tin, nên bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế". Người bị bệnh phong cùi chỉ đi trình diện các tư tế khi đã khỏi bệnh để được các bậc nắm giữ pháp luật xác nhận là đã lành sạch. Bảo họ đi trình diện tức là Ðức Giêsu đã cam kết chữa họ. Thế mà Người chỉ làm phép lạ khi thấy lòng tin của người ta. Do đó Người đã chắc chắn về lòng tin của 10 bệnh nhân này.
Và quả thực, họ tin Người đến nỗi lập tức đã ra đi trình diện khi chưa thấy mình sạch. Ðó là niềm tin có thể dời núi chuyển non, như Lời Chúa đã hứa. Và thật vậy, trong khi họ đi họ đã được "sạch", tức là được khỏi bệnh. Chúng ta cảm phục lòng tin của họ; nhưng thiết tưởng chúng ta phải kính yêu Chúa Giêsu hơn nữa. Người đã chữa 10 kẻ phong cùi khỏi bệnh dễ dàng như vậy và nhất là khiêm tốn như thế. Khác hẳn với những tên tự xưng là cao tay làm phép lạ nhưng thật sự chỉ là những tên bịp bợm. Nhưng chúng ta hãy trở về với 10 người phong cùi.
Cả bọn đã được sạch bệnh. Nhưng chỉ có một người lập tức quay đầu trở lại gặp Ðức Giêsu. Anh ta lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh gục mặt dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh làm một hành vi thờ phượng. Anh công nhận Ngài là Chúa. Trong khi 9 người kia đi đâu? Nghĩ rằng họ đã trở về nhà mình thì tệ quá. Tác giả Luca để cho chúng ta đoán. Tôi nghĩ họ đã tiếp tục đi trình diện các tư tế. Họ tiếp tục làm bổn phận của mình. Họ có đức vâng lời "tối mặt".
Ðó là những ý nghĩ tốt nhất cho họ. Nhưng ở đây, những ý nghĩ đó vẫn không bào chữa được cho họ. Họ ích kỷ vì chỉ nghĩ đến mình, muốn cho mình được công nhận ngay để được sống như mọi người; đang khi lẽ ra thấy mình được sạch như vậy, họ phải nhận ra ơn Chúa, phải tạ ơn Người, phải trở lại nguồn mạch đã ban ơn cho mình. Há Chúa đã chẳng cho thấy Ngài mang ơn cứu độ đến sao? Ngài không đáng tìm đến hơn các tư tế vô vị kia sao?
Chỉ có một người đã nhận ra như vậy. Người ấy thấy rằng ơn cứu độ bây giờ ở nơi Ðức Giêsu. Người ấy trở lại thờ lạy Người. Ðền thờ Chúa chân thật từ nay không còn nằm nơi có tư tế đạo cũ nữa. Ðền thờ ấy bây giờ là chính Chúa Giêsu. Thành ra đã thực hiện Lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ xứ Samaria trong sách Tin Mừng Gioan: Ơn giải thoát khơi nguồn tự Do Thái... nhưng sẽ đến giờ - và là ngay bây giờ -, những kẻ thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong Thần Khí và Sự Thật.
Việc một người trong số 10 người được khỏi bệnh trở lại thờ lạy Ðức Giêsu phải chăng muốn ám chỉ những điều ấy? Và người ấy lại là một người Samaria dị chủng duy nhất. Tác giả Luca đợi đến lúc này mới nói lên quốc tịch của người ấy. Chín người kia là Do Thái. Chúa Giêsu nói: "Không phải là cả 10 người được sạch ư? Chín người kia đâu?". Có một màu sắc đau xót và phiền trách trong câu hỏi này. Nó nói lên lòng của tác giả Luca khi thấy Chúa mang ơn cứu độ đến cho cả Do Thái lẫn Hy Lạp, thế mà kìa xem dường như chỉ có dân ngoại chen vào nhà Chúa.

Chúa Giêsu bảo người kia để kết luận: "Hãy chỗi dậy mà đi. Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi". Chúng ta tự nhiên muốn hỏi, phải chăng lời này ám chỉ rằng những người kia không được khỏi bệnh? Không chắc. Tôi dám nghĩ Chúa Giêsu đâu có hẹp hòi gì! Người chẳng cần rút lại một ơn đã ban. Nhưng có thân thể lành mạnh mà không được vào Nước Trời thì nào ích gì? Ðiều cốt yếu mà người Samaria kia đã được là "được cứu", tức là được ơn cứu độ, được tình thương của Chúa cứu thế. Người bảo anh ta: Hãy chỗi dậy mà đi đi. Những từ ngữ này gợi đến mầu nhiệm phục sinh sống lại, chỗi dậy khỏi sự chết và đời sống cũ; và nhắc chúng ta nhớ đến việc Ðức Giêsu đang đi lên Giêrusalem để được vinh hiển. Ðó là con đường mà người Samari, tức là lương dân từ nay sẽ đi để sống đạo, sống đời sống Kitô hữu để theo Ðức Kitô đến vinh quang.
Tất cả những tư tưởng dồi dào này, chúng ta cần suy niệm thêm để thấy mình nơi người Samari có phúc kia. Chúng ta đã có đức tin. Nhưng đức tin này cần tiến bộ, mới cứu được chúng ta. Chín người Do Thái kia cũng đã có lòng tin khi kêu xin Chúa chữa và vâng lời đi trình diện các tư tế. Nhưng rồi đức tin của họ đã đi vào tập quán, suy nghĩ theo thói quen và không tỉnh thức nhận ra mạc khải mới của Chúa. Họ dùng đức tin để phục vụ mình nên họ đã quên và bỏ Chúa. Những người như họ cần đọc lại bài Tin Mừng hôm nay; và cũng có thể đọc thêm bài thư Phaolô, để dễ thấm thía thâm tín hơn.

3. Một Sự Tiến Bộ Không Nản Chí
Quả vậy, trong bài thư này thánh Phaolô nói đến lòng tin của người. Không những người đã tin Ðức Giêsu Kitô phục sinh từ kẻ chết và người hằng rao giảng Tin Mừng ấy cho lương dân để họ cũng được cứu chuộc; nhưng ngay lúc này đây, đang khi bị giam cầm tù tội như một kẻ gian phi, người vẫn không bớt niềm tin ấy. Ngược lại, lòng tin của người vẫn mạnh, vẫn tiến. Người chịu đựng tất cả những đau khổ hiện tại cho phần rỗi của những người được Chúa chọn. Tức là đang khi bị cầm tù, người vẫn làm tông đồ, người vẫn rao giảng đức tin bằng chính cách chịu đau khổ. Do đó người có thể viết: người bị cầm tù nhưng Tin Mừng của Ðức Kitô, lời cứu độ của Thiên Chúa chẳng hề bị cầm chân. Người nêu gương cho tất cả chúng ta luôn phải đưa đức tin đi xa hơn, làm cho đức tin ấy tiến bộ, ngay cả khi bị thử thách và chúng ta sẽ có thể nói như Phaolô ở một đoạn khác: tôi biết tôi đã tin vào ai?
Không phải chúng ta chỉ tin vào Thiên Chúa duy nhất như Naaman trong bài sách Các Vua; và cũng không phải chúng ta chỉ tin vào Ðức Giêsu có quyền làm phép lạ như 10 người bị bệnh phong cùi trong bài Tin Mừng, chúng ta tin Ðức Giêsu là Thiên Chúa như người Samari kia, và nhất là chúng ta tin Ðức Giêsu đã chết và sống lại vì ta như thánh Phaolô nói trong bài thư hôm nay. Do đó, dù khi có bệnh hay không có bệnh, dù được khỏi hay không được khỏi bệnh, dù bị rơi vào bất cứ hoàn cảnh rủi ro nào, chúng ta vẫn tin và vẫn rao giảng Chúa Giêsu Kitô. Người kết hiệp với chúng ta trong thánh lễ này. Người đưa chúng ta vào đường lối của Người để như Người đã đi lên mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh thế nào, chúng ta cũng chỗi dậy và đi với Người cho đến hạnh phúc muôn đời.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 28 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: 2 Kgs 5:14-17; 2 Tim 2:8-13; Lk 17:11-19.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lòng biết ơn.

Không ai thích người vô ơn; nhưng nhiều khi chính chúng ta lại là những người vô ơn với Thiên Chúa, với cha mẹ, và với tha nhân. Để biết ơn, chúng ta cần phải nhận ra ơn, chứ đừng bao giờ nghĩ mọi sự phải xảy ra như vậy: Thiên Chúa phải ban ơn, cha mẹ phải săn sóc con cái, các nhà lãnh đạo phải lo cho dân... Công ơn mình đang hưởng có thể bị lấy mất bất cứ lúc nào. Có những người sợ phải biết ơn vì họ sợ sẽ phải đền ơn; vì thế họ vô ơn. Họ quên đi rằng khi con người biết ơn, họ sẽ được lãnh nhận nhiều ơn hơn, và cuộc đời họ sẽ thăng tiến. Người vô ơn sẽ càng ngày càng lụi bại dần, và sẽ bị mọi người xa lánh.
Các bài đọc hôm nay tập trung trong hai khía cạnh quan trọng của việc biết ơn: (1) nhận ra những gì ân nhân đã làm cho mình; (2) cám ơn bằng việc làm cụ thể. Trong bài đọc I, tướng Syria là Naaman nhận ra Thiên Chúa của Israel là Người đã chữa ông khỏi bệnh cùi. Ông trở lại cám ơn ngôn sứ Elisha như khí cụ Thiên Chúa dùng để chữa lành, và cam kết từ nay sẽ không thờ phượng một Thiên Chúa nào khác. Trong bài đọc II, Phaolô nhận ra những gì Đức Kitô đã làm cho con người và cho chính bản thân ông trên đường đi Damascus. Ông khuyên môn đệ Timothy trung thành chịu đau khổ để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Đức Kitô cho mọi người để họ cũng được hưởng sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, người bệnh phong xứ Samaria là người duy nhất trong 10 người đã nhận ra ơn lành Chúa Giêsu đã làm cho ông. Ông trở lại cám ơn Chúa Giêsu, và ông nhận được thêm ơn lành cứu độ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Tôi tớ ngài sẽ không còn dâng hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.

1.1/ Tướng Naaman nhận ra Thiên Chúa của Israel đã chữa bệnh cho mình.

Trước khi Naaman, tướng Syria, vâng lời dìm mình 7 lần trong sông Jordan, ông đã trải qua cuộc thử thách nội tâm: Tại sao ngôn sứ Elisha không chịu ra đón tiếp ông? Tại sao khinh thường ông đến độ chỉ sai đầy tớ ra đón ông với một mệnh lệnh đơn giản: “Xuống sông Jordan dìm mình 7 lần sẽ được sạch.” Tại sao phải dìm mình 7 lần trong sông Jordan của người Do-thái, trong khi có biết bao con sông ở Syria sạch sẽ hơn nhiều? Và ông đã giận dữ bỏ ra về...
Đoàn tùy tùng phải mở trí cho ông để ông nhận ra những vô lý của ông: Chính ông là người cần nhận ơn từ người của Thiên Chúa chứ không ngược lại. Đã vất vả qua Do-thái rồi, giờ chỉ cần nghe lời người của Thiên Chúa, khiêm nhường dìm mình 7 lần trong sông Jordan là được sạch. Tại sao ông không chịu làm công việc quá dễ dàng như thế để khỏi phải chịu một chứng bệnh nan y suốt đời?
Và ông đã nhận ra sự vô lý của mình, ông khiêm nhường làm theo lời của ngôn sứ Elisha: “ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Jordan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.”


1.2/ Tướng Naaman tuyên thệ sẽ không thờ bất cứ thần nào ngoại trừ Thiên Chúa của Elisha.

Khi tướng Naaman nhận ra đã được lành bệnh, ông thân hành trở lại đứng trước mặt ngôn sứ Elisha, người của Thiên Chúa, tuyên xưng: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel.” Ông không những đã được Thiên Chúa chữa lành phần xác là cho khỏi bệnh phong, ông còn được chữa lành phần hồn qua việc nhận ra Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa duy nhất, và bổn phận của ông là chỉ thờ phượng một Thiên Chúa này mà thôi.
Khi Naaman dâng lễ vật để tỏ lòng biết ơn, ngôn sứ Elisha không lãnh nhận, vì ngôn sứ biết rõ việc chữa lành là ơn của Thiên Chúa dành cho tướng Naaman, không phải do bởi ông. Ông không thể nhận quà tặng, vì như thế là đánh cắp công ơn của Thiên Chúa, và có thể làm cho người nhận ơn hiểu lầm. Đây phải là một bài học quan trọng cho chúng ta: Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa. Đừng bao giờ đánh cắp làm của mình. Cần phải nói cho người được ơn biết rõ lý do để họ cám ơn Thiên Chúa.
Tại sao Naaman muốn xin mang về hai xe đất? Có lẽ Naaman muốn dùng đất đó để xây dựng bàn thờ kính Thiên Chúa, vì theo như lời ông nói: “Tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.”

2/ Bài đọc II: Đức Kitô, vị đại ân nhân của loài người.

1.1/ Phaolô nhận ra những gì Đức Kitô đã làm cho loài người và cho chính ông.

Để hiểu những gì Phaolô nói, chúng ta cần luôn trở về với biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc đời Phaolô trên đường đi Damascus. Phaolô đã nhận ra những ơn Thiên Chúa ban cho ông:
- Ơn phần hồn: cho ông nhìn thấy chính Chúa phục sinh; giúp ông thay đổi não trạng kiêu ngạo để biết nhìn nhận: con người được cứu độ do bởi ơn thánh chứ không do bởi việc cố gắng giữ Lề Luật. Sự sống lại có thật; và như thế, tất cả những Lời dạy dỗ của Đức Kitô là sự thật.
- Ơn phần xác: ông được chữa khỏi mù và khỏi bị phạt chết.
Phaolô cũng nhận ra Đức Kitô là vị đại ân nhân của loài người, qua lời Phaolô khuyên môn đệ Timothy: “Anh hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết.” Ngài đã chết thay cho con người, Ngài đã tha mọi tội cho con người. Ngài đã mang lại cho con người sự sống đời đời đã bị đánh mất bởi tội.

1.2/ Phaolô cam chịu mọi sự để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn.

Một khi Phaolô đã nhận ra tất cả các ơn Đức Kitô đã làm cho ông, ông quyết định dành trọn cuộc đời còn lại để báo đáp bằng cách chu toàn trọn vẹn sứ vụ Đức Kitô trao phó cho ông là rao giảng Tin Mừng. Phaolô có kinh nghiệm rất rõ trong ba cuộc hành trình, ông phải chịu nhiều đau khổ để mang Tin Mừng đến cho mọi người và để chứng minh lòng trung thành của ông với Đức Kitô.
Một trong những điểm quan trọng của thần học Phaolô là “Hãy bắt chước Phaolô như Phaolô bắt chước Đức Kitô.” Chúa Giêsu không có tội nhưng Ngài sẵn sàng chịu đựng đau khổ cho phần rỗi linh hồn của mọi người. Thánh Phaolô cũng sẵn sàng chịu đau khổ như một tên gian phi vì rao giảng Tin Mừng, “để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, và được hưởng vinh quang muôn đời.” Ngài viết Thư này cho Timothy khi đang bị xiềng xích tại Roma, để khuyên nhủ Timothy cũng phải sẵn sàng chịu đựng đau khổ để rao giảng Tin Mừng. Ngài khuyên Timothy noi gương ngài đừng để Lời của Thiên Chúa bị xiềng xích. Người ta có thể cầm tù người rao giảng; nhưng không ai có thể cầm tù Lời của Thiên Chúa, vì đó là Lời tồn tại muôn đời.
Chỉ trong gian nan một người mới biết ai là người trung thành với mình. Người trốn chạy bạn hữu khi gặp gian khổ không phải là bạn nghĩa thiết. Chúa Giêsu từng nói với các môn đệ: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, Thầy cũng tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy. Ai chối Thầy trước mặt người đời, Thầy cũng chối bỏ người ấy trước mặt Cha Thầy” (Mt 10:32-33). Thánh Phaolô lặp lại lời tuyên xưng ấy với một nghĩa tương tự: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.”

3/ Phúc Âm: “Chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?"

3.1/ Người cùi Samaria nhận ra Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh:


Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilee. Khi Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!"
Mấy phong tục của người Do-thái chúng ta cần hiểu trước khi phân tích trình thuật này:
- Người Do-Thái rất chú trọng đến vấn đề thanh sạch bên trong cũng như bên ngoài; vì thế, những người phong cùi không được ở chung với dân chúng; mà phải sống cách biệt bên ngoài làng của dân ở (Lev 13:46, Num 5:2). Họ không được phép tiếp xúc trực tiếp với dân, và phải dừng lại và la lớn để mọi người biết sự có mặt của họ mà tránh đi (Lev 13:45).
- Ngày xưa không có y sĩ như bây giờ. Để chứng tỏ đã hết bệnh phong cùi, họ phải được xem xét cẩn thận bởi các tư tế. Khi nào các tư tế tuyên bố họ đã sạch; bấy giờ họ có thể trở về sinh hoạt bình thường với dân trong làng (Lev 14:2-3). Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế."
Chúa Giêsu thử thách cả 10 người khi bảo họ đi trình diện với các tư tế, vì khi họ đi, chưa ai trong họ được sạch cả. Chỉ đang khi đi thì họ mới nhận ra họ đã được sạch.

3.2/ Người Samaria được sạch trở lại cám ơn Chúa Giêsu.

Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Chúa Giêsu nhận ra ngay anh ta là người Samaria và 9 người kia là người Do-thái. Đức Giêsu nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?"
Biết ơn là xứng đáng đón nhận thêm ơn. Chúa Giêsu nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." Anh không chỉ được thanh sạch bên ngoài, anh còn được thanh sạch cả bên trong. Chính vì lòng tin mà anh đã xứng đáng được hưởng ơn cứu độ.
Tại sao con người vô ơn? Có nhiều lý do: (1) vì con người không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có; (2) họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và (3) họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn; vì thế, họ vô ơn với Thiên Chúa, với cha mẹ, và với mọi người chung quanh. Những con người vô ơn bạc nghĩa sẽ không sống nổi trong cuộc đời, vì họ sẽ bị Thiên Chúa và mọi người khai trừ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta phải biết dùng trí khôn để nhận ra ơn và dùng trí nhớ để đếm tất cả những ơn lành đã nhận được. Lười biếng và vô tâm làm con người không nhận ra những ơn lành lãnh nhận.
- Biết ơn là điều kiện để nhận thêm ơn, nhiều khi những ơn đó còn cao cả hơn những ơn đã lãnh nhận. Người vô ơn không nhận được thêm ơn.
- Không phải chỉ biết ơn suông, nhưng còn phải nói lời cám ơn và tìm dịp để đền ơn.
- Con người không thể làm ơn cho Thiên Chúa, họ chỉ có thể làm cho tha nhân và được Thiên Chúa kể là làm cho chính Ngài. Những gì con người làm cho tha nhân không chỉ đáp đền ơn Thiên Chúa ở đời này, mà còn trở nên công trạng giúp cho con người ở đời sau. Vì thế, hãy ra sức giúp đỡ tha nhân bao nhiêu có thể làm được.
- Chúng ta phải biết ơn cha mẹ, những người đã cưu mang, nuôi nấng, và dạy dỗ chúng ta trong suốt một phần tư của cuộc đời. Khi cha mẹ về già và không còn tự săn sóc mình được nữa, chúng ta phải phụng dưỡng và săn sóc các ngài. Đừng cho vào các nhà hưu dưỡng rồi tự an ủi: “chính phủ sẽ săn sóc các ngài tốt hơn ta.”


Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


Biết ơn
Trong cuốn "Nói với chính mình" Đức Cha Bùi Tuần có viết: Tôi rất thích chó vì chó biết ơn. Dầu chỉ nhận được một cục xương, chó cũng tỏ vẻ biết ơn. Chủ đi đâu về, chó cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Trong khi đó, con người vô ơn lại là chuyện bình thường.
Một sự kiện khác cũng khiến chúng ta phải ngạc nhiên không ít: một số người Việt Nam từ hải ngoại trở về thăm quê hương đã đưa ra nhận xét như sau: Dầu cố gắng che giấu đến đâu cái tông tích Việt kiều của mình, thì cái tông tích ấy vẫn cứ bị lộ ra. Và oái oăm thay, cái tông tích ấy được thể hiện không phải qua cách mua sắm tiêu xài hay qua cách phục sức, mà gắn liền với một chi tiết rất tầm thường. Người ta nhận ra họ bởi vì họ là những người luôn miệng nói lên hai tiếng "cám ơn". Nếu quả thực hai tiếng cám ơn đã trở thành quý hiếm trên môi miệng người Việt Nam hiện nay, thì điều này hẳn phải là một báo động đáng lo ngại. Đó có thể là dấu hiệu của sự khô cạn tình người trong xã hội chúng ta đang sống.
Thực vậy, khi ơn nghĩa đã bị chối bỏ, thì dĩ nhiên sự ràng buộc và tình liên đới cũng trở thành mong manh. Một khi tình người bị chối bỏ, thì tất nhiên niềm tin tôn giáo cũng sẽ chỉ là chuyện thừa thãi mà thôi.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa của lòng biết ơn trong cuộc sống con người. Trong số mười người được chữa lành, thì chỉ có một người quay lại ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài. Chúa Giêsu hẳn đã chua xót trước sự vô ơn của con người khi thốt lên: Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu sao không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại này mà thôi. Tỷ lệ quá thấp, chỉ có một phần mười. Và một phần mười ấy theo Chúa Giêsu nhận xét lại là thành phần ngoại giáo. Mặc dù là ngoại giáo theo nghĩa tôn giáo, nhưng lại rất có đạo theo nghĩa đạo làm người. Mà bởi đạo làm người cũng là thể hiện của đạo Chúa, cho nên người ngoại giáo Samaria này, theo cái nhìn của Chúa Giêsu, hẳn phải là người có đạo hơn chín người Do Thái kia, bởi vì người này đã thực thi cái nhân đức cao quý nhất của con người là lòng biết ơn.
Con người không thể là người một cách sung mãn mà không cần đến người khác. Nói lên hai tiếng cám ơn là nói lên tình liên đới thâm sâu giữa người với người. Tôi không thể là tôi nếu không có người khác. Tôi cần có người khác để sống hoàn thiện, để được hạnh phúc. Từ cha mẹ tôi, gia đình tôi, những người thân thích của tôi cho đến cả những kẻ thù của tôi...Tất cả đều đã đóng góp vào sự trưởng thành của tôi. Không ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng. Cuộc đời là một chuỗi những lãnh nhận, từ sự sống cho đến những thành đạt. Không có gì chúng ta đang có mà không do lãnh nhận từ người khác. Do đó biết ơn là một đòi hỏi thiết yếu nhất của trái tim con người. Không có lời rủa sả nào thậm tệ bằng ba tiếng: Đồ vô ơn. Hơn nữa, lòng biết ơn còn là con đường dẫn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn mọi ơn huệ.
Người Samaria được chữa lành, đã ngợi khen Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài. Như vậy, lòng biết ơn chính là nẻo đường dẫn anh đến gặp gỡ với Thiên Chúa. Sống cho ra người, sống cho có tình nghĩa, đó là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Vô thần, xét cho cùng, cũng chỉ là vô ơn, bởi vì kẻ chối bỏ Thiên Chúa thì dĩ nhiên cũng sẽ chối bỏ người đồng loại của mình.

13/10/13 CHÚA NHẬT TUẦN 28 TN – C 
Lc 17,11-19

TÂM TÌNH BIẾT ƠN
Đang khi đi, họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. (Lc 17,14-16)
Suy niệm: Bộ phim Danh sách Schindler (từng được giải thưởng Oscar) có một kết thúc thật cảm động. Schindler là một nhà công nghiệp người Đức đã cứu trên ngàn người Do Thái khỏi trại tập trung. Trước ngày ông tháo chạy về phía tây, những người Do Thái đã tháo chiếc răng vàng còn sót lại để luyện thành chiếc nhẫn tặng ân nhân mình với dòng chữ: “Ai cứu được một mạng sống là cứu được cả thế giới”. Tục ngữ Việt Nam nói rằng: “Làm ơn chớ nên nhớ, được ơn chớ nên quên”. Cũng như những người Do Thái Ba Lan, Người phong Samari đã ghi nhớ “được ơn chớ nên quên”, nên đã trở lại tôn vinh Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Đức Giêsu tỏ lòng biết ơn. Còn chín người phong Do Thái kia chỉ dừng lại ở quà tặng, mà không biết hướng đến Đấng ban tặng. Thật đáng tiếc!
Mời Bạn: Hãy luôn nói tiếng cám ơn mỗi khi nhận được một điều gì từ người chung quanh. Bạn cũng đừng coi những gì Chúa ban là điều bình thường mà quên cảm tạ Chúa, bạn nhé!
Chia sẻ: Làm cách nào để cuộc đời tôi luôn là lời tạ ơn Thiên Chúa?
Sống Lời Chúa: Tôi sẽ nói tiếng cám ơn với người thân và nói lời tạ ơn với Chúa mỗi tối trước khi đi ngủ.
Cầu nguyện: Lạy Cha, con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn. Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên. Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban vì có hại cho con.         (Rabbouni)

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG MƯỜI
Một Thời Đại Khẩn Trương
Thật bi đát là còn nhiều vùng trên thế giới, người ta vẫn chưa biết hoặc đã lãng quên Tin Mừng. Xã hội hiện đại vốn tự hào là một xã hội thông tin, nhưng có hàng triệu con người mong mỏi được nghe Tin Mừng mà chỉ mới được biết loáng thoáng hoặc chẳng biết gì cả về Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Và trong thế giới cũ, vốn in đậm truyền thống đức tin Kitô giáo hàng bao thế kỷ, đang tồn tại những ý thức hệ sai lạc và tư tưởng duy vật quá tràn ngập đến nỗi nhiều người sợ rằng thế giới có nguy cơ bị nhận chìm vào trong vực thẳm đen tối của chủ nghĩa vô thần. Vì thế, song song với nhu cầu Phúc Âm hóa, chúng ta nhận ra một nhu cầu cấp bách không kém, đó là tái rao giảng Tin Mừng.Tất cả chúng ta – linh mục cũng như giáo dân – đều được mời gọi khơi lại ý thức trong Giáo Hội về nhu cầu khẩn thiết của việc Phúc Âm hóa và tái Phúc Âm hóa. Đặc biệt, chúng ta phải giúp cho thế hệ trẻ nắm bắt sứ điệp này. Tâm hồn các bạn trẻ thường bị phân tán bởi những hy vọng trống rỗng. Chúng ta phải nhấn mạnh với họ về tính khẩn thiết của công việc truyền giáo, là lời tiếng gọi thách đố tất cả những ai đã lãnh nhận Phép Rửa. Chúng ta cũng cần phải làm cho các cộng đoàn Kitô hữu trở nên liên đới mật thiết với những nhu cầu những thử thách của các anh em tại các vùng truyền giáo.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II

Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 13-10
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN
2V 5,14-17; 2Tm2,813; Lc 17,11-19

LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện mười người phung hủi đến xin Chúa Giêsu chữa lành. Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện tư tế”. Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa (Lc 17,14-15).
Trong cuộc sống, thường là khi gặp khó khăn, chúng ta chạy đến với mọi người và mọi nơi, nhưng khi vượt qua những khó khăn đó và trở nên... lại thường quên ơn, có người lại muốn phủi ơn để che đây mọi khó khăn trước đó, và tự cho, do tay mình làm nên mọi sự, hay là gặp vận may. Điều này, đối với đức tin của người Kitô hữu, chúng ta cần phải ý thức lại: mọi sự, mọi hoàn cảnh, đều do bởi ơn ban của Chúa, ơn ban này Chúa trao từ tay người này, người nọ mà đến với chúng ta. Nên những điều chúng ta đang hưởng, những hoàn cảnh chúng ta đang sống cần hướng về Thiên Chúa để cầu nguyện và tôn vinh Ngài.
Mạnh Phương
13 Tháng Mười
Mặt Trời Múa

Hôm nay 13 tháng 10, là kỷ niệm Ðức Mẹ hiện ra lần thứ sáu cho ba em Lucia, Phanxicô và Giacinta tại làng Fatima bên Bồ Ðào Nha.
Ðây là lần hiện ra có đông đảo dân chúng chứng kiến nhất. Mặc dù thời tiết xấu, ngay từ ngày 12, có trên mười ngàn người Bồ Ðào Nha từ khắp nơi trong nước đổ xô về Fatima để chờ đợi phép lạ như Ðức Mẹ đã hứa trong các lần hiện ra trước. Người lo lắng nhất trong suốt mấy ngày hôm đó chính là bà mẹ của Lucia. Bà khuyên cô con gái hãy đi xưng tội để nhỡ nếu không có phép lạ xảy ra, thì khi bị giết chết, họ cũng an tâm vì đã xưng tội. Cô Lucia trả lời: con sẽ đi xưng tội, nhưng không phải vì sợ phép lạ không xảy ra... Ðức Mẹ sẽ giữ lời hứa.
Buổi sáng sớm ngày 13/10, người ta đã thấy đám đông đứng phủ đầy ngọn đồi Cova da Iria, nơi Ðức Mẹ hứa sẽ hiện đến. Dưới cơn mưa lất phất của những ngày đầu mùa thu, ai cũng cảm thấy lạnh cóng, nhưng đều hiệp ý với nhau trong lời kinh Mân Côi kính Mẹ. Mọi người đều chăm chú hướng nhìn về ba em bé mục đồng, trong y phục rách rưới và bê bết những bùn.
Lucia bắt đầu đọc kinh Mân Côi, bỗng cô hô lớn: "Xin mọi người hãy xếp dù lại". Với hai em Phanxicô và Giacinta, cô ra lệnh: "Hai em hãy quỳ xuống, vì Ðức Mẹ đang hiện đến".
Cùng với ba em, nhiều người đã nhìn thấy vệt sáng trên nền trời. Trong một cái nhìn vừa cảm thông và u buồn, Ðức Mẹ nói với ba em bé: "Ta là Ðức Mẹ Mân Côi... Ta muốn người ta xây một nhà nguyện tại đây để kính nhớ Ta. Các con hãy tiếp tục lần hạt mỗi ngày". Và Ðức Mẹ đã hứa sẽ nhận lời cầu xin của một số người mà Lucia đại diện trình lên Mẹ. Nhưng Mẹ cảnh cáo: "Ðừng xúc phạm đến Chúa nữa, người ta đã xúc phạm quá đỗi rồi". Nói xong những điều đó, Ðức Mẹ chỉ tay về hướng mặt trời... Trong cơn ngây ngất, Lucia đã thốt lên: "Xin mọi người hãy nhìn về mặt trời".
Lạ lùng thay, ai cũng có thể nhìn về mặt trời mà không bị lóa mắt. Như một bánh xe cuồn cuộn lửa đỏ, ánh thái dương bỗng quay lượn, nhảy múa và toát ra những tia sáng muôn màu sắc. Rồi thình lình, từ trời cao, mặt trời bỗng đổ xuống như một trái bóng da khổng lồ. Trong cơn hốt hoảng, mọi người cảm thấy như mặt trời sắp rơi xuống, ai ai cũng nằm rạp xuống trên bãi cỏ và đấm ngực ăn năn như để chờ đợi giây phút cuối cùng của vũ trụ... Hiện tượng mặt trời nhảy múa và sa xuống mặt đất kéo dài trong vòng hai phút. Khi mặt trời đã trở lại trạng thái bình thường, mọi người đều nhận thấy rằng, bãi cỏ ướt đẫm trong cơn mưa bỗng trở nên khô ráo.
Việc Ðức Mẹ hiện ra và hiện tượng mặt trời nhảy múa đi kèm như được mô tả trên đây, mang nhiều ý nghĩa.
Chính phủ cách mạng tại Bồ Ðào Nha vào năm 1917 muốn đánh đổ những thứ mà họ gọi là huyền thoại tôn giáo, cũng như dẹp bỏ mọi thứ cuồng tín. Buổi sáng ngày 13/10 hôm đó, cả một lực lượng vũ trang hùng hậu đã được gửi đến đồi Cova da Iria để ngăn cản mọi cuộc tập họp của dân chúng. Báo chí thì tung ra lời tuyên đoán rằng phép lạ sẽ không bao giờ xảy ra và huyền thoại tôn giáo sẽ cáo chung từ hôm đó.
Thế nhưng tất cả những sức ép trên đây đã không đánh đổ được lòng tin của người tín hữu.
Phép lạ mặt trời múa vừa là một thể hiện của quyền năng của Thiên Chúa vừa là một lời mời gọi sám hối. Ðệ nhất chiến tranh đã phát sinh nhiều làn sóng vô thần chủ trương tiêu diệt tôn giáo bằng bạo lực. Bên cạnh những chế độ độc tài chối bỏ quyền sống của con người, nhiều người cũng buông thả trong đời sống luân lý.
Thế giới chỉ có thể cứu vãn được nếu con người biết hoán cải: đó là sứ điệp mà Ðức Maria đã không ngừng lặp đi lặp lại tai Fatima. Và phương tiện để giúp con người hoán cải trước tiên đó là cầu nguyện. Cầu nguyện không những là quay trở lại với Chúa, nhưng còn là một cải đổi tương quan đối với người anh em.
Lịch sử đang lập lại không ngừng. Quyền sống của con người đang bị chối bỏ nhiều nơi trên thế giới. Con người cũng chối bỏ và chà đạp chính Thiên Chúa trong những sa đọa về luân lý. Ðức Maria đang tha thiết kêu mời chúng ta hãy sám hối, siêng năng cầu nguyện với kinh Mân Côi... Ðó là phương thế duy nhất để cứu vãn thế giới của chúng ta.
(Lẽ Sống)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét