CHÚA NHẬT
06/10/2013
Chúa Nhật 27 Quanh
Năm Năm C
Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
(Phần II)
Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXVII Quanh
Năm C, ngày 6.10.2013
CHÚA NHẬT XXVII QUANH NĂM,
NĂM C
Sách Tiên Tri Hàbacúc
1,2-3;2,2-4; Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi Timôtê 1,6-8.13-14 và Phúc
Âm Thánh Luca 17, 5-10
I. Giáo Huấn P.Â.:
Đức tin không đo lường
bằng khối lượng nhưng bằng hiệu năng.
Chỉ cần tin tưởng nơi
Chúa, dù chỉ nhỏ nhoi, ít oi bằng hạt cải thôi cũng có thể chuyển núi dời non.
Việc “chuyển núi dời non”
không do tài năng hay sức lực của con người, nhưng do quyền năng Chúa thực hiện
qua đức tin nhỏ bé của con người. Nên người có đức tin phải nhìn nhận: Chúa
thực thi tất cả với sự đóng góp ít oi của con người.
II.
Vấn nạn P.Â.
Tiên Tri Habacúc:
Là một tiên tri nhỏ
xuất hiện ở miền Nam Giuđêa khoảng năm 606 trước công nguyên. TênHabakkuk rất
xa lạ và không mang chở một ý nghĩa nhất định. Có người cho rằng, Habacúc trong
tiếng Do Thái có nghĩa là chấp nhận hay ôm lấy. Tên Habacúc được dịch là đón
nhận hay chấp nhận có thể vì ở phần cuối sách, chương 3:16-19 tiên tri đã gửi
sứ điệp là phải đón nhận ý Chúa và chương trình của Chúa, dù cho quốc gia có
rơi vào bất cứ hoàn cảnh nào.
Theo truyền thống Do
Thái, Habacúc là con trai của người đàn bà xứ Shunam, vì tiên tri Elisha trong
sách các Vua quyển II đã bảo bà: “Năm sau bà sẽ sinh hạ một người con trai”
Không có nhiều chi tiết về cuộc đời của tiên tri. Người ta biết nhiều và nhớ về
Ông qua câu chuyện: Ông có bộ tóc rất dài đến nỗi thiên thần Chúa đã nắm tóc
ông mang sang tận Babylon với cả thức ăn để ông nuôi sống tiên tri Daniel trong
hang sư tử.
Rất khác biệt với các
tiên tri trong Cựu Ước, Habacúc thay vì mang lệnh truyền của Chúa đến dân thì
ông lại trình bày với Chúa về nỗi thống khổ cũng như về những phàn nàn của dân
đối với Chúa. Qua đó chúng ta thấy, tiên tri là người của Chúa, nhưng lại đứng
về phía dân chúng để nói lên những điều không hiểu về chương trình của Thiên
Chúa như cảnh lưu đày hay những khốn khổ dành cho Dân Do Thái. Cách chung
ngôn sứ xoay chung quanh các vấn nạn:
Tại sao lại có những ác
xấu xảy ra cho những người tốt?
Bao lâu còn sống trên
đời, con người không sao hiểu nỗi đường lối của Chúa. Xin cho có đức tin để
chấp nhận.
Nên trong bài đọc một hôm
nay, tiên tri Habakkuk 1,2 ; 2.2-4 đã than thở và cũng như chất vấn Chúa về
những cảnh bất công cứ tồn tại và người ác cứ nhởn nhơ, không bị phạt. Và Chúa
đã trả lời, đã chỉ ra con đường duy nhất đưa đến giải thoát : ấy là tin tưởng
vào Chúa và trung tín với Giao ước trong suốt cuộc đời của mình, vì khi đến
thời của Ngài, Ngài sẽ ra tay tái lập sự công chính.
Đức tin là gì?
Giáo Lý của Giáo Hội Công
Giáo diễn giải: Đức Tin là một nhân đức nhờ đó ta tin vào Thiên Chúa, tin tất
cả những gì Người nói và mặc khải, cũng như những gì Hội Thánh dạy ta phải tin.
Khởi đầu thì đó chỉ là một niềm tin trước thần linh, nhưng nhờ giáo dục và từng
trải, niềm tin ngày một kiên định trở thành một nhân đức: Đức Tin. Đức Tin là
một hồng ân nhưng đồng thời cũng là sự đáp trả của con người trước hồng ân của
Thiên Chúa. Theo Thánh Augustinô : “Nếu mạc khải là con đường
Thiên Chúa đến với con người thì đức tin là con đường con người đến với Thiên
Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa” như
trong Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.
Sự đáp trả ấy mang tính
toàn diện nghĩa là của cả lý trí, tình cảm và hành động. Vì thế, đức tin phải
được biểu hiện bằng hành động cụ thể, vì "Đức tin không có hành
động thì quả là đức tin chết"như trong thư Thánh Giacôbê 2, 17. Hơn
thế nữa, người môn đệ Chúa Kitô còn phải can đảm làm chứng và truyền bá đức tin
theo Hiến Chế về Giáo Hội số 42. Đòi hỏi nầy xuất phát từ chính bản thân
của đức tin, và là đòi hỏi cần thiết để được cứu độ. Muốn được cứu độ, phải
sống chứng nhân Tin Mừng : Tuyên xưng đức tin trước mọi người, ở mọi nơi, trong
mọi lúc "Ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy nhận người ấy
trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì
Thầy cũng chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời như trong Phúc
Âm Matthêô 10, 32-33 ; “Vì trong Tin Mừng, sự
công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có
lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” như trong Thư bThánh
Phaolô gửi Rôma 1, 17; “Anh em hãy đứng vững trong đức
tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng
một loại thống khổ như thế” như trong thư Thứ Nhất Thánh Phêrô 5, 9
Đức tin vô hình sao lại
có thể so sánh là “lớn bằng hạt cải”?
“Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì dù
các con có bảo cây dâu này: “Hãy
bật rễ lên, xuống biển mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời các con”, Phúc Âm Lc. 17.5-6.
Thật ra đức tin là nhân
đức đối thần, là vô hình thiêng liêng, không ai thấy đức tin bao giờ cả. Nhưng
để có thể hình dung được hiệu năng của đức tin và quyền năng của Thiên Chúa
trên người có đức tin. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh hạt cải. Hạt
cải là hạt giống nhỏ nhất như
trong Phúc Âm Matthêô 13,32. Đức Giêsu so sánh đức tin với hạt cải, là có
ý nhấn mạnh về mặt phẩm chất hơn là về số lượng của đức tin. Hạt cải, hạt nhỏ hơn cả hạt quả của cây trứng cá, mà
cây thì tương đương với cây trứng cá cao khỏang 4-5 mét. Hình ảnh đó nói lên
một sự phó thác dù nhỏ đến đâu, nếu được thực hiện trong đức tin, thì vẫn có
thể làm được những điều lớn lao kỳ diệu. Vì bấy giờ người ta làm không phải do
sức riêng mình, nhưng nhờ quyền năng
của Thiên Chúa.
Nên khi làm một so sánh giũa đức tin và hạt cải,
Đức Chúa Giêsu muốn các tông đồ trông cậy tuyệt đối vào quyền năng cũng
như lòng nhân hậu Chúa. Câu nói về cái cây bật rễ không nên hiểu theo nghĩa
đen. Đây là cách nói diễn tả mạnh mẽ của người Đông phương và có ý nghĩa là đức
tin có sức mạnh lớn lao, với đức tin việc gì xem ra không thể lại trở thành có
thể.
Hệ quả của lòng tin và sự
phó thác hoàn toàn nơi Chúa sẽ đưa đến một tinh thần phục vụ trần
trụi không tính toán. Vì tất
cả đến từ quyền năng và lòng
nhân hậu của
Thiên Chúa, chứ không cậy vào sức mình, rồi đòi trả công. Như thế mọi chức vụ
trong Giáo hội chỉ là một việc làm nhỏ bé để kéo ơn Chúa xuống cho mọi người.
Đừng lấy đó làm vênh vang, vì ta chỉ là đầy tớ vô dụng.
III.
Thực hành P.Â.:
Bà là ai?
Trong cơn hôn mê vì bệnh nặng, bà vợ ông thị
trưởng, người Công Giáo thấy mình bị đưa ra trước toà Chúa. Có tiếng hỏi bà:
- Bà kia, bà là ai?
Bà vợ Ông thị trưởng đáp:
- Thưa, con là vợ của ông thị trưởng.
Nhưng tiếng ấy lại nghiêm nghị hơn:
- Ta không hỏi ngươi là vợ của ai, Ta chỉ hỏi
ngươi là ai mà thôi?
Người đàn bà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa của câu
hỏi. Bà tiếp tục thưa: bà là mẹ của bốn đứa con, bà là giáo viên... Nhưng lần
nào tiếng nói cũng vẫn hỏi lại:
- Ta không hỏi ngươi làm nghề gì, Ta chỉ muốn
biết ngươi là ai mà thôi.
Nghe đến đây người đàn bà liền thưa:
- Con là một Kitô hữu.
Tiếng nói lại tỏ dấu bất bình và hỏi tiếp:
- Ta không hỏi ngươi có đạo hay không có đạo,
hoặc theo đạo nào, Ta chỉ hỏi ngươi là ai mà thôi?
Người đàn bà làm một cố gắng cuối cùng, bà trình bày như sau:
Người đàn bà làm một cố gắng cuối cùng, bà trình bày như sau:
- Thưa, con là người đi lễ mỗi ngày và luôn giúp
đỡ những người thiếu thốn. Tiếng nói lại càng bất bình hơn nữa:
- Ta không hỏi ngươi đã làm gì, Ta chỉ hỏi ngươi
là ai mà thôi
Người đàn bà chợt hiểu được ý nghĩa của câu hỏi.
Sau khi hồi tĩnh và bình phục từ cơn bệnh nặng,
bà quyết tâm trả lời cho bằng được câu hỏi ấy. Và điều đó đã làm cho bà thay
đổi hoàn toàn cuộc sống. Để trả lời câu hỏi trên đây, có lẽ chúng ta phải thưa
bằng chính lời của Chúa Giêsu, Ngài nói về một đầy tớ phải làm việc quần quật
suốt ngày, rồi chiều về còn phải hầu hạ chủ mình.
Chúa Giêsu nói như sau: “các con cũng thế, sau
khi đã làm hết tất cả những gì mình phải làm, các con hãy nói: Chúng con chỉ là
đầy tớ vô dụng”.
Tương quan giữa con người và Thiên Chúa là một
tương quan nhưng không."
Vô dụng trong Phúc Âm
Thánh Luca hôm nay không mang ý nghĩa đồ bỏ hay đồ phế thải đáng vứt vào sọt rác.
Không! Nhưng hãy nghĩ mình vô dụng trước những thành công quả lớn lao của lòng
tin. Dù chỉ lớn bằng hạt cải, nhưng với quyền năng của Thiên Chúa chúng ta có
thể làm những chuyện phi thường, có thể khiến cây dâu “Hãy bật rễ lên, xuống
dưới biển mà mọc!”
Đọc lại lịch sử địa phận
nhỏ bé của mình đang làm việc, tôi thật sự cảm nhận sự can thiệp chuyển núi dời
non của Thiên Chúa trong việc gìn giữ Giáo Hội. Năm 1948 địa phận được thành
hình với nhiều con SỐ KHÔNG: KHÔNG nhà thờ chánh toà. KHÔNG toà
Giám Mục. KHÔNG có nhiều tiền trong ngân hàng và KHÔNG đủ
linh mục phục vụ. Rồi sau đó vài chục năm, địa phận lại CÓ quá
nhiều thứ không cần có: CÓ tới 4 linh mục đi ngồi tù vì chuyện
quấy nhiễu tình dục. CÓ tới 13 linh mục đến tuổi hưu trí trong
tồng số 45 linh mục. CÓ quá ít mầm non ơn thiên triệu. Nếu may
mắn thì 5 năm mới có một tân chức, rồi CÓ nhiều giai đoạn
trống toà, có khi kéo dài cả hơn hai năm.
Nhưng cái quan trọng cần
có thì đã có là CÓ ĐỨC TIN CHỈ LỚN BẰNG HẠT CẢI. Chính vì hạt cải đức tin nầy
mà Chúa đã giữ gìn Giáo Hội Chúa cách chung và địa phận tôi cách riêng. Chúa
làm hết! Chúng ta chỉ là công cụ hay nói theo Mẹ Têrêsa, chúng ta là cây bút
chì trong tay Chúa.
Titanic, chiếc tàu không thể chìm?
Chiếc tàu Titanic của Anh Quốc, đóng vào đầu thế kỷ
20 tại Belfast, Ái Nhĩ Lan. Kỹ thuật tân kỳ được tận dụng cùng bao tâm huyết
của rất nhiều người góp sức thực hiện chiếc tàu vĩ đại to bằng 4 khu phố, cao 13 tầng, nặng trên 46 ngàn tấn có
thể chứa được 3000 người. Lúc ấy người ta trầm trồ, tán thưởng chiếc tàu, xem
đây là một kỳ công của nhân loại, xem như vượt xa công trình của Hoá Công hay
cũng gọi là xảo đoạt thiên công!. Những người có liên hệ trực tiếp với chiếc
tàu thường khoe và đây là chiếc tàu không chìm (The Unsinkable).
Ngày 10 tháng 4 năm 1912,
tàu Titanic khởi hành từ Southampton, Anh Quốc nhắm tới New York với lối 2200
hành khách, nhiều người là quý tộc và trưởng giả. Ngày khởi hành, viên thuyền
trưởng ngạo nghễ tuyên bố một câu xanh dờn: “Ngay cả Chúa cũng không thể đánh
đắm chiếc tàu này nổi” God himself could not sink this ship. Không tới 5 ngày
sau, tàu đụng vào tảng băng sơn khổng lồ, nứt ra và chìm dần xuống đáy biển Đại
Tây dương mang theo trên 1500 sinh mạng, tàu biến mất khỏi mặt biển sáng sớm
ngày 15 tháng 4, 1912).
Chính tôi và nhiều anh em
linh mục khác mang khuynh hướng muốn lưu danh hậu thế. Chúng tôi hay giảng và
nhiều khi nhắc đi lặp lại đến thuộc lòng rằng: Tôi đã mua tượng Đức Mẹ La Vang
từ Việt Nam. Tôi đã sửa lại Basement nhà thờ. Tôi đã tạo dựng các lớp giáo lý
và các lớp Việt Ngữ. Tôi đã… và tôi đã… Thôi thì bao nhiêu là công khó và xứng
đáng để ghi bảng lưu danh hậu thế.
Nhiều khi chúng ta quên
chân lý nầy: Vanity of vanities, phù vân! Tất cả chỉ là phù vân. Xây dựng là
chuyện vật chất. Không có thứ vật chất nào tồn tại trong thế giới vật chất
chóng qua nầy. Tất cả sẽ chìm sâu hơn tàu Titanic. Tất cả đi vào quên lãng
qua thời gian. Cách hay nhất và bền bỉ nhất là qui mọi việc mình làm là bổn
phận phục vụ giáo xứ trong chương trình cứu rỗi các linh hồn theo ý Chúa.
Xin hãy cầu cho đức tin
lớn bằng hạt cải để nghiệm ra rằng: chúng ta chỉ là công cụ, chúng ta phải chìm
vào quên lãng để danh Chúa được lưu danh hậu thế. Nếu chấp nhận hậu quả “chìm
vào quên lãng”, chúng ta sẽ dẽ dững dưng và vui vẻ, nếu có ai đó quên ghi công
chúng ta.
Lm. Phêrô Trần Thế Tuyên
XIN
THẦY BAN THÊM ĐỨC TIN CHO CHÚNG CON! (CHÚA NHẬT XXVII/C)
SUY NIỆM
Tin là chấp nhận một tư tưởng là đúng, là thật, mặc dầu không có bằng chứng, không có lý do khách quan, nhưng cũng không có nghĩa là không có lý do gì ráo trọi! Điều này cũng áp dụng cho tư tưởng về THIÊN CHÚA.
Không có bằng chứng cũng không gì biểu dương sự hiện hữu của THIÊN CHÚA hay sự không hiện hữu của Người. Kẻ khẳng định tin nơi THIÊN CHÚA và kẻ chối không tin Người, cả hai cùng ở trên một mức độ lòng tin. Không có đối nghịch giữa lòng tin theo lý trí và lòng tin không theo lý trí, nhưng chỉ có đối nghịch giữa hai cách thức tin: tôi tin THIÊN CHÚA hiện hữu và tôi tin THIÊN CHÚA không hiện hữu.
Tuy nhiên, khi một tín hữu tự xưng là tin thì tín hữu đó không những chỉ muốn nói mình tin THIÊN CHÚA hiện hữu mà còn muốn khẳng định một Đức Tin, điều này đi xa hơn rất nhiều một lòng tin bình thường!
Tin, tin tưởng, trung tín là các từ có cùng gốc rễ và giả thiết một quan hệ giữa người với người, một cam kết xác định cung cách hành xử với tha nhân. Trong thái độ đối với THIÊN CHÚA cũng như trong mối giao hảo thường tình, lòng tin tưởng phát xuất từ tình yêu. Bao lâu hai vợ chồng yêu nhau đậm đà thắm thiết thì không có chỗ cho nghi ngờ, nhưng chỉ có tin tưởng toàn vẹn, mặc dầu một trong hai người không luôn luôn hiểu hết về người kia. Khi không còn tình yêu nữa thì tức khắc có lo sợ và nghi ngờ, tức là thiếu tin tưởng, ngược lại với tin tưởng. Lòng tin tưởng nơi THIÊN CHÚA cũng được sống y như vậy.
Nhiều giai đoạn trong Kinh Thánh làm sáng tỏ thế nào là Đức Tin của một tín hữu, hay trái lại, cái không tin, cái thiếu tín nhiệm của con người. Đã có lần, con người quên rằng THIÊN CHÚA ban cho mình sự sống vì tình yêu, nên đã từ chối không tin tưởng nơi THIÊN CHÚA. Và bởi vì con người không hiểu hết mọi kế hoạch của THIÊN CHÚA, nên đã dám đi đến chỗ hồ nghi THIÊN CHÚA, đến độ ngờ vực lòng nhân hậu các hồng ân của Người, kể cả hồng ân sự sống .. Ngày ấy, bỗng dưng ông tổ Adong và bà tổ Evà đã không còn trông thấy bất cứ cây trái nào khác trong vườn địa đàng dành riêng cho mình sử dụng, mà chỉ trông thấy mỗi một cây bị ngăn cấm! Rồi đặt ra không biết bao nhiêu là nghi vấn: ”Chúa muốn từ chối mình điều gì đây? Tại Sao? Phải chăng Chúa muốn làm cho mình chết?” Đúng là những câu hỏi ngớ ngẩn dại khờ, không tin tưởng, thiếu tin tưởng, mất tin tưởng!
Đức Tin của tổ phụ Abraham đúng là mẫu gương cho tín hữu. Ông hoàn toàn tin tưởng nơi kế hoạch nhân hậu của THIÊN CHÚA. Ông không sợ phải từ bỏ quê cha đất tổ ra đi xa thật xa và không biết tương lai rồi sẽ ra sao. Ông chỉ biết duy nhất một điều là tất cả sẽ rất tốt cho ông. Một Đức Tin tuyệt đối!
Sau cùng tín hữu có mẫu gương Đức Tin trọn hảo nơi Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Ngài nhập thể làm người và vâng lời cho đến chết để khai mở con đường Sự Sống Vĩnh Cửu qua cuộc Phục Sinh của Người.
Tín hữu Công Giáo nghĩ rằng lịch sử nhân loại có một ý nghĩa được muốn bởi THIÊN CHÚA và tin vào sự khoan hồng của kế hoạch. Niềm tin này bao gồm cả lòng trung tín: cái nhìn thường nhật hướng về THIÊN CHÚA và cố gắng tìm kiếm thánh ý Ngài.
Suy tư trên đây giúp hiểu rằng Đức Tin quả thật là một hồng ân cao cả. Hồng ân đến từ THIÊN CHÚA và được con người có lý trí có thiện chí chấp nhận với lòng tri ân thảo mến. Đó cũng là điều các tông đồ khiêm tốn thân thưa cùng Đức Chúa GIÊSU: ”Xin Thầy ban thêm Đức Tin cho chúng con!”
Năm Đức Tin do Đức nguyên Giáo Hoàng Biển-Đức XVI đề xướng sắp đi vào giai đoạn kết thúc. Kết thúc nhưng không chấm dứt. Trái lại sẽ được củng cố thêm mãi. Tín hữu Công Giáo chân chính hiểu rõ Đức Tin cần thiết biết là chừng nào. Đức Tin giúp đứng vững trong mọi ngan nguy thử thách hầu cho niềm Hy Vọng không bao giờ bị lung lay và lòng kính mến cũng không hề bị giảm sút. Đức Tin là trụ chống đỡ. Ngày hôm nay trong khung cảnh xã hội đảo điên, lành dữ phân tranh, sự thiện bị đánh phá từ muôn phía, tín hữu Công Giáo càng khẩn thiết van xin cùng Đức Chúa GIÊSU KITÔ: ”Xin Thầy ban thêm Đức Tin cho chúng con!”
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
www.vi.radiovaticana.va
Tin là chấp nhận một tư tưởng là đúng, là thật, mặc dầu không có bằng chứng, không có lý do khách quan, nhưng cũng không có nghĩa là không có lý do gì ráo trọi! Điều này cũng áp dụng cho tư tưởng về THIÊN CHÚA.
Không có bằng chứng cũng không gì biểu dương sự hiện hữu của THIÊN CHÚA hay sự không hiện hữu của Người. Kẻ khẳng định tin nơi THIÊN CHÚA và kẻ chối không tin Người, cả hai cùng ở trên một mức độ lòng tin. Không có đối nghịch giữa lòng tin theo lý trí và lòng tin không theo lý trí, nhưng chỉ có đối nghịch giữa hai cách thức tin: tôi tin THIÊN CHÚA hiện hữu và tôi tin THIÊN CHÚA không hiện hữu.
Tuy nhiên, khi một tín hữu tự xưng là tin thì tín hữu đó không những chỉ muốn nói mình tin THIÊN CHÚA hiện hữu mà còn muốn khẳng định một Đức Tin, điều này đi xa hơn rất nhiều một lòng tin bình thường!
Tin, tin tưởng, trung tín là các từ có cùng gốc rễ và giả thiết một quan hệ giữa người với người, một cam kết xác định cung cách hành xử với tha nhân. Trong thái độ đối với THIÊN CHÚA cũng như trong mối giao hảo thường tình, lòng tin tưởng phát xuất từ tình yêu. Bao lâu hai vợ chồng yêu nhau đậm đà thắm thiết thì không có chỗ cho nghi ngờ, nhưng chỉ có tin tưởng toàn vẹn, mặc dầu một trong hai người không luôn luôn hiểu hết về người kia. Khi không còn tình yêu nữa thì tức khắc có lo sợ và nghi ngờ, tức là thiếu tin tưởng, ngược lại với tin tưởng. Lòng tin tưởng nơi THIÊN CHÚA cũng được sống y như vậy.
Nhiều giai đoạn trong Kinh Thánh làm sáng tỏ thế nào là Đức Tin của một tín hữu, hay trái lại, cái không tin, cái thiếu tín nhiệm của con người. Đã có lần, con người quên rằng THIÊN CHÚA ban cho mình sự sống vì tình yêu, nên đã từ chối không tin tưởng nơi THIÊN CHÚA. Và bởi vì con người không hiểu hết mọi kế hoạch của THIÊN CHÚA, nên đã dám đi đến chỗ hồ nghi THIÊN CHÚA, đến độ ngờ vực lòng nhân hậu các hồng ân của Người, kể cả hồng ân sự sống .. Ngày ấy, bỗng dưng ông tổ Adong và bà tổ Evà đã không còn trông thấy bất cứ cây trái nào khác trong vườn địa đàng dành riêng cho mình sử dụng, mà chỉ trông thấy mỗi một cây bị ngăn cấm! Rồi đặt ra không biết bao nhiêu là nghi vấn: ”Chúa muốn từ chối mình điều gì đây? Tại Sao? Phải chăng Chúa muốn làm cho mình chết?” Đúng là những câu hỏi ngớ ngẩn dại khờ, không tin tưởng, thiếu tin tưởng, mất tin tưởng!
Đức Tin của tổ phụ Abraham đúng là mẫu gương cho tín hữu. Ông hoàn toàn tin tưởng nơi kế hoạch nhân hậu của THIÊN CHÚA. Ông không sợ phải từ bỏ quê cha đất tổ ra đi xa thật xa và không biết tương lai rồi sẽ ra sao. Ông chỉ biết duy nhất một điều là tất cả sẽ rất tốt cho ông. Một Đức Tin tuyệt đối!
Sau cùng tín hữu có mẫu gương Đức Tin trọn hảo nơi Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Ngài nhập thể làm người và vâng lời cho đến chết để khai mở con đường Sự Sống Vĩnh Cửu qua cuộc Phục Sinh của Người.
Tín hữu Công Giáo nghĩ rằng lịch sử nhân loại có một ý nghĩa được muốn bởi THIÊN CHÚA và tin vào sự khoan hồng của kế hoạch. Niềm tin này bao gồm cả lòng trung tín: cái nhìn thường nhật hướng về THIÊN CHÚA và cố gắng tìm kiếm thánh ý Ngài.
Suy tư trên đây giúp hiểu rằng Đức Tin quả thật là một hồng ân cao cả. Hồng ân đến từ THIÊN CHÚA và được con người có lý trí có thiện chí chấp nhận với lòng tri ân thảo mến. Đó cũng là điều các tông đồ khiêm tốn thân thưa cùng Đức Chúa GIÊSU: ”Xin Thầy ban thêm Đức Tin cho chúng con!”
Năm Đức Tin do Đức nguyên Giáo Hoàng Biển-Đức XVI đề xướng sắp đi vào giai đoạn kết thúc. Kết thúc nhưng không chấm dứt. Trái lại sẽ được củng cố thêm mãi. Tín hữu Công Giáo chân chính hiểu rõ Đức Tin cần thiết biết là chừng nào. Đức Tin giúp đứng vững trong mọi ngan nguy thử thách hầu cho niềm Hy Vọng không bao giờ bị lung lay và lòng kính mến cũng không hề bị giảm sút. Đức Tin là trụ chống đỡ. Ngày hôm nay trong khung cảnh xã hội đảo điên, lành dữ phân tranh, sự thiện bị đánh phá từ muôn phía, tín hữu Công Giáo càng khẩn thiết van xin cùng Đức Chúa GIÊSU KITÔ: ”Xin Thầy ban thêm Đức Tin cho chúng con!”
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
www.vi.radiovaticana.va
Lectio: Chúa Nhật XXVII Thường Niên (C)
Chúa Nhật, 6 Tháng 10,
2013
Chúa
ban thêm đức tin cho chúng ta,
để đời
sống chúng ta có thể tự nguyện phục vụ Chúa và tha nhân
Lc 17:5
–10
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc
Kinh Thánh với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.
Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các
môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản
án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc
của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn gốc của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo sự thinh lặng trong chúng con để chúng con có thể
lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện
của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người
nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống
như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của
Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng
con như nguồn gốc của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin
vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa
Cha và đã gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Bài Tin
Mừng của phần phụng vụ Chúa Nhật tuần này là một phần của một đoạn Phúc Âm tiêu
biểu và dài của Luca (Lc 9:51 đến 19:28), trong đó mô tả chuyến đi lên
Giêrusalem chậm chạp của Chúa Giêsu, nơi Người sẽ bị trở thành tội nhân, bị kết
án và chịu chết. Một phần lớn của đoạn Tin Mừng này là để hướng dẫn
cho các môn đệ. Bài Tin Mừng của chúng ta là một phần của lời hướng
dẫn ấy. Chúa Giêsu chỉ dạy cho các ông cách sống trong cộng đoàn (Lc
17:1).
b) Phân
đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Lc
17:5: Các tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin cho các ông
Lc
17:6: Cuộc sống của người với đức tin bằng hạt cải
Lc
17:7-9: Đời sống của người tự nguyện phục vụ Chúa và tha nhân
Lc
17:10: Áp dụng sự so sánh với người đầy tớ vô dụng
c) Phúc
Âm:
5 Khi ấy, các tông đồ thưa với Chúa Giêsu
rằng: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con.” 6 Chúa
liền phán rằng: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các
con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển,’
nó liền vâng lời các con. 7 Ai trong các con có
người đầy tớ cày bừa hay chăm sóc súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó
rằng: ‘Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa’, 8 mà
trái lại không bảo nó rằng: ‘Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và
hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống.’ 9 Chớ
thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy
không? Thầy nghĩ rằng: ‘Không’. 10 Phần
các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các
con hãy nói rằng: ‘Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm
điều chúng tôi phải làm.’”
3. Giây
phút cầu nguyện trong thinh lặng
Để Lời
Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một
vài câu hỏi gợi ý
Để giúp
chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Phần
nào của bài Phúc Âm này tôi thích nhất hoặc điều gì đã đánh động tôi
nhất?
b) Tin
vào ai đây? Tin vào Thiên Chúa? Tin vào người khác? Hay
tin vào chính mình?
c) Đức
tin chỉ bằng hạt cải: có phải đức tin của tôi là như thế không?
d) Hiến
dâng đời sống của một người cho việc phục vụ mà không mong đáp
trả: tôi có khả năng sống đời sống như thế chăng?
5. Chìa
khóa dẫn đến bài Tin Mừng
Dành
cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề
a) Bối
cảnh lịch sử của đoạn Phúc Âm:
Bối
cảnh lịch sử của Phúc Âm viết bởi Luca luôn có hai chiều: vào thời
Chúa Giêsu của thập niên 30, khi những điều được mô tả trong văn bản đã xảy ra,
và vào thời điểm của các cộng đoàn là những người mà sách Tin Mừng của thánh
Luca chú tâm tới, hơn năm mươi năm sau khi sự việc đã xảy ra. Khi
Luca tường trình những lời và các cử chỉ của Chúa Giêsu, ông không chỉ nghĩ đến
những việc đã xảy ra vào thập niên 30, mà đúng hơn là đời sống của các cộng
đoàn của những năm thuộc thập niên 80 với tất cả các vấn nạn và mối quan tâm
của họ, và ông đã cố gắng cung cấp cho họ một số ánh sáng và các giải pháp khả
thi (Lc 1:1-4).
b) Ý
chính của bài Phúc Âm: Bối cảnh văn học:
Bối
cảnh văn học (Lc 17:1-21) trong đó có đoạn Tin Mừng của chúng ta (Lc 17:5-10)
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những Lời của Chúa Giêsu. Trong đoạn
Tin Mừng này, thánh Luca tập hợp những Lời của Chúa Giêsu dùng để giảng dạy
cách người ta phải sống như thế nào trong cộng đoàn. Thứ nhất (Lc
17:1-2), Chúa Giêsu lôi cuốn sự chú ý của các môn đệ đến những người
nhỏ bé, đó là những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Các cộng
đoàn phải ghi nhớ kỹ điều này. Thứ hai (Lc 17:3-4), Chúa
thu hút sự chú ý đến những thành viên yếu kém của cộng đoàn. Về vấn
đề của họ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ lãnh nhận trách nhiệm đối với họ và có
một thái độ hiểu biết và hòa giải với họ. Thứ ba (Lc
17:5-6) ( và ở đây bắt đầu đoạn Tin Mừng của chúng ta), Chúa Giêsu nói về đức
tin vào Thiên Chúa phải là động lực đời sống của các cộng đoàn. Thứ
tư (c 17:7-10), Chúa Giêsu bảo các môn đệ phải phục vụ tha nhân với
lòng xả kỷ và vị tha tối đa, tự nhận mình là các tôi tớ vô dụng. Thứ
năm(Lc 17:20-21), Chúa Giêsu dạy các ông cách làm thế nào để nhận việc phục
vụ của tha nhân. Họ phải tỏ lòng biết ơn. Thứ sáu (Lc
17:20-21), Chúa Giêsu dạy các ông phải nhìn vào thực tế chung
quanh. Người bảo các ông không nên chạy theo các lời truyền giáo giả
dối của những kẻ loan báo rằng Nước Thiên Chúa, khi xuất hiện, sẽ được chứng
kiến bởi tất cả mọi người. Chúa Giêsu lại dạy khác. Nước
Trời sắp đến, không như vương quốc của các kẻ cai trị ở thế gian, sẽ không được
trông thấy. Đối với Chúa Giêsu, Vương Quốc Nước Trời đã đến
rồi! Nó đang ở giữa chúng ta, độc lập với những nỗ lực và thành tích
của chúng ta. Đó là thuần khiết ân sủng! Và chỉ có đức
tin mới có thể lãnh hội được.
c)
Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:
Lc
17:5: Các tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin cho các ông
Các môn
đệ nhận thức rằng không phải dễ dàng gì để có được những phẩm chất mà Chúa
Giêsu vừa mới đòi hỏi nơi họ: chăm sóc cho những người bé mọn (Lc
17:1-2) và hòa đồng với những anh chị em cô thế trong cộng đoàn (Lc
17:3-4). Và với nhiều đức tin! Không chỉ là niềm tin vào
Thiên Chúa, mà cũng còn là lòng tin vào khả năng mua chuộc lại anh chị
em. Đó là lý do tại sao các ông đến và thưa với Chúa
Giêsu: “Xin Thầy ban thêm đức tin cho chúng con!”
Lc
17:6: Cuộc sống với đức tin bằng hạt cải
Chúa
Giêsu trả lời: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các
con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển,’
nó liền vâng lời các con”. Câu nói này của Chúa Giêsu đặt ra hai câu
hỏi: (1) Có phải Chúa đang nói bóng gió rằng các thánh tông đồ không
có đức tin lớn bằng hạt cải không? Sự so sánh của Chúa Giêsu thật là
mạnh mẽ và bóng gió xa xôi. Hạt cải thì rất bé, nhỏ bé như sự tầm
thường của các môn đệ. Nhưng với đức tin, các ông có thể trở nên
mạnh mẽ, mạnh hơn núi rừng hoặc biển cả! Nếu là thời bây
giờ, có lẽ Chúa Giêsu sẽ nói: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt
nguyên tử, các con có thể san bằng ngọn núi này.” Đó là, mặc dù có
những khó khăn cố hữu, việc hòa giải giữa các anh chị em là việc có thể làm
được, bởi vì đức tin có thể làm cho những điều dường như không
thể lại trở thành sự thật. Nếu không có trục chính là đức
tin, thì mối quan hệ sứt mẻ không thể nào hàn gắn được và cộng đoàn mong muốn
bởi Chúa Giêsu không thể nào thực hiện được. Đức tin của chúng
ta phải mang chúng ta đến điểm mà chúng ta có thể dời được ngọn núi của những
thành kiến trong lòng chúng ta và vất nó xuống
biển. (2) Với câu nói này, Chúa Giêsu có đang đề cập tới
đức tin vào Thiên Chúa hoặc niềm tin vào khả năng đem lại những anh
chị em yếu kém nhất không? Có lẽ câu nói này đề cập đến cả
hai. Khi tình yêu Thiên Chúa được thể hiện cụ thể trong tình yêu tha
nhân, cũng như đức tin vào Thiên Chúa phải được thực hiện cụ thể trong niềm tin
vào anh chị em, trong sự hòa giải và tha thứ đến bảy mươi lần bảy! (Mt
18:22) Đức tin là sự điều khiển từ xa của quyền năng Thiên Chúa,
Đấng đã làm và mặc khải chính Người trong mối tương quan đổi mới
loài người được sống trong cộng đoàn!
Lc
17:7-9: Chúa Giêsu đã chỉ cho biết chúng ta phải thực hành các
bổn phận của chúng ta đối với cộng đoàn như thế nào
Để dạy
rằng trong đời sống cộng đoàn tất cả mọi người đều phải chối
bỏ và tách rời khỏi bản thân mình, Chúa Giêsu đã dùng thí dụ của người đày
tớ. Vào thời bấy giờ, một người đày tớ không thể được hưởng một công
trạng nào. Người chủ nhà, khó khăn và đòi hỏi, chỉ muốn sự phục vụ
của các đày tớ. Người đày tớhiếm khi được cảm
ơn. Đối với Thiên Chúa, chúng ta giống như một người đày tớ trước
mặt ông chủ mình.
Nó có
vẻ kỳ lạ khi Chúa Giêsu phải dùng một ví dụ chói tai như thế trích ra từ một tổ
chức xã hội bất công thời bấy giờ, để mô tả mối quan hệ của chúng ta với cộng
đoàn. Người đã làm việc này vào một dịp khác khi Người so sánh cuộc
sống trên Nước Trời với một tên trộm. Điều quan trọng là mục đích
của sự so sánh này: Thiên Chúa đến như một kẻ trộm, không lời báo trước,
vào lúc mà chúng ta không ngờ nhất; giống như một người đày tớ trước mặt chủ
mình vì vậy chúng ta không thể và không nên kể công trước anh chị em chúng ta
trong cộng đoàn.
Lc 17:10: Áp
dụng sự so sánh với người đầy tớ vô dụng
Chúa
Giêsu áp dụng ví dụ này vào đời sống trong cộng đoàn: như một
người đày tớ trước mặt chủ mình, do đó thái độ của chúng ta cũng
phải tùy thuộc vào cộng đoàn: chúng ta không được làm
những điều gì để đáng được thưởng công, tán thành, thăng thưởng hay khen ngợi,
nhưng chỉ để cho thấy rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa! “Vì vậy,
với bạn, khi bạn đã làm xong tất cả những việc bạn đã được bảo phải làm, thì
hãy nói: ‘Chúng tôi chỉ là những người đầy tớ; chúng tôi đã làm điều
chúng tôi phải làm’.” Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta không xứng đáng
bất cứ điều gì. Bất cứ những gì chúng ta nhận lãnh, chúng đã không
xứng đáng. Chúng ta đang sống nhờ vào tình yêu cho không của Thiên
Chúa.
c)
Phần tìm hiểu thêm về đức tin và sự phục vụ:
i) Đức
tin vào Thiên Chúa được thể hiện cụ thể trong việc đem anh
chị em trở lại
Sự kiện thứ
nhất: Trong thời Đệ Nhị Thế Chiến ở Đức, chuyện xảy ra cho hai
người Do-Thái, Samuel và Gioan bị đẩy vào trại tập trung. Họ bị đối
xử tàn nhẫn và thường bị hành hạ. Gioan là người trẻ hơn, lấy làm
bực dọc. Anh ta đã trút bỏ sự tức giận của mình bằng cách nguyền rủa
và dùng những lời lẽ thô tục đối với quân nhân Đức Quốc Xã là những người đối
cử tàn tệ và đánh đập họ. Samuel, là người lớn tuổi hơn, tỏ ra bình
tĩnh. Ngày kia, trong một lúc phân tâm, Gioan nói với
Samuel: “Làm cách nào mà anh có thể giữ được sự thản nhiên khi anh
bị đối xử tàn nhẫn như thế? Tại sao anh có được lòng can đảm lớn lao
như thế? Lẽ ra anh phải phản ứng và tỏ ra lòng bất mãn của anh đối
với chế độ vô lý này chứ!” Samuel đáp lại: “Giữ cho
được bình tĩnh thì khó hơn tỏ ra can đảm. Tôi không tìm kiếm sự can
đảm, vì tôi sợ rằng, do sự tức giận của tôi, người lính ấy có thể dập tắt tia
lửa nhân đạo cuối cùng đang tiềm ẩn trong người lính dã man này”.
Sự kiện thứ
hai: Trong thời gian đế quốc La-Mã chiếm đóng vùng Paléstin, Chúa
Giêsu bị kết án tử hình bởi Thượng Hội Đồng Do Thái. Chính vì
đức tin của Người vào Chúa Cha, Chúa Giêsu đón nhận tất cả mọi người như anh
chị em, và khi làm như thế, Người đã thách đố một cách mạnh mẽ cái hệ thống
nhân danh Thiên Chúa, đã khiến cho rất nhiều người dân chịu thiệt
thòi. Bản án bởi Thượng Hội Đồng Do Thái đã được duyệt xét
bởi Đế quốc La-Mã và Chúa Giêsu đã bị dẫn đến đồi Canvê để chịu
chết. Các quân lính La-Mã đã thi hành bản án. Một người
trong bọn họ đã đâm thủng bàn tay Chúa Giêsu với những chiếc
đinh. Phản ứng của Chúa Giêsu là: “Lạy Cha, xin Cha tha
cho họ, vì họ không biết việc họ đang làm!” (Lc 23:34). Đức tin vào
Thiên Chúa cho thấy tự nó đã có sự tha thứ đối với những kẻ đang giết Chúa.
ii) Sự
phục vụ cho dân Chúa và cho tha nhân
Vào thời
của Chúa Giêsu, đã có một loạt các kỳ vọng khác nhau vào đấng cứu
thế. Theo nhiều lời giải thích từ các lời tiên tri, đã có người mong
đợi một vị Vua Cứu Thế (Lc 15:9-32), Đấng Thánh của
Thiên Chúa (Mc 1:24), một Thiên Tướng (Lc 23:5;
Mc15:6; 13:6-8), một Thày Thuốc Cứu Tinh (Ga 4:25; Mc
1:22-27); một Đấng Phán XétMêssia (Lc 3:5-9; Mc 1:8); một vị Thiên
Sai Tiên Tri (Mc 6:4; 14:65). Tất cả mọi
người, theo lợi ích riêng của họ hoặc theo tầng lớp xã hội, ngóng chờ Đấng
Thiên Sai theo như ước nguyện và sự mong đợi của họ. Dường như không
một ai, ngoại trừ người nghèo hèn, người nghèo của Đấng Gia-Vê, đã
mong đợi một Đấng Cứu Thế Tôi Trung, đã được công bố bởi tiên tri
Isaia (Is 42:1; 49:3; 52:13). Người nghèo khó thường nhớ lại lời hứa
đấng cứu tinh được xem như một sự phục vụ tặng cho nhân loại qua dân của
Chúa. Đức Maria, người nghèo khó của Thiên Chúa, đã nói với thiên
sứ: “Này tôi là tôi tá của Chúa!” Từ Đức
Maria, Chúa Giêsu đã học được cách phục vụ. “Con Người đến
không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10:45).
Hình
ảnh của Người Tôi Trung được mô tả trong bốn bài thánh ca của tiên tri
Isaia (Is 42:1-9; 49:1-6; 50:4-9; 52:13 đến 53:12), đã không chỉ về một cá nhân
riêng rẽ nào, nhưng nói về dân tộc bị trị (Is 41:4-9; 42:18-20; 43:10; 44:1-2;
44:21; 45:4; 48:20; 54:17), được mô tả bởi tiên tri Isaia như là một
dân tộc “bị đàn áp, bị biến dạng, không còn hình thù của một con người và không
điều kiện tối thiểu của con người, một dân tộc bị khai thác, bị ngược đãi,
không có tiếng nói, không thanh nhã hoặc vẻ đẹp, đầy đau khổ, bị mọi người xa
lánh như người cùi hủi, bị lên án như một tội phạm, không được bênh vực hoặc
bào chữa” (xem Is 53:2-8). Đây là hình ảnh trung thực của một
phần ba nhân loại ngày nay! Những người tôi tớ này “không than van,
không gào thét, sẽ không để ai nghe tiếng giữa phố phường, sẽ không đành
bẻ gãy cây lau bị dập” (Is 42:2). Bị ngược đãi nhưng không bức hại;
bị đàn áp nhưng sẽ không đàn áp; bị giày xéo dưới chân nhưng sẽ không chà đạp
những người khác. Những người này sẽ không sa vào vực thẳm bạo lực
của chế độ đã đàn áp. Thái độ chịu đựng này của Đấng Tôi Trung Thiên
Chúa là cội rễ của công lý mà Thiên Chúa mong muốn được nhìn thấy lan tràn khắp
thế gian. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta trở
nên tôi tớ của Người với sứ mạng đem công lý chiếu sáng rực rỡ trên khắp thế
giới (Is 42:2-6; 49:6).
Chúa
Giêsu biết các bài thánh ca này và trong việc thi hành sứ vụ của mình, Người đã
để cho những bài thánh ca này hướng dẫn Người. Vào lúc Người chịu
phép rửa trên sông Giođan, Đức Chúa Cha đã giao phó Người với sứ mệnh của người
Tôi Trung (Mc 1:11). Lúc trong hội đường tại Nazarét, Người giải
thích chương trình của mình với các dân của Người, Đức
Giêsu đã công khai nhận lãnh sứ mệnh này (Lc 4:16-21). Trong thái độ
của sự phục vụ này, Chúa Giêsu mặc khải gương mặt của Thiên Chúa, lôi
cuốn chúng ta và chỉ cho chúng ta thấy con đường tìm về với Thiên Chúa.
6.
Cầu Nguyện: Thánh Vịnh 72 (71)
Hy vọng cho tất cả mọi người rằng Đấng Cứu
Thế sắp đến
Tâu
Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân!
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!
Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.
Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.
Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa Ít-ra-en,
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
A-men. A-men.
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân!
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!
Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.
Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.
Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa Ít-ra-en,
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
A-men. A-men.
7. Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp
chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi
sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời
Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở
nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực
hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha
trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
www.dongcatminh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét