Trang

Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2015

21-06-2015 : (phần I) CHÚA NHẬT XII MÙA THƯỜNG NIÊN năm B

21/06/2015
Chúa Nhật 12 Quanh Năm Năm B
(phần I)


Bài Ðọc I: G 38, 1. 8-11
"Sóng cồn của ngươi phải dừng lại đây".
Trích sách Gióp.
Bấy giờ từ cơn gió lốc, Chúa đáp lời Gióp rằng: "Khi nước chảy mạnh vỡ bờ như sinh ra bởi lòng mẹ, ai đã lấy cửa mà ngăn lại, lúc Ta lấy mây làm áo che nó, và lấy u tối che phủ nó như khăn bọc con trẻ? Ta đã vạch biên giới chung quanh nó, đã đặt khung cửa và then chốt mà phán rằng: "Ngươi chảy đến đây mà thôi, không được chảy xa nữa và vỗ sóng ba đào cũng phải dừng tại đây".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 106, 23-24. 25-26. 28-29. 30-31
Ðáp: Hãy tán tạ Chúa, bởi đức từ bi Người còn muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Những người xuống tàu vượt biển ra khơi, làm nghề thương mại trên nơi nước cả, họ đã nhìn thấy những kỳ công của Chúa, và những việc huyền diệu của Người ở chỗ thâm uyên. - Ðáp.
2) Chúa lên tiếng, và Người đã khiến phong ba nổi dậy, Người đã khiến cho sóng biển dâng cao. Những người đó lên tới trời xanh, xuống lòng biển thẳm, tâm hồn họ bủn rủn trong cảnh gian nguy. - Ðáp.
3) Họ đã kêu cầu Chúa trong cơn khốn khó, và Người đã giải thoát họ khỏi chỗ lo âu. Người biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu, và bao làn sóng biển đều im lặng. - Ðáp.
4) Họ mừng vui vì thấy sóng biển yên, và Chúa đã đưa họ cập bến ước mong. Những người đó hãy cảm ơn Chúa vì lòng nhân hậu, và những điều kỳ diệu của Người đối với con người ta! - Ðáp.

Bài Ðọc II: 2 Cr 5, 14-17
"Ðây mọi cái mới đã được tạo dựng".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, lòng mến của Ðức Kitô thúc bách chúng ta; chúng ta xác tín điều này là một người đã chết vì mọi người, vậy mọi người đều đã chết. Và Ðức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, thì không còn sống cho chính mình nữa, mà là sống cho Ðấng đã chết và sống lại vì họ.
Vì thế, từ nay chúng ta không còn biết ai theo xác thịt nữa. Mặc dù nếu chúng ta đã biết Ðức Kitô theo xác thịt, thì giờ đây chúng ta không còn biết như thế nữa. Vậy nếu ai đã trở nên một tạo vật mới trong Ðức Kitô, thì những gì cũ đã qua rồi, vì đây mọi sự đều được trở nên mới.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 4, 35-40
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Thiên Chúa Có Quyền Trên Sóng Nước

Văn chương thường ví đời sống con người từ khi sinh đến khi chết, như một cuộc vượt biển, đi từ bên này sang bên kia. Và mặt biển trần gian không mấy khi phẳng lặng. Không những thường có gió, có sóng, mà nhiều khi còn nổi bão và sóng cuộn. Và không chắc thời buổi khoa học kỹ thuật cao ít sóng gió hơn những thời đại bè nứa và thuyền nan. Lịch sử thế giới những thập niên gần đây xem ra nhiều biến động và con người ở thời đại chúng ta cũng rất nhiều thử thách. Cụ thể ai có thể bảo: đời sống bản thân, gia đình và xã hội mình đang sống không có những nét bất ổn làm giao động tâm hồn?
Hôm nay Lời Chúa không những tỏ ra thấu suốt các nguy hiểm của đời sống con người, mà còn muốn đem lại bình an hạnh phúc cho tất cả chúng ta đang sống trong sóng gió của cuộc đời. Chúng ta lần lượt đọc lại bài sách Yob, bài Tin Mừng và bài thư Phaolô.

A. Thiên Chúa Có Quyền Trên Sóng Nước
Phụng vụ chọn bài sách Yob đi trước bài Tin Mừng hôm nay. Vì sao không chọn một bài khác? Cựu Ước không thiếu những đoạn sách tương tự. Nhưng sách Yob gợi ngay đến cuộc sống của một người gặp thử thách khác thường. Không những Yob đã trở thành biểu tượng mọi con người gặp đau khổ đớn đau, sách Yob còn chứa đựng mọi suy tư của con người muốn giải thích vì sao cuộc sống lại nhiều khổ đau vô lý như vậy. Các phát biểu nhiều và dài, nhưng chẳng hoàn toàn thuyết phục được ai khác, ngoài chính người đã dựng ra những lý thuyết giải thích kia. Cuối cùng, như không thể chịu đựng được nữa, những tư tưởng ngu xuẩn của những kẻ múa mép một cách tự đại, Thiên Chúa đã nói với Yob "từ cơn giông tố".
Vì sao Người lại dùng giông tố làm bối cảnh? Văn chương Cựu Ước và ở thời của Yob không thể nào tưởng tượng được một cuộc hiển linh mà không thấy có sấm chớp, giông tố và khói lửa. Kể từ ngày mô tả Thiên Chúa ngự xuống trên núi Sinai giữa cảnh trời long đất lở, sấm chớp hãi hùng, các tác giả Cựu Ước luôn diễn tả việc Chúa hiện ra hoặc với loài người kèm theo tiếng gió, tiếng sét, trong lửa, trong khói. Ðó là những bối cảnh đã trở nên quen thuộc.
Ở đây, "giông tố" đã là dấu báo hiệu cho việc Chúa hiện đến. Nó còn nói lên một ý nghĩa nữa. Nó muốn quét sạch mọi luân lý của loài người đã nói ra trước đây để cắt nghĩa vì sao hết sự dữ này đến tai họa khác đã ập xuống trên cuộc đời và thân thể của Yob. Chẳng lý lẽ nào có thể đứng vững trước chân lý của Chúa. Chúng đã tháo lui, rút chạy khi Người sắp mở miệng. Giông tố đã đến quét sạch mặt đất để cho Thiên Chúa xuất hiện. Và để tỏ ra Lời Người sắp nói là Chân lý, khác hẳn các suy tư của con người. Giữa tư tưởng của Người và luận lý của chúng sinh phải có một khoảng cách, một khoảng trống. Ðấng siêu việt không thể ngự đến giữa các vật tầm thường. Chân lý của Người không được xếp hạng chung với các tiếng nói của loài người.
Và quả thật, Người không phát biểu như bạn bè trước đây của Yob. Các người này đi thẳng vào những đau khổ của ông, lấy lẽ này lẽ khác ra mà giải thích. Họ và đối tượng họ giải thích cùng nằm trên một bình diện. Họ đứng cùng tầm mức với các điều họ muốn hiểu. Thiên Chúa thì không. Người siêu việt hơn hết thảy. Người đứng trên mọi sự. Người nắm đầu tất cả. Người bắt chúng phải trả lời, chứ không lờ mờ tìm hiểu chúng.
Thế nên, Người bảo Yob: "Hãy nai nịt như một dũng sĩ (để xứng đáng đứng trước nhan Người). Ta sẽ vặn hỏi ngươi và ngươi hãy cho ta hay: ai đã cài chắc then biển bằng hai cánh xếp, khi nó trào ra từ lòng mẹ; khi Ta phủ mây trên nó như áo quần và mây tối làm tã lót?"
Dĩ nhiên phải biết văn chương của thời Yob mới dễ hiểu những lời vừa nghe. Thời ấy, người ta có những quan niệm rất khác với chúng ta về vũ trụ. Ðối với họ, mọi vật đã từ "vực thẳm" đi ra. Biển cũng từ lòng sâu thẳm ngoi lên. Vực thẳm là lòng mẹ sinh ra vạn vật. Nhưng khi nước biển trào ra như vậy, làm sao nó lại đọng lại một vài nơi và không tràn ra lênh láng? Phải có người vạch ranh giới cho nó và đặt nó trong cửa kín then cài. Ai vậy, nếu không phải là tạo hóa? Người đặt định luật cho các vật để chúng không ngông cuồng và không có kỷ luật...
Viết như trên, tác giả sách Yob cũng cùng quan điểm với tác giả sách Khởi nguyên. Chúng ta quen tư tưởng của sách này từ chương đầu tiên. Ở đó, chúng ta thấy Thiên Chúa đã làm ra mọi sự, một cách thật đơn giản và quyền năng. Người phán hãy có vật nào là vật ấy xuất hiện. Người bảo nước dưới vòm trời hãy tụ lại một chỗ, để cho khô ráo lộ diện. Và đã xảy ra như vậy. Người gọi khô ráo là đất, còn khối nước tụ lại là biển.
Dĩ nhiên, một cách khoa học ngày nay không viết như thế, nhưng con người ở thời Yob không hiểu được văn khoa học thời nay. Ðàng khác sách Yob cũng như sách Khởi nguyên không muốn nói chuyện khoa học, nhưng chỉ muốn dạy đạo. Chân lý chủ yếu ở đây là biển rộng với các định luật của nó là tự Thiên Chúa sắp đặt. Tác giả thời bấy giờ phải dùng các hình ảnh vừa tầm mức của người đương thời để diễn đạt tư tưởng đạo đức. Ông phải mượn hình ảnh then cài và cửa khép hai cánh để nói lên định luật không cho nước lan rộng ra quá mức. Ðịnh luật này cũng do tạo hóa đặt định thôi. Do đó, người xưa nói đến cửa đóng then cài không cho nước thoát ra, và ngày nay chúng ta nói đến hấp lực của trái đất và mặt trăng điều hòa sức nước dâng lên dâng xuống, cũng vậy thôi xét theo quan điểm tìm hiểu: bởi vì cuối cùng vẫn phải nại đến ai làm ra cửa và ai đặt ra định luật. Người thời xưa mộc mạc và thi sĩ hơn người khoa học. Họ thấy sức mạnh của nước, nhưng đồng thời sức mạnh ấy được kiềm chế. Họ nghĩ phải có ai điều khiển đại dương. Họ suy tôn tạo hóa trong các kỳ công của Người.
Cũng như họ thấy mặt biển thường có mây. Họ nghĩ đến ngày sinh của con người phải có tã lót và con người không thể phô bày thân thể mà không mang quần áo. Họ suy biển cũng phải như vậy. Nên ở đây tác giả viết: Tạo hóa phủ mây trên nó như áo quần vá mây tối làm tã lót.
Chúng ta chia sẻ cái nhìn chân thực của tác giả. Chúng ta cùng tác giả nhìn nhận Thiên Chúa, Ðấng tạo thành vạn vật, có quyền trên hết thảy. Người có quyền trên biển rộng. Nhưng điều này ăn nhằm gì với điều Yob đang muốn biết. Ông đang điên đầu vì chẳng hiểu sao mình khổ sở quá như thế này. Bạn bè của ông đã đưa ra những lời giải thích không thể chấp nhận được. Thiên Chúa muốn trả lời thế nào cho ông đây, khi nói đến quyền của Người trên sóng nước?
Sự thật Yob đã hiểu ngay Thiên Chúa muốn nói gì rồi. Ông và đồng bào của ông quá biết sức mạnh của nước, nhất là khi nó phá phách như trong truyện Ðại hồng thủy và truyện binh lính Pharaô chết hết khi nước vùi dập họ nơi Biển Ðỏ. Trong bão táp, sóng nước thật hung dữ. Biển trở thành biểu tượng cho nhiều sức mạnh nguy hiểm. Thế nên không phải chỉ ở Dothái, mà còn ở nhiều nơi, loài người vẫn ví cuộc sống nguy hiểm của họ ở đời này như cuộc vượt biển trăm bề hiểm nguy.
Vậy khi khẳng định uy quyền của Thiên Chúa trên sóng nước, tác giả sách Yob chẳng qua có ý quả quyết: sự dữ cũng dưới quyền của Chúa. Và kẻ gặp sự dữ hãy đến đặt niềm tin tưởng nơi Người.
Nhưng khốn nỗi nhiều khi Người lại như Ðức Yêsu cứ ngủ yên trong khi môn đệ gặp sóng gió dữ dằn. Thái độ của chúng ta như thế nào trong những trường hợp như thế?

B. Các Ngươi Chưa Có Lòng Tin Sao?
Marcô không phải là tác giả không biết kể chuyện. Lời văn của ông vắn tắt nhưng ngụ nhiều ý. Ông biết quá mặt nước mà các môn đệ của Ðức Yêsu sắp bơi thuyền sang, không phải là một đại dương hoặc một mặt biển rộng. Ðây chỉ là một cái hồ, tuy không rộng như chưa thể gọi là biển. Thế mà Marcô làm cho chúng ta thấy thuyền của các Tông đồ như đang vượt biển sóng to gió lớn. Tác giả muốn dùng câu truyện hôm nay để nói đến con đường gian nan nguy hiểm mà các Tông đồ sắp đi vào, và để báo trước cuộc đời của Hội Thánh sẽ phải lênh đênh sóng gió, và đời sống đức tin của mỗi người chúng ta phải lao khổ, hiểm nguy. Bài sách Marcô hôm nay vì thế cũng nằm trong viễn tượng chúng ta vừa trình bày khi nói về bài sách Yob. Cả hai đều muốn gợi lên cuộc đời đầy thử thách gian lao của con người.
Marcô lại khéo dùng vài từ ngữ để làm cho bối cảnh thêm đe dọa, bi đát hơn. Ông viết: "Ngày hôm ấy". Từ ngữ này rơi vào tai những người am hiểu Kinh Thánh, lập tức có thể gợi lên viễn tượng về ngày chung thẩm, khi Thiên Chúa đến phán xét lành dữ trong hãi hùng và thẳng nhặt. Không có gì đáng sợ hơn những gì sẽ xảy ra trong ngày ấy. Thế nên, khi đặt cuộc vượt biển của các tông đồ trong khung cảnh của "ngày hôm ấy", Marcô đã mở ra một chân trời đe dọa. Không những thế, ông còn viết: "Lúc chiều đến". Nghĩa là tối tăm sắp sửa ập xuống. Và ai biết trong bóng tối có những hung thần và nguy hiểm nào?
Chúng ta bảo: Các tông đồ không biết chọn thời điểm. Nhưng họ đâu có quyền lựa chọn. Khi đã nhận làm môn đệ Chúa Yêsu và hấp thụ mầu nhiệm Nước Trời như Người đã mạc khải qua các dụ ngôn hạt giống và hạt cải (đọc trong Chúa nhật trước), họ phải băng "qua bên kia", tức là phải bỏ đời sống cũ, đi vào đời sống mới. Và đây là nếp sống môn đệ từ nay họ phải đi theo.
Nó không yên hàn. Chưa chi đã xảy đến một trận gió táp thổi mạnh, và sóng ập tràn vào thuyền, làm thuyền đã hòng đầy ngập. Marcô đã không tả dài hơn. Vì đây ông không có ý kể chuyện. Mọi người có thể tưởng tượng được hoàn cảnh của một thuyền nhỏ bỗng dưng gặp gió táp sóng cồn. Nó không chìm là may. Ai ai cũng có thể biết như thế. Ai ai cũng đã kinh nghiệm cuộc đời mình nhiều khi tròng trành trong gian truân. Không cần nói, ai cũng biết; nên Marcô tả bấy nhiêu cũng đủ rồi. Ông nói ngay sang việc cốt yếu.
Thuyền đã hòng ngập, mà Ðức Yêsu bây giời đang ở đàng lái, dựa trên ván véo mà ngủ. Người ở chỗ quan trọng vì số phận con thuyền tùy ở tay lái. Thế mà đang lúc khó khăn nguy hiểm tột độ, Người lại nằm ngủ. Ðây không phải chỗ chúng ta khen Người có nếp sống bình dị, nằm đâu cũng ngủ được.
Ðối với Marcô, Người nằm ngủ như thế là hình ảnh về Thiên Chúa như nhắm mắt làm ngơ và ngủ say quên mất rằng loài người chúng ta sắp chết rồi, con thuyền Hội Thánh đã sắp chìm và bản thân chúng ta sắp bị vùi giập trong hiểm nguy. Thái độ lạ lùng, khiến loài người phải đặt ra nhiều câu hỏi về vấn đề đau khổ và sự dữ: có Thiên Chúa hay không? Người không biết chúng ta đang khổ sao? Người bất lực hay là đa đoan như người ta thường nói về "Con Tạo"? Sự dữ này bởi đâu?
Không phải chỉ có thế. Marcô có những nét tả trong câu truyện này khiến chúng ta không thể không nhớ đến câu truyện Yona. Ông này cũng lấy tàu vượt biển. Tàu cũng bị sóng gió. Mọi người trên tàu đều thất kinh tìm cách chống cự. Duy mình Yona tìm chỗ vắng nhất đặt mình xuống ngủ. Và ngủ say ngon giấc nữa. Người ta cũng đến lay ông dậy, cũng nói với ông tương tự như các môn đệ hôm nay thưa với Ðức Yêsu. Nếu vậy thì dưới con mắt của Marcô, Ðức Yêsu đang ngủ không phải chỉ gợi lên hình ảnh về sự vắng mặt của Thiên Chúa trong lúc loài người khổ sở. Nhưng vì truyện Yona đã được chính Ðức Yêsu dùng để ám chỉ việc Người tử nạn-phục sinh, nên các nét tả của Marcô hôm nay hẳn cũng muốn báo trước những việc sẽ xảy ra sau này: Ðức Yêsu sẽ nằm chết trên thánh giá. Người nằm ngủ trong đau thương. Nhưng rồi Người sẽ chỗi dậy và trở thành "Chúa" trong mầu nhiệm Phục sinh. Cũng như hôm nay, tỉnh dậy Người quát bảo gió và biển: Nín đi, im đi! Và gió tắt biển lặng như tờ.
Như vậy chúng ta được phép nghĩ rằng, đối với Marcô không những thái độ yên lặng của Thiên Chúa trong các đau khổ của loài người, đã là điều khó hiểu cho tâm trí chúng ta; Người còn khiến chúng ta khó hiểu Người hơn nữa khi Người đã để cho Con Một Người nằm chết đau thương trên thập giá. Nhưng lại chính khi trở nên khó hiểu hơn hết, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta được cái chìa khóa để mở mầu nhiệm đau khổ ra. Người làm cho Con Một Người sống lại: Ðức Yêsu Kitô tỉnh lại truyền lệnh cho các lực lượng đối nghịch con người; Người tỏ ra là Chúa để môn đệ hoàn toàn tin tưởng. Biết được gió và biển phải vâng phục Người, từ nay họ không còn sợ chúng nữa. Những kẻ đã tin Người tử nạn-phục sinh, không còn sợ gì đau khổ nữa. Có thể họ vẫn chưa hiểu được vì sao Thiên Chúa lại như ngủ quên khi con cái loài người đang khổ sở và lâm nguy. Nhưng biết rằng Người có toàn quyền trên mọi sự dữ, họ có thể đặt hết tin tưởng ở nơi Người.
Ðó chính là bài học mà Marcô muốn đưa ra trong câu truyện này. Và cũng vì vậy mà Ðức Yêsu đã nói với các môn đệ: Các ngươi chưa có lòng tin sao? Chúng ta có thể bảo: Phaolô muốn áp dụng bài học ấy trong đoạn thư hôm nay.

C. Cũ Ðã Qua Ði Và Mới Ðã Thành Sự
Thánh tông đồ nhìn ngắm Chúa Yêsu nằm ngủ trên thập giá giữa bao đau thương khổ sở. Người hiểu Chúa đã chết vì mọi người. Và lòng mến của Chúa thúc bách người, khiến người xác tín rằng: Chúa đã chết vì mọi người, thì đừng ai còn sống cho mình nữa, nhưng là cho Ðấng chết và sống lại vì họ. Và cho được như vậy mọi người phải chết, chết nơi con người cũ, chết nơi con người luôn nghĩ đến mình, để trở thành con người mới, con người sống cho Chúa Yêsu Kitô. Câu thánh Tông đồ nói: Cũ đã qua đi và này mới đã thành sự, có nghĩa là như vậy. Ai đã tin Chúa Yêsu đã chết và sống lại, thì phải chết đi con người cũ, để sống làm con người mới trong sự thánh thiện của Chúa Yêsu phục sinh. Một nền đạo đức học mới phải phát xuất từ đó. Nó có nhiều hệ luận, nhưng tất cả xây trên một niềm tin duy nhất, tin Chúa Yêsu Kitô đã chết và sống lại, đã từ bỏ con người trần gian của Người qua con đường hy sinh thánh giá để trở thành Chúa đứng trên mọi tạo vật. Nơi Người, đau khổ đã có ý nghĩa. Nó đã đưa Người đến vinh quang. Nó trở thành con đường cho những ai muốn theo Người, bước vào con đường này, người ta nhờ đau khổ sẽ dần dần giũ bỏ con người cũ, ích kỷ và xác thịt, để trở thành con người mới, bác ái và thần linh. Người ta không buồn phiền và nản lòng khi gặp đau khổ nữa; nhưng nhìn vào mầu nhiệm thập giá, người ta tin có Chúa đang ở với mình, cho dù bề ngoài xem ra Người đang ngủ, nhưng thật sự Người đã dùng chính sự yên lặng thánh giá để làm im gió và biển của thế giới đầy đau thương này.
Giờ đây chúng ta sắp cử hành mầu nhiệm Thánh giá nơi bàn thờ. Dưới hai hình thức bánh rượu, vừa đơn sơ vừa bất động, biểu tượng cho sự lặng thinh của Thiên Chúa và cho việc Chúa Yêsu nằm yên trên thập giá, chúng ta tin có sự sống của chính Thiên Chúa. Người ban cho những ai tin mà đón nhận, chính sự sống của Người, để với ơn của Người họ được sức khắc phục mọi khó khăn đau khổ ở đời, khiến con người mới được xây dựng mỗi ngày mỗi kiên vững. Chúng ta hãy sốt sắng cử hành và tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể này, để khi ra về có thể nói được rằng: cũ đã qua đi và này mới đã thành sự. Và chúng ta sẽ sống giữa xã hội như những con người mới, với những tư cách mới.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 12 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Job 38:1, 8-11; 2 Cor 5:14-17; Mk 4:35-41.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa có uy quyền trên sóng gió.

             Con người đã tiến bộ rất nhanh vế các nghành hàng không (máy bay, phi thuyền, vệ tinh nhân tạo), hàng hải (tàu ngầm, chiến hạm, thương thuyền, du thuyền), đường bộ (xe hơi, điện tử ...); nhưng khi phải đương đầu với núi lửa, động đất, bão táp, hay sóng gió: con người phải bó tay đầu hàng. Dù con người biết sáng chế ra những dụng cụ để biết trước khi nào các thiên tai xảy ra và cường độ mạnh thế nào; nhưng con người vẫn không tìm ra cách ngăn cản để những thiên tai đừng xảy ra.
            Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng uy quyền của Thiên Chúa trên gió bão và biển cả. Trong Bài Đọc I, ông Gióp trăn trở với câu hỏi tại sao người lành như ông phải chịu đau khổ, nên đã muốn có được câu trả lời từ Thiên Chúa. Để trả lời ông, Thiên Chúa muốn ông suy nghĩ về uy quyền Thiên Chúa trên gió bão và biển cả. Đây mới chỉ là một ví dụ trong muôn ngàn ví dụ dẫn chứng uy quyền về sự quan phòng của Thiên Chúa mà trí óc con người không sao hiêu được. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô cho chúng ta một điều vĩ đại con người không thể hiểu được là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người qua Đức Kitô. Tình yêu này có sức biến đổi con người thành những tạo vật mới để có thể đáp ứng những đòi hỏi của Thiên Chúa mà sức riêng con người không thể đáp ứng. Trong Phúc Âm, Các môn đệ kinh ngạc đến độ sững sờ, vì họ không thể nào ngờ chỉ một lời truyền của Chúa Giêsu mà trận cuồng phong dữ dội của biển cả phải im lặng như tờ. Chúa Giêsu nhắc nhở cho họ biết: họ cần có một đức tin vững mạnh trong những cơn phong ba bão táp như vậy. 

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 

1/ Bài đọc I: Con người không nên thử thách sự quan phòng của Thiên Chúa.

1.1/ Ông Gióp không hiểu tại sao người lành phải đau khổ: Sách Gióp được viết vào khoảng thế kỷ 2-3 BC. Trong khoảng thời gian này, con người vẫn chưa có ý niệm rõ ràng về cuộc sống đời sau như chúng ta hiện giờ. Vì thế, tất cả những gì con người mong ước tập trung vào hạnh phúc đời này: giàu có, sống lâu, khỏe mạnh, con đàn cháu đống ... Ông Gióp là một người công chính, biết kính sợ Thiên Chúa và luôn ăn ngay ở lành; thế mà Satan, được phép của Thiên Chúa, lấy đi hết những gì ông sở hữu: giàu có, sức khỏe, các con cháu. Mục đích của Satan là để chứng minh cho Thiên Chúa biết ông Gióp kính sợ Thiên Chúa là vì Ngài che chở và chúc phúc cho ông; trong khi Thiên Chúa nghĩ ngược lại, ông Gióp kính mến Ngài thật tình, và đây là cơ hội để thử đức tin của ông. Phần ông Gióp, ông hoàn toàn không biết ý định của Thiên Chúa và Satan. Giống như người đương thời, ông không thể hiểu nổi tại sao người lành phải đau khổ và tại sao cần thử luyện đức tin. Các bạn ông cố gắng thuyết phục ông lý do ông phải đau khổ là tại tội lỗi của ông hay tội của tổ tiên, cha mẹ, và những người trong gia đình. Ông Gióp từ chối lý luận này vì ông xét thấy mình không có tội chi cả, và ông ước ao nhận được câu trả lời xác đáng từ Thiên Chúa.

1.2/ Thiên Chúa trả lời ông Gióp: Một ví dụ Thiên Chúa đưa ra để giúp ông Gióp phải suy nghĩ là uy quyền của Ngài trên biển cả và bão táp, mà con người hằng sợ hãi và đầu hàng. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài định liệu những điều sau đây cho biển cả:
            (1) Định lượng nước vừa đủ cho biển cả sông ngòi: Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: "Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu?" Nếu lượng nước dâng cao quá, nó sẽ gây thiệt hại kinh khủng cho con người. Lụt Hồng Thủy là một ví dụ điển hình. Tác giả Thánh Vịnh 33:7 suy gẫm về điều này đã phải thốt lên: "Nước trời cao Chúa định cho có chốn. Người đem biển cả trữ vào kho."
            (2) Định bốn mùa thay đổi nối tiếp nhau: ''Khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân?'' Trong kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa, nắng mưa phải điều hòa. Khi trời nắng quá, đất đai sẽ khô cằn không thể trồng cấy và mang lại của ăn cho con người, hậu quả là dân chúng sẽ bị đói khát. Khi trời mưa nhiều quá hay lạnh quá, sẽ gây ngập lụt và phá hủy mùa màng, hậu quả là dân chúng cũng sẽ bị đói khát và chết chóc.
            (3) Vạch ranh giới cho biển cả: ''Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài; rồi Ta phán: "Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!"'' Khi dạo chơi ngoài bãi biển, chúng ta phải ngạc nhiên vì ranh giới của biển. Mặc dù thủy triều lên xuống khác nhau, nhưng những đợt sóng ngoài khơi vào cũng chỉ trong giời hạn của nó. Khi những đợt sóng dâng quá giới hạn, chúng sẽ gây thiệt hại ghê gớm cho con người.

2/ Bài đọc II: Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới.

2.1/ Tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua Đức Kitô: Trong lãnh vực tình yêu, sự quan phòng của Thiên Chúa còn cao vời bao la hơn nữa. Đức Kitô nói về tình yêu Thiên Chúa như sau: ''Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người'' (Jn 3:16). Con người không thể hiểu nổi tại sao Thiên Chúa thương con người đến nỗi ban Người Con Một để chết thay cho con người. Tại sao một Thiên Chúa uy quyền không dùng sức mạnh vinh quang, lại chọn con đường qua Thập Giá để cứu độ con người?
            Khi con người cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa, họ muốn làm mọi cách để đáp trả tình yêu này, ngay cả chấp nhận cái chết, như Phaolô kinh nghiệm: ''Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết.'' Phaolô ý thức rõ ràng, con người phải chết cho tội để sống cho Thiên Chúa. Khi dìm mình trong Nước Rửa Tội, con người muốn lột bỏ con người cũ cùng với mọi xấu xa tội lỗi; để khi trồi lên khỏi mặt nước, con người mặc lấy con người mới là Đức Kitô, với đầy đủ nhân đức và tình yêu. Vì thế, con người có sức mạnh để sống như Ngài: "Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình." Nếu con người chung phần trong sự đau khổ với Đức Kitô, con người cũng được chung phần với sự sống và vinh quang của Ngài.

2.2/ Tình yêu của Đức Kitô có sức mạnh biến đổi con người thành tạo vật mới: Kinh nghiệm của thánh Phaolô về sự thay đổi đột ngột khi con người sở hữu Đức Kitô, đã thúc đẩy Ngài viết lên những lời sau: ''Vì thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa.''
            - Thánh Phaolô đã từng biết Đức Kitô theo quan điểm của loài người: một người xúi giục dân chúng vi phạm Lề Luật và đi ngược lại với truyền thống của tổ tiên. Đó là lý do tại sao ông nhiệt thành bắt bớ các tín hữu để trừng phạt và bỏ tù.
            - Khi nhận được mặc khải bởi Đức Kitô trên đường đi Damascus, ông trở thành một tạo vật mới và làm những hành động hoàn toàn ngược lại. Từ giờ đó, ông trở thành một người hăng say rao giảng Đức Kitô cho mọi người, mặc dù phải chịu đựng bắt bớ và gian khổ trăm chiều.
            Phaolô xác tín: ''Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.'' Khi con người thấm nhuần đạo lý và tình yêu của Đức Kitô, họ trở thành người rao truyền tình yêu Thiên Chúa, và đối xử với tha nhân như những con cái của Thiên Chúa, và như những người anh/chị/em của Đức Kitô.

3/ Phúc Âm: Người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?

3.1/ Khi con người phải đương đầu với cuồng phong bão táp của biển cả: Phản ứng đầu tiên là con người sợ hãi vì nó đe dọa mạng sống con người. Trong quá khứ, nhiều dân chài đã thờ các thần sông, thần biển, để hộ phù họ khỏi sóng gió bão táp khi ra khơi đánh cá.
            (1) Phản ứng của các môn đệ: Khi một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?"
            (2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Trái với phản ứng sợ hãi của các tông-đồ, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các tông-đồ không thể nào ngờ sóng gió to lớn như thế mà Chúa Giêsu có thể an giấc ngủ được, nên các ông đánh thức Ngài dậy. Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển chỉ với hai câu ngắn ngủi: "Im đi! Câm đi!" Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
            Các tông đồ còn đang ngạc nhiên thì Người bảo các ông: "Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?" Chúa Giêsu luôn nhắc nhở các ông phải có lòng tin để dẹp bỏ các nghi ngờ; khi một người có lòng tin tưởng, họ sẽ không còn sợ hãi. Các ông đang có Thiên Chúa uy quyền ở với mình, còn lo chi nữa? Nhưng các ông vẫn chưa hoàn toàn tin vào Ngài, nên các ông hoảng sợ và nói với nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?"

3.2/ Khi con người phải đương đầu với sợ hãi, sóng gió, và lo âu của biển đời: Rất nhiều tác giả đã ví cuộc đời con người như chiếc thuyền lênh đênh trên biển cả, và sóng gió bão táp như những nghịch cảnh mà con người phải đương đầu với như: chiến tranh, thiên tai, bệnh tật, đói khát, chia ly, bắt bớ, hiểu lầm. Làm sao con người có sức mạnh để đương đầu với những phong ba bão táp của biển đời?
            Trước tiên chúng ta cần có một thái độ tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa, vì Ngài đã từng căn dặn các môn đệ: "Can đảm lên, đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian." Không có một quyền lực nào của ma quỉ hay của thế gian có thể chiến thắng nổi quyền lực của Thiên Chúa. Thứ đến, chúng ta phải trông cậy hoàn toàn vào sự yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa. Ngài biết tất cả những gì chúng ta đang quan tâm, lo lắng; và như người Cha, Ngài sẽ lo liệu và ban những ơn cần thiết cho chúng ta, cho gia đình, và cho những người chúng ta cầu nguyện cho. Chỉ có một điều chúng ta cần làm là kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và yêu thương tha nhân như yêu chính mình. Phần còn lại, Chúa sẽ lo liệu.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG: 

            - Thiên Chúa có uy quyền trên mọi quyền lực của ma quỉ và thế gian; vì thế, chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào sự quan phòng thương yêu của Ngài.
            - Đức Kitô là sự khác biệt trong cuộc đời. Nếu chúng ta mặc lấy Đức Kitô, Ngài sẽ biến đổi chúng ta thành tạo vật hoàn toàn mới, có khả năng làm những điều quá giới hạn con người.
            - Khi phải đương đầu với phong ba bão táp của biển cả cũng như biển đời, chúng ta cần có một đức tin vững mạnh nơi Thiên Chúa và một niềm cậy trông không lay chuyển nơi tình yêu của  Ngài. 
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

21/06/15 CHÚA NHẬT TUẦN 12 TN – B 
Mc 4,35-41

Suy niệm: Thuở xa xưa khi khoa học chưa phát triển, người ta sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên và thờ lạy chúng như những bậc thần linh. Bao nhiêu là thứ thần: thần sông, thần biển, thần nước, thần lửa… được tôn thờ khắp nơi và trong tâm thức của mỗi người. Khi đặt câu hỏi “Người này là ai…” các môn đệ không chỉ bày sự ngỡ ngàng trước Thầy Giê-su, nhưng còn tuyên xưng Ngài là Thần trên hết các thần vì đã làm cho gió và biển phải lặng yên. Chúa là vị Thần rất gần gũi: cùng ở với họ trên một chiếc thuyền con; vị Thần vẫn “ngủ” đang khi các môn đệ sợ hãi, chèo chống vô vọng trước cơn bão biển kinh hoàng. Ngài là vị Thần đặc biệt gần gũi với những biến cố của cuộc đời con người.
Mời Bạn: Là người tin và theo Chúa Giê-su, có bao giờ bạn tự hỏi Ngài là ai, nhất la khi gặp gian nan thử thách? Câu hỏi được đặt ra trong những hoàn cảnh như thế giúp bạn xác tín hơn nữa vào Đấng bạn tôn thờ. Đấng có thể dẹp yên bao sóng cả sóng cồn chỉ bằng mấy tiếng giản đơn “Im đi! Câm đi!” thì lẽ gì Ngài không thể cứu bạn khỏi vòng vây của ma quỷ và ban cho bạn những điều tốt lành? Mời bạn tự vấn lương tâm để xác định thái độ và hành vi đối với chính bản thân mình và với chính Đấng là Thiên Chúa của bạn.
Sống Lời Chúa: Tôi ghi nhớ quyền năng tuyệt đối của Chúa để loại trừ mọi việc làm mê tín dị đoan, đồng thời cảm nhận được điều an ủi: Chúa gần gũi những ai kêu cầu Người.
Cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, xin thêm lòng tin cho chúng con để mỗi người trong chúng con khỏi bị Chúa phiền trách: “Sao nhát thế?” Amen.

THẦY KHÔNG LO SAO? 
 Ðức tin chỉ lộ ra khi biển động. Và có thể nói, biển động giúp hình thành đức tin. Ðức tin lớn lên ít nhiều sau mỗi lần biển động. 


Suy nim:
Các môn đệ gặp trận cuồng phong khi vượt biển.
Họ kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chửng.
Bất lực trước cơn cuồng nộ của sóng gió,
họ đã đánh thức Ðức Giêsu, xin Ngài giúp đỡ.
Cuộc đời nào tránh được mọi cơn giông tố?
Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng yên,
nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình:
yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất lực,
không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố.
Giông tố đưa ta đến với Ðức Giêsu,
và phó thác cho sự trợ giúp của Ngài.
“Chúng con chết mất!”
Cái chết thể lý và cái chết tinh thần,
Cái chết của bản thân và của tập thể mình gắn bó.
Cái chết của những công trình mình xây dựng.
Chúa là sự sống,
sao Chúa lặng yên để chúng con chịu chết?
Sao Chúa để sự dữ tung hoành trên thế giới?
“Mà Thầy không lo sao?”
Một lời trách móc?
Nhiều khi chúng ta cũng trách Chúa như vậy.
Có vẻ Chúa quá vô tư, lãnh đạm, hững hờ.
Chúa yên ngủ khi đời ta gặp cơn giông tố.
Ðức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển:
“Câm đi! Im đi!”
Gió ngừng ngay và biển lặng xuống.
Sự lặng đi của biển đưa đến sự trầm lặng của lòng.
Nỗi kinh hoàng tan biến, nỗi sợ chết cũng bay xa.
Nhưng chúng ta không đòi phép lạ biển lặng trong đời.
Ðiều quý hơn, đó là lòng ta được lặng.
Lòng lặng không phải vì biển lặng,
mà lặng ngay giữa lúc biển động.
Ðó là một phép lạ lớn hơn nhiều,
và đó cũng là thái độ Chúa muốn ta phải có.
Tại sao các anh lại kinh sợ?
Sóng gió làm gì được các anh
khi Thầy đang cùng các anh ở chung một con thuyền?
Ðức Giêsu đòi các môn đệ không được khiếp sợ.
Thầy đã làm bao phép lạ trước mắt các anh,
vậy mà các anh vẫn chưa có lòng tin ư?
Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy.
Ðức tin chỉ lộ ra khi biển động.
Và có thể nói, biển động giúp hình thành đức tin.
Ðức tin lớn lên ít nhiều sau mỗi lần biển động.
Thuyền đời Kitô hữu chẳng bao giờ êm ả.
Nó chỉ êm ả khi về tới bến.
Nhưng lòng ta lại phải giữ cho bình yên,
ngay cả khi Ngài không thức dậy,
dù ta đã gọi Ngài nhiều lần giữa tiếng sóng gào thét.
Ta tin rằng Ngài sẽ cứu ta theo cách của Ngài.
Cầu nguyn:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG SÁU
Thiên Chúa Can Thiệp Vì Ích Lợi Của Chúng Ta
Giáo Hội rao giảng về sự quan phòng của Thiên Chúa, không phải vì đó là sáng kiến của chính Giáo Hội, song bởi vì Thiên Chúa đã quyết định mạc khải chính Ngài. Chính Thiên Chúa là Đấng tự mạc khải chính Ngài và cứu độ dân Ngài, chính Ngài vén mở cho thấy kế hoạch cứu độ mà Ngài đã chuẩn bị từ đời đời. Trong ánh sáng này, Thánh Kinh là bản trình thuật vĩ đại nhất về sự quan phòng của Thiên Chúa, bởi vì Thánh Kinh cho thấy rằng Thiên Chúa đã sáng tạo nên mọi sự từ đầu và Ngài can thiệp một cách kỳ diệu xuyên qua lịch sử cứu độ. Đây chính là sự quan phòng của Thiên Chúa – sự quan phòng này làm cho chúng ta trở thành những tạo vật mới trong một thế giới đổi mới nhờ tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Thánh Kinh đặc biệt nói về sự quan phòng thần linh trong các chương về sự sáng tạo và nhất là trong những chỗ qui chiếu đặc biệt đến công cuộc cứu độ trong Sách Sáng Thế và các Sách Ngôn Sứ, nhất là Sách Isaia. Thánh Phao-lô cũng có những suy tư sâu sắc về những kế hoạch khôn dò của Thiên Chúa diễn ra trong lịch sử, nhất là trong các Thư Ê-phê-sô và Cô-lô-sê. Trong các Sách khôn ngoan, các tác giả nhắm đến việc tái khám phá các kế hoạch và đường lối của Thiên Chúa. Tông Đồ Gio-an trong Sách Khải Huyền thì cố gắng khám phá lại ý nghĩa của các mục đích cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới.
Xem ra quan điểm Kitô giáo về quan phòng không chỉ là một chương khác của triết lý tôn giáo. Vâng, Thiên Chúa trả lời cho những vấn nạn sừng sững của Gióp (và của mọi người giống như Gióp) với nhãn giới Thánh Kinh về sự trung thành và sự quan phòng của Thiên Chúa đối với con người. Đây là một thần học rõ ràng về sự trợ giúp và sự can thiệp có sức cứu độ của Thiên Chúa khi Dân của Ngài đáp lại Ngài trong đức tin.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 21-6
Chúa Nhật XII Thường niên
G 38, 1.8-11; 2Cr 5, 14-17; Mc 4, 35-41

LỜI SUY NIỆM: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao.”
Qua mọi thời đại của con người. Tiếng van xin và than trách khẩn thiết này mãi vang vọng nơi này hay nơi khác. Riêng đối với mỗi người, đôi khi cảm thấy Chúa im lặng như là Ngài không thấy và không nghe. Điều này không ai có thể giải thích nỗi. Chỉ còn cách nhìn ngắm Chúa Giêsu bị treo trên Cây Thánh Giá: sau Thánh Giá là Phục Sinh mới thấy được thánh ý nhiệm mầu của Chúa Cha, giúp chúng ta cảm nhận, mà cúi đầu xin vâng và đón nhận, những thực tại đang xãy ra hằng ngày trong cuộc sống của mình.
Lạy Chúa Giêsu, Trong trận cuồng phong làm cho các môn đệ hoãn sợ, than trách Chúa. Xin ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con mỗi khi gặp cuồng phong trong cuộc đời, đừng hoãn sợ, nhưng luôn vững tin là có Chúa đang ở cùng. Chúa có quyền năng để đem lại bình an cho chúng con.
Mạnh Phương

Gương Thánh Nhân
Ngày 21-06: Thánh LUY GONZAGA
Tu Sĩ (1568 - 1591)

Thánh Luy là con trưởng của Ferrante, bá tước lâu đài Castiglione miền Lombardic. Ông đã nhượng chức tổng chỉ huy cho hiệp sĩ của vua Henry VIII vì thích triều đình Tây Ban Nha hơn, tại Marid, Ferrante gặp Martha Tana đi theo hoàng hậu Isabelle. Ông lập gia đình với Martha năm 1566. Ngày 9 tháng 3 năm 1568, Luy chào đời.
Thân mẫu thánh nhân là người đạo đức. Bà đã dạy cho Luy biết kính sợ và yêu mến Chúa ngay từ hồi còn thơ ấu. Vì vậy, thánh nhân hay được gọi là "thiên thần con". Thân phụ Ngài trái lại đã muốn hứơng dẫn con mình vào nghề binh đao. Hồi lên 4 tuổi, Ngài được dẫn tới Casal để dự cuộc duyệt binh. Thân phụ Ngài cho Ngài mặc như một sĩ quan và vui mừng khi thấy con dẫn đầu đoàn quân, với quân phục vừa tầm cậu. Luy sống ở đây nhiều tháng và có dịp nghe những lời tục tĩu của lính tráng, dầu không hiểu gì.
Một ngày kia,, khi binh sĩ đang ngủ, Luy ăn cắp thuốc nạp vào súng khai hóa và suýt chết vì súng giật. Bá tước định trừng phạt đứa con của mình nhưng nhờ binh sĩ can thiệp, cậu được thả. Tuy nhiên đây là một lỗi lầm mà Luy than khóc suốt đời.
Năm 1577, Luy cùng với em trai là là Rôđôlfo được gởi đi học tại Florence. Tại đây, Luy đã khấn giữ mình trinh khiết trước ảnh Đức Mẹ truyền tin nhà nguyện dòng Tôi Tớ Đức Mẹ. Chẳng bao lâu sau, Ngài trở về Castigliône, và quyết định hiến mình cho Thiên Chúa, Ngài tăng thêm việc đạo đức và coi đó như bổn phận: quỳ đọc kinh nhật tụng Đức Mẹ, các thánh vịnh sám hối và những kinh nguyện khác. Tại Castigilione, Đức Hồng y Carrôlô Borrômeô đã làm cho Luy rước lễ lần đầu. Đức hồng y đã ngạc nhiên trước nhiệt tình và sự khắc khổ của thánh nhân và thốt lên: "Đứa trẻ này có thể làm gương cho chính các tu sĩ".
Bá tước Ferrante được đặt làm quan thị vệ của vua Tây Ban Nha, Luy trở thành thị đồng của hoàng tử, Luy nhiệt tình phục vụ hoàng tử Diogô, nhưng vẫn tìm cách sống tại triều đình như là sống trong tu viện. Nhưng rồi cái chết của Diegô dẫn Luy tới quyết định dứt khoát từ bỏ thế gian để gia nhập dòng Chúa Giêsu. Thân phụ Ngài bất mãn vì quyết định ấy và Luy phải đợi ba năm để được sự ưng thuận của thân phụ. Năm 18 tuổi, Ngài vui vẻ nhượng quyền thừa tự và bước vào đời sống tu trì.
Tại tu viện Luy muốn được hoàn toàn quên lãng. Ngài lo chuyện bếp núc, giúp đỡ người nghèo đeo bị đi ăn xin ngoài phố. Đối với gia đình, Ngài chỉ còn muốn nghĩ tới trong kinh nguyện mà thôi. Sau 2 năm trong dòng, ngày 25 tháng 11 năm 1587, Ngài tuyên khấn và lãnh phép cắt tóc gia nhập hàng giáo sĩ ít lâu sau đó.
Nhưng gia đình bỗng có chuyện tranh chấp sau khi thân phụ Ngài qua đời. Tháng 9 năm 1589, bề trên cho phép Luy về Castiglione để giàn xếp. Luy được tiếp đón như một thiên thần từ trời xuống. Mẹ Ngài không cầm mình nổi, đã quì xuống trước mặt con. Từ khắp ngả người ta nói với nhau: Chúng ta thấy Một Vị Thánh.
Cuộc dàn xếp ổn thỏa, Luy được lãnh giảng thuyết trước khi đi. Ngài đã diễn thuyết một cách kỳ diệu đến nỗi hơn 700 thính giả đã tới tòa cáo giải ngay.
Giã từ cha mẹ, Luy trở lại Milan ngày 22 tháng 3 năm 1590 để tiếp tục lớp thần học và được dời về Rôma ngay năm đó để diễn thuyết trước mặt nhiều giám mục nước Ý. Chính tại đây Ngài qua đời như là nạn nhân của lòng bác ái. Lúc ấy có một bệnh dịch tàn phá Rôma.
Thánh Luy hiến trọn xác hồn phục vụ các bệnh nhân, Ngài làm nhiệm vụ khuân vác giúp đỡ mọi người, có khi vác cả xác chết nữa. Tận tụy làm việc cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1591 thì bị bất tỉnh. Hôm sau tỉnh dậy Ngài chào anh em, rước của ăn đàng rồi từ trần.
(daminhvn.net)


21 Tháng Sáu
Nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi
Christophoro Columbo, người đã khám phá ra Châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh".
Lần kia, khi Columbo trình bày về thuyết "Trái đất tròn" trước một nhóm học giả được gọi là Hội Ðồng Salamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng nhất thời bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau: "Hôm nay tôi được hân hạnh đứng trước mặt các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho tôi đệ trình lên sự khôn ngoan của quý vị một dự án mà tôi xác tín là Chúa Thánh Thần Ba Ngôi Thiên Chúa đã gợi hứng cho tôi".
Trong cuộc hành trình thứ ba của ông khởi hành năm 1948, Columbo đã thề hứa sẽ hiến dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá ra đầu tiên, vì thế hòn đảo ông đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm Tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là "Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.
Trong suốt cuộc đời, người Kitô hữu chúng ta luôn kinh nghiệm sự gần gũi của Ba Ngôi Thiên Chúa: lúc vừa mở mắt chào đời, chúng ta được nhận lãnh Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong suốt ngày sống, chúng ta thường ghi dấu thánh giá trên mình với lời chúc tụng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cũng như mỗi lần chúng ta dùng bữa hay khi khởi đầu mọi sinh hoạt.
Cộng vào đấy mỗi lần chúng ta vấp ngã và khiêm nhượng đi xưng thú những lỗi lầm trong tòa cáo giải, chúng ta được giao hòa lại với Thiên Chúa và cộng đoàn nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và cũng nhân danh Người các đôi trai gái yêu nhau được nối kết để chung sống đời hôn nhân.
Rồi cả các bệnh nhân cũng được ban ơn sức mạnh nhờ danh Thiên Chúa Ba Ngôi để khi nhắm mắt xuôi tay, các Kitô hữu chúng ta cũng được tiễn đưa vào cuộc sống đời sau và được chôn cất nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Mặt khác, Chúa Ba Ngôi cũng là trung tâm và mục đích mọi hoạt động của những kẻ tin kính Người. Bởi thế chúng ta thường kết thúc nhiều Kinh và những sinh hoạt bằng câu: "Sáng danh Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần".
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét