Trang

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

11-10-2013 : THỨ SÁU TUẦN XXVII MÙA THƯỜNG NIÊN

THỨ SÁU 11/10/2013
Thứ Sáu sau Chúa Nhật 27 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (Năm I) Ge 1, 13-15; 2, 1-2
"Ngày của Chúa, ngày của u tối mù mịt".
Trích sách Tiên tri Giôel.
Hỡi các tư tế, hãy thắt lưng và kêu khóc! Hỡi các thừa tác viên bàn thờ, hãy la lên! Hỡi các thừa tác viên của Thiên Chúa tôi, hãy tiến vào, hãy mặc áo vải gai mà thức suốt đêm, vì lễ chay, lễ quán bị cất khỏi đền thờ Thiên Chúa các ngươi.
Hãy công bố cuộc chay thánh. Hãy triệu tập đại hội. Hãy tụ họp các bô lão, tất cả những dân cư trong nước hiệp mặt lại trong đền thờ Thiên Chúa các ngươi và hãy kêu cầu Chúa: Ôi, ôi, ôi! ngày vô phúc, vì ngày của Chúa gần đến rồi, nó đến như cuộc tàn phá do Ðấng Quyền Năng thực hiện.
Hãy thổi kèn tại Sion! Hãy la lối trên núi thánh của Ta! Tất cả dân cư trong nước hãy run sợ, vì ngày Chúa đã gần đến rồi, ngày u tối mù mịt, ngày mây đen bão táp: một dân tộc đông đảo và hùng mạnh như rạng đông giãi trên các núi đồi, từ cổ chí kim và bao thế hệ về sau cũng chẳng xảy ra giống như vậy.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 9, 2-3. 6 và 16. 8-9
Ðáp: Chúa công minh thống trị địa cầu (c. 9a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao. - Ðáp.
2) Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời. Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cái bẫy mà họ đã che. - Ðáp.
3) Nhưng Chúa ngự trị tới muôn đời, Ngài dựng vững ngai vàng ngõ hầu cai trị. Ngài công minh thống trị địa cầu, Ngài chính trực xét xử chư dân. - Ðáp.

Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời! - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 11, 15-26
"Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.
Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: "Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.
"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: "Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi". Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".
Ðó là lời Chúa.

Suy niệm : Nương Tựa Vào Chúa

Dù với công thức dài như ở Tin Mừng Matthêu hay ngắn gọn nơi Tin Mừng Luca, Kinh Lạy Cha được kết thúc bằng câu: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ". Nhắc nhở các môn đệ cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, Chúa Giêsu cũng muốn nói đến một thực tại luôn có mặt trong thế giới này để làm hại con người, đó là sự dữ hay ma quỉ. Ở bên cạnh con người, nhưng ma quỉ không hiện nguyên hình, mà lại mượn chính hình dạng con người để quyến rũ và lôi kéo con người đến điều ác.
Ðó cũng là sự kiện đã xảy ra như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay: sau khi Chúa Giêsu chữa cho một người bị quỉ ám được khỏi, trong đám đông có mấy người nói rằng Ngài đã nhờ thế của quỉ vương Beelzebul mà trừ quỉ. Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để mạc khải về Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa đã đến và trong đó có bóng dáng của ma quỉ. Một Phêrô vừa được khen thưởng vì đã tuyên xưng đúng tước hiện của Chúa Kitô, thì lập tức đã bị khiển trách là Satan khi ông căn ngăn Chúa Giêsu lên Yêrusalem để chịu khổ nạn.
Chúa Giêsu đã đến để chiến thắng ma quỉ và tội lỗi, đồng thời Ngài cũng đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải có một thái độ dứt khoát: "Ai không theo tôi, là chống tôi, và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán". Hình ảnh người võ trang canh giữ nhà của mình là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt tin tưởng, phó thác vào Ngài. Tìm một người hùng mạnh để canh giữ cho mình được an toàn thì có ai bằng Thiên Chúa; kiếm một nơi ẩn náu trước những tấn công của kẻ thù, thì có đâu vững chắc cho bằng núp bóng dưới cánh tay Ngài.
Chúng ta phải tìm nơi nương tựa mạnh mẽ, vững chắc, vì ma quỉ như sư tử luôn gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé, làm hại chúng ta. Một lần thất bại, nó không nản lòng, nó sẽ trở lại với một lực lượng hùng mạnh hơn. Bởi đó, chúng ta phải kiên trì trong lời cầu nguyện: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ". Cám dỗ là vũ khí ma quỉ dùng để đánh bại chúng ta, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, nếu biết đứng vững trong đức tin để chống cự và biết ẩn núp dưới sự che chở của Chúa.
Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta luôn kiên vững trong niềm xác tín đó.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 27 TN1, Năm lẻ.
Bài đọc: Joe 1:13-15, 2:1-2; Lk 11:15-26

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy luôn biết chuẩn bị sẵn sàng.

Làm việc gì con người cũng phải chuẩn bị thì mới có thành công được; nếu không chịu chuẩn bị, thất bại chắc chắn sẽ xảy ra. Việc càng lớn đòi hỏi con người càng phải chuẩn bị kỹ càng hơn. Đức Kitô luôn khuyên bảo các môn đệ phải biết tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng cho Ngày Chúa đến lần thứ hai.
Các Bài Đọc hôm nay dạy mọi người phải luôn biết chuẩn bị. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Joel kêu gọi toàn thể con cái Israel, từ tư tế đến dân chúng, phải rúc tù và long trọng tuyên bố mùa chay thánh để chuẩn bị đón Ngày mà Đấng Thiên Sai sẽ đến. Trong Phúc Âm, vì không chịu chuẩn bị nên một số người chẳng những không nhận ra Chúa Giêsu khi Ngài trục xuất một quỉ câm, lại còn mạ lỵ Ngài "dùng quyền năng của quỉ vương Beelzebul mà trừ quỉ." Chúa Giêsu cũng cảnh cáo các môn đệ phải luôn biết chuẩn bị tâm hồn cho có Chúa; nếu không, quỉ thần sẽ kéo đến ngày càng nhiều và tình trạng tâm hồn sẽ càng ngày càng bi đát hơn.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ôi, Ngày đáng sợ thay! Ngày của Đức Chúa quả đã gần kề!

1.1/ Hãy chuẩn bị cho Ngày Thiên Chúa đến: Sách tiên-tri Joel được viết sau Thời Lưu Đày (khoảng 400-350 BC). Đây là thời gian mà truyền thống Do-thái, dựa vào lời sấm của các tiên-tri, tin Ngày Đấng Thiên Sai sắp tới để tiêu diệt tất cả các quốc gia dám gây chiến với Israel, và lên ngôi cai trị họ. Để chuẩn bị cho Ngày trọng đại này, họ phải làm hai việc:

(1) Long trọng tuyên bố mùa chay thánh bắt đầu: Tiên-tri Joel truyền lệnh của Thiên Chúa: "Hãy ra lệnh giữ chay thánh, công bố mở cuộc họp long trọng, triệu tập các cụ già và toàn thể cư dân trong xứ tại Nhà Đức Chúa, Thiên Chúa các ngươi. Hãy kêu lên Đức Chúa." Hàng năm, Giáo Hội cũng dùng những lời này trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, để kêu gọi các tín hữu biết ăn năn và chuẩn bị tâm hồn để chuẩn bị đón Ngày Chúa đến lần thứ hai.

(2) Các việc phải làm trong mùa chay thánh: "Hỡi các tư tế, hãy mặc áo vải thô mà than van kêu khóc! Rú lên đi, hỡi những người phục vụ bàn thờ! Hãy đến, mặc áo vải thô mà thức suốt đêm, hỡi những người phục vụ Thiên Chúa." Việc ăn chay, hãm mình, và cầu nguyện là ba việc phải làm để chuẩn bị đón chờ Ngày Chúa đến.

1.2/ Ngày của Thiên Chúa đến là Ngày đáng sợ: Truyền thống Do-thái tin Đấng Thiên Sai sẽ đến trong uy quyền; nhưng trước khi lên ngôi cai trị, Ngài sẽ thanh luyện và phán xét tất cả mọi người: con cái Israel cũng như các dân ngoại. Đó là lý do mà con cái Israel phải chuẩn bị tâm hồn. Tiên-tri Joel báo trước cho họ biết về Ngày này như sau: "Ôi, ngày đáng sợ thay! Ngày của Đức Chúa quả đã gần kề! Ngày sẽ đến tựa cơn tàn phá do lệnh Đấng Toàn Năng... Run lên đi, mọi cư dân trong xứ, vì Ngày của Đức Chúa sắp đến rồi, Ngày ấy đã kề bên. Ngày tối tăm u ám, Ngày mây mù tối đen."

Sự kinh hoàng của Ngày này được tiên-tri Joel và các tiên-tri khác mô tả như: mặt trời, mặt trăng và các tinh tú sẽ không còn chiếu sáng; nạn châu chấu sẽ tiêu diệt mùa màng khiến con người không còn của ăn; chiến tranh sẽ xảy ra khắp nơi trên địa cầu ... Sau cùng, chỉ những người công chính mới sống sót, và được sống hòa bình và hạnh phúc với Đấng Thiên Sai đến muôn đời.

2/ Phúc Âm: Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến.

2.1/ Lòng ghen tị của con người: Khi chứng kiến Chúa Giêsu trục xuất quỉ ra khỏi người câm, đa số dân chúng đều kính sợ; nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ." Đây là một lời tố cáo của những người ghen tị, khi thấy mình không làm được những gì người khác làm; họ tìm bất cứ một lý do nào, cho dù là vô lý, để giảm giá trị hành động tốt đẹp của người khác. Biết được tư tưởng ghen tị của họ, Chúa Giêsu vạch trần sự sai trá của lời tố cáo bằng hai chứng minh:

(1) Chia rẽ là tự hủy diệt: Để có thể tồn tại, con người cần đoàn kết với nhau; nếu con người chia năm xẻ bảy, họ sẽ bị tiêu diệt. Chúa Giêsu hỏi họ: ''Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?'' Satan phải bênh vực đồng bọn của mình; vì nếu Satan chống lại đồng bọn, làm sao vương quốc nó tồn tại được. Vì thế, điều họ tố cáo Chúa Giêsu dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ là không hợp lý.

(2) Nhiều người Do-thái cũng trừ được quỉ: Truyền thống Do-thái từ thời Solomon tin họ có thể xua đuổi quỉ bằng cách đốt hoa cỏ và các cơ quan súc vật. Khói hương bay lên sẽ làm quỉ xuất khỏi người bị ám. Một trường hợp dẫn chứng là khi sứ thần Raphael bảo Tobia đốt tim và gan cá để đuổi quỉ ra khỏi Sarah trong đêm tân hôn của hai người (Tob 8:2-3). Chúa Giêsu thách thức họ: ''Nếu tôi dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.''

2.2/ Chúa Giêsu có quyền trên ma quỉ: Để dẫn chứng Chúa có quyền trên ma quỉ, Ngài đưa ra một ví dụ mà mọi người đều hiểu được: ''Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.'' Quỉ câm có thể được ví như người có vũ trang đầy đủ: nó có sức mạnh hơn người thanh niên nên khống chế anh ta được; nhưng khi Chúa dùng uy quyền Thiên Chúa mà đuổi quỉ câm ra khỏi anh ta, và làm cho anh ta bình phục, Ngài có uy quyền trên ma quỉ.

Trình thuật kế tiếp dẫn chứng nhu cầu phải luôn có Thiên Chúa trong tâm hồn: "Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Vì tìm không ra, nó nói: "Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi." Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước." Thiên Chúa và ma quỉ không thể ở chung: chỗ nào có Thiên Chúa là không có ma quỉ, và ngược lại, chỗ nào có ma quỉ là không có Thiên Chúa. Nếu người Kitô hữu luôn để Đức Kitô ngự trị trong tâm hồn và sống theo sự hướng dẫn của Ngài; ma quỉ sẽ không khi nào có cơ hội xâm nhập.



ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Không lo xa, ắt có buồn gần. Chúng ta hãy dành thời giờ để chuẩn bị trước khi làm bất cứ việc gì, nhất là chuẩn bị tâm hồn cho luôn có Chúa và đón Ngài đến lần thứ hai. Khi Ngày đó bất thần tới, chỉ có những ai chuẩn bị mới được cứu thoát.

- Khi chứng kiến những việc tốt lành của người khác làm, chúng ta hãy thành thật khen ngợi tài năng và đức độ của họ. Đừng để tính kiêu ngạo ghen tương làm mờ mắt, khiến chúng ta khinh thường họ hay phủ nhận những gì họ đã làm.

- Chúng ta chỉ có thể chọn một trong hai: hoặc chọn Đức Kitô là vua cai trị tâm hồn, hoặc sống theo những cám dỗ của ma quỉ và làm nô lệ cho chúng.


Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

HẠT GIỐNG NẨY MẦM TUẦN 27TN

Lc 11,15-26

A. Hạt giống...
1. Các câu 14-16 : Sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ trừ một quỷ câm, dân chúng phản ứng 3 cách khác nhau : a/ Đa số “ngạc nhiên”, nghĩa là thán phục ; b/ Một nhóm xuyên tạc rằng Ngài đã dựa thể quỷ vương Bê-en-dê-bun để trừ quỷ nhỏ ; c/ Nhóm thứ ba nửa tin nửa ngờ nên muốn có một dấu lạ “từ trời” để chứng nhận Chúa Giêsu chính là người mà trời sai xuống.
2. Các câu 17-23 : Để trả lời cho những kẻ không tin (nhóm thứ hai), Chúa Giêsu lý luận rằng : ma quỷ không ngu dại gì mà làm hại thuộc hạ của nó. Bởi thế việc Chúa Giêsu trừ quỷ không phải là dựa vào thế của quỷ vương. Nếu việc đó không do quỷ vương thì do đâu ? Thưa do một quyền lực mạnh hơn ma quỷ, tức là Thiên Chúa. Như thế phép lạ này là dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần.
3. Các câu 24-26 : Đây là của lời khuyến cáo các môn đệ Chúa Giêsu. Đành rằng ma quỷ đã bị Chúa Giêsu đánh bại, nhưng các môn đệ chớ có lơ là cảnh giác. Ma quỷ tìm cách quay trở lại và có thể làm hại họ nặng hơn trước nữa.

B.... nẩy mầm.
1. Thực tại về ma quỷ : “Nhiều người ngày nay không còn tin vào ma quỷ. Tội lỗi được biện minh bằng sự yếu đuối và thiếu tự do nơi con người. Quỷ ám được giải thích như những chuyện thần thoại mà khoa tâm lý chiều sâu tìm cách giải thích. Những cám dỗ chỉ còn là sản phẩm của óc tưởng tượng. Chiến thuật của ma quỷ trong thế giới xem ra không phải là sự đe dọa con người bằng những ám hại, mà chính là thuyết phục con người tin rằng nó không có mặt trên trần gian này” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
2. Người hạnh phúc nhất mà tôi từng được biết, đó là một người Ái nhĩ Lan tên Dundee. Ông bị té gãy lưng từ năm 15 tuổi, sau đó phải nằm trên giường bệnh rất đau đớn trong suốt 40 năm. Nhưng lúc nào ông cũng tươi cười. Tôi hỏi :
- Có khi nào ông bị quỷ cám dỗ không, chẳng hạn nó nói với ông rằng nếu Chúa thương ông thì chẳng để ông phải liệt giường như vậy ?
- Có chứ, rất nhiều lần. Nó thường dẫn trí óc tôi nhìn đến cảnh sung sướng của người khác và nói với tôi như thế. Nhưng tôi cũng dẫn nó tới đồi Canvê, chỉ cho nó thấy Chúa Giêsu đang chết trên Thập giá. Và tôi hỏi lại nó “Thế Chúa không thương tôi sao ?”. Kết quả là lần nào nó cũng vội vàng rút lui. (Moody’s story)
3. Sự mù quáng do ganh tị : Vì ganh ghét Chúa Giêsu nên các kẻ thù của Ngài đã bị mù quáng. Chẳng những họ không nhận ra ý nghĩa việc Ngài trừ quỷ, mà còn xuyên tạc rằng Ngài làm như thế là dựa vào sức quỷ vương.
4. Có một con đại bàng ganh tị với một con đại bàng khác vì con này bay cao hơn nó. Một hôm con đại bàng ganh tị gặp một xạ thủ. Nó xúi anh bắn hạ đối thủ của nó. Chàng xạ thủ đáp : “Được. Nhưng tôi không có tên”. Con đại bàng nhổ một cọng lông cánh đưa cho chàng xạ thủ làm tên. Nhưng chàng bắn hụt. Vì quyết tâm hại đối thủ của mình, con đại bàng ganh tị lại nhổ thêm một cọng nữa, rồi một cọng nữa... cho tới khi hai cánh nhỏ trụi nhẵn. Nó không bay được nữa. Chàng xạ thủ không bắn được con kia nên bắt lấy con đại bàng trụi cánh về làm thịt. Nếu bạn ganh tị muốn hại ai thì rốt cuộc bạn chỉ tổ hại chính bản thân mình (D.L. Moody).
5. “Kẻ khác lại muốn thử Chúa Giêsu nên đã đòi Ngài một dấu lạ từ trời” (Lc 11,16)
Lạy Chúa, Tại sao Ngài cho con sinh ra trong gia đình này với người cha “pharisêu” và các anh chị “giả hình” ? Tại sao Ngài không cho con tài năng như anh kia ? đạo đức như chị nọ ? Tại sao con không có một mái tóc óng mượt, không có một khuôn mặt xinh xắn hơn ? Tại sao ?... Tại sao ?... Nhiều lần con đã chất vấn Ngài, con thử thách Ngài, con đòi Ngài phải cho con cái của người khác, có như thế thì Chúa mới thực là một Thiên Chúa yêu thương.
Lạy Chúa, xin cho con tâm hồn đơn sơ để con nhận ra  tất cả những quà tặng Ngài mang đến cho con. Và tin rằng đó là món quà tốt nhất đối với con, là dấu chứng rõ nhất về một Thiên Chúa yêu thương. (Hosanna) 

Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

11/10/13 THỨ SÁU TUẦN 27 TN
Lc 11,15-26

THÁI ĐỘ TRƯỚC NHỮNG NGƯỜI ‘ĐỘC MIỆNG’
“Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.” (Lc 11,20)
Suy niệm: Đứng trước những phép lạ tốt lành Chúa Giê-su thực hiện, một số người Do Thái “độc miệng” gán ghép Chúa “dựa thế quỉ vương Bê-en-dê-bun” để trừ “quỷ con”. Quả là một lời xuyên tạc hiểm độc! Đối lại, Chúa Giê-su cho thấy không có gì phải làm ầm ĩ. Một cách bình thản, Ngài đưa ra những lập luận lành mạnh và vững chắc để bẻ gãy những lời lẽ nguỵ biện kia: “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn… Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?” Nhưng ở đây, phản bác những lời xuyên tạc đó chưa phải là mối bận tâm lớn nhất của Chúa; trọng tâm duy nhất của Ngài đó là loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa: “Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.”
Mời Bạn: Tôi có cái nhìn đầy thành kiến “trông cò ra quạ”, nhìn những dấu chỉ của Nước Thiên Chúa ra biểu hiện của quỷ Bê-en-dê-bun hay không? Tôi có xu hướng xét đoán ý xấu cho người khác không? Mặt khác, tôi đã phản ứng thế nào khi làm điều tốt mà lại bị người khác công kích, xuyên tạc?
Sống Lời Chúa: Nhìn ngắm thật kỹ mẫu gương của Chúa Giê-su hôm nay. Mỗi khi tôi định nói xấu về ai hoặc tôi bị ai nói xấu hãy nhớ lại thái độ này của Chúa và xin ơn bắt chước Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã biến tội lỗi chúng con thành dịp để ban cho chúng con điều tốt đẹp nhất, đó là ơn cứu độ. Xin giúp con biết bắt chước Chúa để con có thể khám phá những điều tốt đẹp, những điểm tích cực nơi anh em con.


Quyền Năng Trên Quỉ Dữ
Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện là một dấu chỉ để mạc khải nước Thiên Chúa và tình thương giải phóng của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng mọi dấu chỉ đều lưỡng vị, hai nghĩa và người ta có thể giải thích cách này hay cách khác, tùy theo tâm hồn họ như thế nào. Thiên Chúa chấp nhận để cho con người làm như vậy là vì Ngài kính trọng tự do của người chứng kiến và giải thích dấu chỉ. Ðó là điều đã xảy ra và được kể lại trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây.
Nhiều người kính phục quyền năng giải phóng và tình thương nhân từ của Thiên Chúa được thể hiện nơi và qua hành động của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vài người khác thì giải thích xấu đi, cho rằng Chúa Giêsu cấu kết với quyền lực của quỷ vương để trừ quỷ con. Nhưng giải thích như vậy không hợp lý gì cả. Lòng gian tà và ý xấu muốn bôi nhọ Chúa Giêsu làm cho họ ra mù quáng và lý luận không còn hợp lý nữa. Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy khuyết điểm này với những lời như sau: "Vương quốc nào chia rẽ thì sẽ bị tan rã. Giờ đây, nếu Satan cũng chia rẽ thì làm sao chúng đứng vững được". Giải thích duy nhất đúng là qua dấu lạ đó mà nhìn nhận Ðấng thực hiện dấu lạ có quyền năng trên quỷ dữ và như thế là Nước Thiên Chúa và hành động giải phóng của Ngài đã đến giữa con người trước mặt họ.
Ðể chấp nhận lời mạc khải của Chúa và trong trường hợp này, lời giải thích của Chúa Giêsu về ý nghĩa của dấu lạ Chúa vừa thực hiện, con người cần nhờ đến ánh sáng siêu nhiên hướng dẫn, cần có đức tin, cần có sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Ðây là điều mà những kẻ thù của Chúa Giêsu không có được đức tin là hồng ân của Thiên Chúa, chứ không phải là kết luận của suy tư. Vì thế, trước dấu lạ Chúa Giêsu thực hiện, con người không nhất thiết có thể nhìn nhận ý nghĩa của dấu lạ đó và tuyên xưng đức tin. Nếu đức tin là kết luận của suy tư lý trí thì trước dấu lạ Chúa thực hiện, mọi người đều đã tin Chúa hết cả rồi.
Con người cần khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa ban cho ơn đức tin, để có thể nhận ra ý nghĩa của dấu lạ và được củng cố trong đức tin. Trước dấu lạ của Chúa, con người chỉ có một trong hai thái độ: tin hay không tin; chấp nhận hay chối từ mà thôi. Và một khi đã tin rồi, người đồ đệ cần phải góp phần của mình để bồi dưỡng thêm cho đức tin, góp phần làm cho đức tin được phát triển, được vững mạnh hơn. Nếu không, tình trạng bị mất đức tin sau đó sẽ trở thành tồi tệ hơn trước khi tin Chúa, ma quỷ tấn công trở lại mạnh mẽ hơn muôn vạn cho đến bảy lần hơn.
Ðể hiểu rõ một ai thì cần phải yêu mến người đó và thường xuyên trao đổi với người đó. Ðối với Chúa Giêsu cũng vậy, để biết Chúa nhiều hơn, thì cần phải yêu mến Ngài và có những trao đổi thường xuyên với Ngài qua việc cầu nguyện, lắng nghe lời Chúa. Ðể có thể luôn luôn đứng về phe Chúa, luôn luôn trung thành theo Chúa thì không có cách nào tốt hơn là hữu hiệu hơn là sống thân mật kết hiệp với Chúa qua việc cầu nguyện và lắng nghe lời Ngài. Ðiều này đòi hỏi chúng ta phải luôn sám hối, hoán cải, để có thể cùng với Chúa mà chiến thắng sức mạnh thần dữ muốn chiếm đoạt chúng ta theo phe chúng.
Lạy Chúa là Cha chúng con.
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con đức tin. Xin thương ban xuống tràn đầy Chúa Thánh Thần trên chúng con để chúng con được củng cố mỗi ngày một thêm trong đức tin.
Lạy Chúa.
Xin gia tăng đức tin cho chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy niệm
Bài Tin mừng hôm nay là những lời giải thích mạnh mẽ của Đức Giêsu, nhằm minh chứng và khẳng định quyền năng và sứ mạng trừ quỷ của Người. Ngay từ những ngày đầu sứ vụ, Người đã phải đối diện với quyền lực và mưu mô của Satan, và Người luôn ý thức sứ mạng giải phóng con người khỏi Satan, khỏi sự dữ.
Ngày hôm nay, cuộc chiến giữa Thiên Chúa và Satan, giữa Nước Thiên Chúa và vương quốc Satan vẫn còn tiếp diễn.
Ngày hôm nay, vẫn còn đó bóng dáng của sự ác, sự tội.
Mong sao, tôi đứng về phía Đức Giêsu để chiến đấu cho Nước Thiên Chúa: sự thật, công lý và tình yêu.
Mong sao, sống tinh thần của Đức Giêsu, tôi góp phần làm cho sự thiện được mênh mông trên mặt đất này.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

11 THÁNG MƯỜI

Bài Sai Muôn Thuở

Lời Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta, vẫn luôn vang vọng: ”Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20).
Đó là những lời sau cùng của Chúa trước khi Ngài rời bỏ mặt đất cách hữu hình để trở về với Cha. Những lời ấy, trong sức mạnh và hiệu năng của nó, cho thấy rõ căn tính của Giáo Hội – đó là một Giáo Hội được ủy thác kho tàng sự thật và ơn cứu độ thần linh không phải để giữ cho riêng mình nhưng là để thông chia cho mọi người khác nữa. Những lời ấy của bản văn Tin Mừng theo Thánh Matthêu là hiến pháp của Giáo Hội, vì Giáo Hội, tự bản chất của mình, là một cơ chế truyền giáo.
Loan báo Tin Mừng, đó là công bố cho toàn thế giới ơn cứu độ trong Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết và sống lại để làm Chúa của kẻ sống và người chết. Từ bối cảnh đó, chúng ta hiểu ý tưởng của Thánh Augustinô, như được Công Đồng Vatican II lặp lại: “Các Tông Đồ, là nền móng của Giáo Hội, bắt chước mẫu gương của Chúa Kitô, đã rao giảng lời chân lý và xây dựng các giáo đoàn” (AG, 1).

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 11-10
Ge, 1,1315;2,1-2; Lc 11,15-26


LỜI SUY NIỆM: “Khi thần ô-uế xuất khỏi một người, thì nó rảo những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói: ‘Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi’”(Lc 11,24)

Trong cuộc đời của người Kitô hữu, sau mỗi lần phạm tội, đã vào tòa cáo giải xưng thú tội lỗi; như thế không phải là xong, nhưng cần phải luôn tỉnh thức, bởi ma quỷ luôn chờ chực sẵn, khi có cơ hội là nó sẽ xâm nhập, vào tái chiếm tâm hồn của chúng ta. Chúng ta cần nhìn vào Chúa Giêsu. Với Chúa Giêsu. Nó đã thua Người trong hoang địa. Chúa đã thắng, nhưng ma quỷ đâu từ bỏ: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13). Thời cơ cuối cùng, khi Chúa chịu treo trên cây Thánh giá: Quỷ dùng dân chúng và các thủ lãnh cám dỗ Người “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 23,35); cũng như qua tên gian phi “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với” (Lc 23,39). Mỗi người trong chúng ta, cần phải luôn tỉnh thức, nếu không, tình trạng của chúng ta sẽ tệ hơn trước nữa.


Mạnh Phương

11 Tháng Mười

Một Cách Truyền Giáo

Tuần báo Midnight-Globe xuất bản tại Hoa Kỳ, gần đây có thuật lại một phương thức làm việc tông đồ của một tín hữu Kitô như sau: mỗi ngày, trừ ngày Chúa Nhật, ông Jewel Pierce đều ra bờ sông Coosa, gần chỗ ông ở, tại bang Alabama. Ông ném xuống sông hai chai không, trong đó ông để một mảnh giấy ghi lại một câu kinh thánh nói về tình thương, hay một sứ điệp tương tự, kèm theo đó là lời đề nghị sẵn sàng giúp đỡ tất cả những ai cần đến sự giúp đỡ của ông về tinh thần cũng như vật chất. Những chai không đó được bít kín lại và theo dòng sông chạy ra biển khơi cách đó 15 cây số.
Trong vòng 40 năm, ông Jewel Pierce đã gửi đi được 27,000 sứ điệp tình thương Kitô như thế, kèm theo địa chỉ của ông. Ðã có hơn 2,000 người thuộc 30 quốc gia khác nhau đã viết thư trả lời và rất nhiều người đã đọc được những lời đầy hy vọng của sứ điệp Kitô.

Một vị giám mục Việt Nam đã thuật lại chứng từ sau đây. Tại một làng nhỏ ở miền thượng du Bắc Việt, toàn dân làng là người Công Giáo, nhưng từ 20 năm qua, họ không có linh mục coi sóc. Dù vậy, các tín hữu vẫn tổ chức các buổi đọc kinh và hát thánh ca tại nhà thờ. Ðây cũng là nơi họ tổ chức các lễ cưới và rửa tội một cách trọng thể. Dù gặp nhiều khó khăn, nhưng dân làng vẫn sống trong an vui và bình thản.
Tiếng đồn về niềm vui của dân làng này đến tai một làng sơn cước. Do đó, dân làng sơn cước này yêu cầu những người Công Giáo cho người đến dạy họ các bài kinh và thánh ca để họ cũng tìm được niềm vui.
Nhưng dân làng Công Giáo không tìm được ai: người lớn thì phải đi làm việc đồng áng, trẻ em thì phải đi học, còn người già cả thì không đủ sức băng rừng leo núi để đến giúp người sơn cước. Chỉ có một người thuộc kinh bổn, thánh ca và biết các nghi thức tôn giáo. Người đó lại là một người mù.
Sau khi bàn bạc với nhau, dân làng sơn cước đã đồng ý sai người dẫn hai con ngựa đi rước người mù. Người tín hữu tàn tật này đã ở lại với dân làng 4 tháng. Cứ mỗi tối, sau khi làm việc trở về, dân làng tụ họp với nhau, nay nhà này, mai nhà khác, để tập đọc kinh và hát thánh ca. Sau một thời gian, người giảng viên giáo lý mù khảo sát và làm phép rửa cho người dân làng đầu tiên. Và người tân tòng này lại rửa tội cho những người khác và cứ như thế cho đến người cuối cùng.
Phương pháp làm việc tông đồ của làng Công Giáo trên đây là phương pháp đơn sơ, nhưng cốt yếu của Kitô giáo: đó là rao giảng bằng chính chứng từ của cuộc sống, nhất là cuộc sống an bình và vui tươi

(Lẽ Sống)

CHÂN PHƯỚC MARY ANGELA TRUSZKOWSKA
(1825-1899)

S
inh trưởng ở Kalisz, Ba Lan, sức khoẻ của Sophia Truszkowska trong tình trạng hiểm nghèo nên không hy vọng sống được lâu. Khi đến tuổi thiếu niên và được mạnh khoẻ hơn, cô quyết định dâng mình cho Thiên Chúa. Và trong khi còn đang phục hồi sau cơn bệnh lao thì Sophia đã khởi sự chăm sóc các trẻ mồ côi ở Warsaw.

Không bao lâu cô được người bà con là Clothilde cũng như các bạn khác tiếp tay. Họ gia nhập dòng Ba Phanxicô dưới sự hướng dẫn của các linh mục Capuchin và được mặc áo dòng. Năm 1855, Sophia, bây giờ là Mẹ Angela, thành lập một cộng đoàn Phanxicô mới, lấy tên Các Nữ Tu Thánh Felicia.
Khi công việc chăm sóc người vô gia cư của các nữ tu Thánh Felicia phát triển mạnh thì số người gia nhập cộng đoàn cũng gia tăng. Thật không dễ cho một người sáng lập như Mẹ Angela, vì ngài phải vạch ra một hướng đi rõ ràng cho cộng đoàn mà một số nữ tu khác lại muốn theo đuổi đời sống chiêm niệm. Nhưng Mẹ Angela có cái nhìn khác biệt, ngài thấy đây là một cộng đoàn nữ tu được Thiên Chúa mời gọi để cầu nguyện và làm việc ở ngoài khuôn khổ của tu viện. Bởi đó, các Nữ Tu Thánh Felicia chăm sóc bệnh nhân ngay trong nhà của họ cũng như phục vụ các người tàn tật, người già yếu, trẻ mồ côi và các người vô gia cư. Các nữ tu cũng xây cất các nhà dành riêng cho những người mắc bệnh hay lây ở làng mạc Ba Lan.
Vào năm 1863, khi người Ba Lan vùng lên chống lại sự đô hộ của người Nga, các nữ tu Thánh Felicia tiếp tục chăm sóc bệnh nhân bất kể quốc tịch nào. Lúc đó, Mẹ Angela ra lệnh cho các nữ tu "không được loại trừ ai" và hãy nhớ rằng "mọi người đều là người thân cận của mình."
Trong năm kế đó, vào tháng Mười Hai năm 1864, các nữ tu Thánh Felicia bị chính quyền Nga giải tán. Trong khi một số các nữ tu khác tập hợp lại thành cộng đoàn Nữ Tu Ba Lan, nhà cầm quyền Áo cho phép các nữ tu Thánh Felicia tái lập cộng đoàn trong phần đất của Áo ở Ba Lan. Mười năm sau các nữ tu Thánh Felicia đến Polonia, Wisconsin thuộc Hoa Kỳ, để đáp lời mời gọi của những người di dân Ba Lan. Sứ vụ của họ lan tràn cho tới bảy giáo phận.
Vào năm 1869, Mẹ Angela từ chức bề trên vì sức khoẻ yếu kém. Trong những năm cuối đời, ngài dành nhiều thời giờ để cầu nguyện và làm việc lao động. Ngài cũng được nhìn thấy cộng đoàn của ngài sáng lập đã được Tòa Thánh chuẩn nhận.
Lời Bàn
Sau khi Mẹ Angela chết không lâu, một trong các nữ tu đã nói về ngài như "một hiện thân của tình yêu tha nhân. Ðối với ngài, chỉ những gì không thể thiếu, thật cần thiết -- ngoài ra mọi sự là cho tha nhân, và đó là phương châm của ngài... không chỉ để phô trương, nhưng được thể hiện qua các công việc hàng ngày trong nhiều năm trường... Sự đau khổ, sự lo âu của người khác luôn âm vang trong tâm hồn ngài, nhưng đó không phải là một âm vang vô hiệu quả. Với một tiềm năng đáng khâm phục, dù sức khỏe mong manh, ngài đã đi tìm phương thuốc chữa trị và luôn luôn tìm thấy. Ngài thi hành việc ấy rất tự nhiên, như thể đó là một bổn phận của ngài."
Lời Trích
Mẹ Angela có lần khuyên các nữ tu, "Một kinh 'Sáng Danh' được cất lên khi gặp nghịch cảnh thì có giá trị gấp ngàn lần lời tạ ơn khi thành công."

(theo tongdosongdaovt.blogspot.com)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét