16/09/2025
Thứ Ba tuần 24 thường
niên.
Thánh Cornêliô,
giáo hoàng, và thánh Cyprianô, giám mục, tử đạo.
Lễ nhớ
* Thánh Cornêliô làm giám mục giáo phận Rôma năm
251. Người đã chống lại giáo phái Novaxianô. Chưa được bao lâu, người bị
hoàng đế Ganlô bắt đi đầy ở Xivitavéckia và đã qua đời ở đây (253).
Người đã được thánh Síprianô kính trọng và quý mến. Chính vì thế, ngay từ thế kỷ
IV, Hội Thánh Rôma đã mừng lễ thánh Conêliô trong chính hang mộ của người vào
ngày lễ thánh Síprianô.
Thánh Xíprianô sinh tại Cácthagô quãng năm 210, trong một
gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận đức tin, làm linh mục, rồi làm giám mục
năm 249. Trong cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Valêrianô, người bị lưu
đày, rồi ngày 14 tháng 9 năm 258, người chịu chết để làm chứng cho Chúa Kitô.
Các thư từ và các tác phẩm của người viết ra cho thấy người có tâm hồn của một
vị mục tử đích thực, luôn đứng ở chỗ nguy hiểm nhất để nâng đỡ các anh em đang
phải chịu bách hại và để duy trì sự hiệp nhất trong Hội Thánh. Trong mọi việc,
người lo nêu gương sáng về lòng trung thành với Chúa Giêsu Kitô.
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1 Tm 3, 1-13
“Vị chủ tịch giáo đoàn phải là người không ai trách cứ được:
các vị phụ tá cũng vậy, phải nắm giữ mầu nhiệm đức tin trong lương tâm trong sạch”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Ðây là lời chân thật: Nếu ai ao ước chức chủ tịch giáo đoàn,
thì đó là ước ao một nhiệm vụ tốt đẹp. Vậy vị chủ tịch giáo đoàn phải là người
không có ai trách cứ được, người chỉ kết hôn một lần, ăn ở tiết độ, khôn ngoan,
thanh lịch, đoan trang, hiếu khách, biết giảng dạy, không mê rượu chè, không
gây gỗ, nhưng hoà nhã: không cạnh tranh, không tham lam, nhưng biết cai quản
gia đình mình, dạy con cái biết vâng phục và tiết hạnh. Nếu ai không biết cai
quản gia đình mình, thì làm sao coi sóc được cộng đoàn Thiên Chúa? Vị chủ tịch
giáo đoàn không phải là tân tòng, kẻo cậy mình kiêu căng mà sa vào án phạt của
ma quỷ. Người phải có tiếng tốt nơi người ngoại, kẻo bị ô danh và sa lưới ma quỷ.
Cũng thế, những người phụ tá phải đoan trang, không ăn nói
nước đôi, không nghiện rượu, không tìm lợi cách đê tiện, nhưng phải nắm giữ mầu
nhiệm đức tin trong lương tâm thanh sạch. Những kẻ ấy phải được thử thách trước,
rồi nếu không có gì đáng trách, thì mới được phục vụ. Người phụ nữ cũng vậy, phải
đoan trang, không nói hành, phải tiết độ và trung tín trong mọi sự. Các vị phụ
tá phải là người chỉ kết hôn một lần: biết coi sóc con cái và nhà cửa mình. Vì
những phụ tá khi thi hành đứng đắn chức vụ, sẽ được lên bậc cao trọng và sẽ đầy
hiên ngang trong lòng tin vào Ðức Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 100, 1-2ab. 2cd-3ab. 5. 6
Ðáp: Con sẽ sống
theo lòng vô tội
Xướng: Con sẽ ca
ngợi tình thương và đức công minh, lạy Chúa, con sẽ đàn hát mừng Ngài. Con sẽ
tiến thân trên đường liêm khiết, khi nào Chúa sẽ đến viếng thăm con?
Xướng: Con sẽ sống
theo lòng vô tội trong nơi cung thất của con. Con sẽ không để bày ra trước mắt
một chút chuyện chi gian trá.
Xướng: Ai bí mật
nói xấu người lân cận, con sẽ tiêu diệt thứ người này. Hạng người mắt nhìn cao
và lòng kiêu hãnh, hạng người đó con cũng không dung.
Xướng: Mắt con
theo dõi những người trung thành trong đất nước, để họ cùng được cư ngụ với
con. Ai sinh sống theo đường liêm khiết, con người đó sẽ được hầu hạ con.
Alleluia: Mt 11, 25
Alleluia, alleluia! – Lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng
Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. –
Alleluia.
(Hoặc đọc: Alleluia,
alleluia. Vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng
thăm dân Người.- Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 11-17
“Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và
đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người
ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám
đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo
bà rằng: “Ðừng khóc nữa”. Ðoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những
người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi
hãy chỗi dậy”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho
mẹ nó.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Một tiên
tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người”.
Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng
lân cận.
Ðó là lời Chúa.
Chú giải về 1 Ti-mô-thê 3,1-13
Khi Phao-lô viết Thư này cho Ti-mô-thê, Hội Thánh sơ khai vẫn
đang trong quá trình phát triển các cơ cấu lãnh đạo và mục vụ mà chúng ta đã
quen thuộc ngày nay. Ngày nay, Phao-lô đưa ra lời khuyên cho các “giám mục” và
“phó tế” và đặt ra các tiêu chí để lựa chọn họ. Cơ cấu thực sự của “giám mục”,
“linh mục” và “phó tế” như chúng ta biết ngày nay vẫn chưa được hình thành. Bản
Kinh Thánh Jerusalem có một cái nhìn
tổng quan hữu ích về tình hình:
“Từ episkopos
(‘người giám chức’, ‘người
giám sát’ hoặc ‘chủ tịch’) vẫn chưa có cùng nghĩa với ‘giám mục’ và đôi khi dường
như trùng lặp với presbuteros (‘trưởng
lão’). Trong những ngày đầu, mỗi cộng đồng Ki-tô giáo được quản lý bởi một hội đồng trưởng lão (‘presbyters’, từ này có nguồn gốc từ tiếng
Anh ‘priests’), những người có uy tín
và được kính trọng trong cộng đồng. Điều này xảy ra ở cả Jerusalem và Diaspora
(các cộng đồng rải rác khắp Đông Á và phương Tây), và nó chỉ đơn giản là tiếp nối
cả thông lệ cổ xưa của Cựu Ước và thông lệ gần đây hơn của người Do Thái.”
Những episkopoi
này, những người chưa phải là ‘giám mục’ theo nghĩa hiện đại của chúng ta và được
đề cập liên quan đến diakonoi (người
hầu, người giúp việc, người phụ tá, người đại diện, người phục vụ, ‘phó tế’),
trong một số đoạn, dường như đồng nhất với các trưởng lão. Từ tiếng Hy Lạp episkopos (có lẽ được du nhập từ thế giới
ngoại giáo như một từ tương đương với một chức danh Semit) chỉ nhiệm vụ của một
viên chức hành chính, trong khi presbuteros
chỉ địa vị hoặc phẩm giá của cùng một viên chức. Các episkopoi trong đoàn trưởng lão có thể đã thay phiên nhau thực hiện
các nhiệm vụ chính thức của họ về quản lý và lãnh đạo.
Chắc chắn rằng presbuteroi
hay episkopoi của Ki-tô giáo không chỉ đơn thuần quan tâm đến
khía cạnh thực tế của việc tổ chức mọi việc: họ phải vừa giảng dạy vừa cai quản.
Họ được các Tông đồ hoặc đại diện của họ bổ nhiệm bằng cách đặt tay; quyền hạn
của họ bắt nguồn từ Chúa và mang tính đặc sủng. Từ episkopos cuối cùng đã thay thế các chức danh tương tự như proistamenos (chính thức), poimen (mục sư hoặc người chăn chiên), hegoumenos (người hướng dẫn hoặc người
lãnh đạo).
Những người đứng đầu cộng đồng địa phương này, sau này trở
thành các linh mục (presbuteroi) và
giám mục (episkopoi) của chúng ta, đã
được các diakonoi (phó tế) hỗ trợ. Việc
chuyển đổi một hội đồng địa phương do một nhóm giám mục hoặc linh mục điều hành
thành một hội đồng do một giám mục duy nhất điều hành, được đặt trên một số
linh mục (một giai đoạn đạt đến thời điểm Ignatius thành Antioch, người qua đời
vào khoảng năm 107 SCN) chắc hẳn đã trải qua một giai đoạn trung gian. Đó là
khi một giám mục duy nhất trong mỗi cộng đồng được trao cùng một quyền lực đối
với cộng đồng địa phương đó, điều mà trước đây đã được các Tông đồ hoặc đại diện
của họ như Ti-mô-thê hoặc Ti-tô thực hiện đối với nhiều cộng
đồng.
Các giám thị/trưởng lão được các cộng đồng lựa chọn cẩn thận,
và họ được đặt tay để biểu thị rằng việc bổ nhiệm họ đã được Chúa Thánh Thần
chúc phúc. Đây là khởi đầu của Bí tích Truyền chức Thánh. Bản thân Phao-lô
không phải là giám mục; ông là một Tông đồ và nhà truyền giáo. Và không chắc chắn
Ti-mô-thê có phải là giám mục hay không; công việc của ông dường như giống với
công việc của Phao-lô, một người cổ vũ và viếng thăm các cộng đồng rải rác khắp
Đông Địa Trung Hải.
Trong Thư này và trong toàn bộ Tân Ước, vẫn chưa có chỗ nào
đề cập đến “các linh mục” như chúng ta biết hiện nay. Như chúng ta đã thấy, từ
“linh mục” là một biến thể của từ Hy Lạp presbuteros
hay “trưởng lão”. Chúng ta thấy những trưởng lão này được đề cập đến với tư
cách là những người lãnh đạo cộng đồng của họ và thậm chí chủ trì việc cử hành
Bí tích Thánh Thể. Sẽ không hoàn toàn chính xác nếu gọi họ là “giáo dân” để
phân biệt với “giáo sĩ”, bởi vì trong Giáo hội vào thời điểm này, cả hai thuật
ngữ này đều không được sử dụng. Sự phân biệt giữa “giáo sĩ” và “giáo dân” đơn
giản là không tồn tại.
Tuy nhiên, có một loại tư tế khác được biểu thị bằng từ tiếng
Hy Lạp hiereus, từ đó xuất phát từ từ
‘hier-archy’ (nghĩa là sự cai trị của
các tư tế). Đây là một từ được dùng để chỉ các tư tế đền thờ, dù là Đền thờ Do
Thái ở Jerusalem hay hàng ngàn đền thờ rải rác khắp thế giới Hy Lạp và La Mã.
Ban đầu, Giáo hội không có loại tư tế này, và cũng không muốn có. Và lý do rất
rõ ràng.
Đối với những người Kitô hữu đầu tiên, chỉ có một Tư tế theo
nghĩa này, đó chính là Chúa Giêsu Kitô. Ngài vừa là Tư tế (hiereus chứ không phải presbuteros)
vừa là Nạn nhân của hy lễ được thực hiện trên thập giá, một hy lễ có giá trị vô
hạn, thay thế tất cả các hy lễ khác trước và sau, một hy lễ không bao giờ cần
phải lặp lại nữa. Tất cả điều này được trình bày một cách tuyệt đẹp trong Thư gửi
tín hữu Do Thái (xem Dt 5,1-10).
Việc cử hành Thánh Thể của chúng ta là sự biểu trưng cho hy
lễ độc nhất trên thập giá, được báo trước một cách bí tích trong Bữa Tiệc Ly.
Người chủ trì ngày nay được gọi là "linh mục", trong tiếng Latinh là sacerdos, tương đương với hiereus. Nhưng chính giám mục hiện nay mới
được coi là người có đầy đủ chức tư tế. Những phát triển này đã diễn ra trong
Giáo hội qua nhiều thế kỷ.
Trong bài đọc hôm nay, Phao-lô đã phác họa chi tiết tính
cách của Ti-mô-thê về những gì giám mục chủ trì và phó tế nên có. Nhiều, nhưng
không phải tất cả, các yêu cầu vẫn còn giá trị cho đến ngày nay.
Về "giám mục" hay trưởng lão chủ trì, Phao-lô nói
rằng mong muốn đảm nhận vai trò này là một điều cao quý và đó là lý do tại sao
ông (luôn là một người đàn ông) phải có phẩm chất hoàn hảo. Sau đó, ông liệt kê
những phẩm chất mong muốn, trong đó, trước hết và quan trọng nhất là:
...một giám mục phải
là người không chỗ trách được, chỉ kết hôn một lần...
Điều này nhằm ngăn chặn mọi hành vi vi phạm luật hôn nhân của
Đức Chúa Trời, dù là thông qua chế độ đa thê hay sự không chung thủy trong hôn
nhân. Vì theo định nghĩa, các giám mục được chọn từ những người đàn ông lớn tuổi
trong cộng đồng, nên Phao-lô cho rằng họ đã kết hôn và có con. Tuy nhiên, một người
đàn ông chưa kết hôn đủ điều kiện không nhất thiết bị cấm. Cũng khó có khả năng
tiêu chuẩn này cấm một giám mục tái hôn nếu vợ ông qua đời. Ý nghĩa khả dĩ nhất
chỉ đơn giản là một cuộc sống hôn nhân một vợ một chồng chung thủy phải được
duy trì.
Người được chọn cũng phải:
...tiết độ, tự chủ, đứng
đắn, hiếu khách, có khả năng dạy dỗ, không nghiện rượu, không hung bạo nhưng hiền
lành, không hay cãi vã, và không ham tiền bạc.
Người ấy cũng phải:
...quản lý tốt gia
đình mình, giữ cho con cái mình vâng phục và tôn trọng trong mọi việc, vì nếu
ai không biết quản lý gia đình mình, thì làm sao người ấy có thể chăm sóc Hội
thánh của Đức Chúa Trời?
Hơn nữa, vị giám mục
tương lai:
…không được là người mới
cải đạo, nếu không sẽ tự cao tự đại và sa vào vòng tội lỗi của ma quỷ.
Và cuối cùng:
…người ấy phải được
người ngoài đánh giá tốt, để không bị sỉ nhục và sa vào cạm bẫy của ma quỷ.
Đây là một danh sách những phẩm chất khá khắt khe, ngay cả
theo tiêu chuẩn ngày nay, và nhiều giám mục và linh mục có thể thấy khó đáp ứng.
Tiếp theo là danh sách các phẩm chất của một ‘phó tế’ (diakonos). Từ ‘phó tế’ dùng để chỉ người
phục vụ cộng đồng và nhìn chung được xem ở cấp độ thấp hơn presbuteros (linh mục, trưởng lão) hoặc episkopoi (giám mục). Quyền hành và chức vụ trong cộng đồng luôn được
xem xét theo hướng phục vụ hơn là kiểm soát. Chính Chúa Giê-su đã phán rằng
Ngài đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ (Mác-cô 10,45). ‘Mục sư/chức vụ’, bắt nguồn từ
tiếng Latinh minister/ministerium có
nghĩa là người phục vụ và tương đương với từ tiếng Hy Lạp diakonos/diakonia.
Những người được chọn trong Công vụ Tông đồ 6,1-6 có lẽ không chỉ là những chấp
sự đầu tiên được nhắc đến trong Tân Ước, mà còn là những người đầu tiên được bổ
nhiệm trong Hội Thánh. Nhìn chung, chức vụ của họ nhằm mục đích giải phóng các
lãnh đạo để họ có thể toàn tâm toàn ý cầu nguyện và phục vụ lời Chúa (xem Công
vụ Tông đồ 6,2,4).
Là một người có trách nhiệm trong cộng đồng, chấp sự (diakonos) cũng phải đáp ứng một số tiêu
chuẩn nhất định. Phao-lô nói rằng họ:
…phải nghiêm trang,
không hai lưỡi, không nghiện rượu, không ham tiền; phải giữ vững mầu nhiệm đức
tin với lương tâm trong sạch. Trước hết, họ phải được thử thách; sau đó, nếu chứng
tỏ mình không có gì đáng trách, thì mới được làm chấp sự.
Phụ nữ cũng được nhắc đến ở đây, nhưng không rõ Phao-lô đang
nói đến các nữ chấp sự, như một số người vẫn nghĩ, hay chỉ nói về vợ của chấp sự.
Trong Thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô viết:
Tôi xin giới thiệu với
anh em chị Phê-bê, chị em chúng ta, là một phó tế của Hội Thánh Ken-Khơ-rê…
(Rm 16:1)
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tranh cãi về địa vị chính xác của
chị ấy.
Dù sao đi nữa, những người phụ nữ này, dù là nữ phó tế hay vợ
của phó tế, phải:
…nghiêm túc, không nói
xấu, nhưng tiết độ, trung tín trong mọi sự.
Trở lại với các phó tế, Thánh Phaolô nói rằng, giống như các
‘giám mục’, họ phải:
…chỉ kết hôn một lần,
và hãy quản lý con cái và gia đình cho tốt…
Cuối cùng, Thánh Phaolô nói,
…những ai phục vụ tốt
trong vai trò phó tế sẽ có được uy tín tốt và sự dạn dĩ lớn lao trong đức tin
nơi Chúa Giê-su Ki-tô.
Trong thời gian gần đây, và đặc biệt là kể từ Công đồng
Vatican II, khái niệm về thừa tác vụ đã được mở rộng trong Giáo hội chúng ta.
Trước đây, khái niệm này chủ yếu chỉ giới hạn ở giám mục và linh mục. Giờ đây,
chức phó tế đã được mở rộng và chắc chắn cũng bao gồm cả các phó tế đã kết hôn.
Và dường như không có bất kỳ sự phản đối nội tại nào về việc tại sao phụ nữ
không thể làm phó tế, nhưng một số người buồn bã coi đây là bước cuối cùng dẫn
đến việc phụ nữ trở thành linh mục.
Ngoài ra, các chức vụ khác đã được giới thiệu ở cấp độ phi
giáo sĩ, chẳng hạn như người đọc Kinh Thánh (người đọc sách) và thừa tác viên
Thánh Thể. Thánh Phaolô nói về một loạt các chức vụ mà qua đó mọi người có thể
tích cực đóng góp vào đời sống và công việc của cộng đồng, và tầm nhìn này đang
được khôi phục.
Mỗi Kitô hữu và mỗi giáo dân nên tự hỏi làm thế nào họ có thể
tích cực và xây dựng đóng góp vào việc phục vụ cộng đồng hoặc giáo xứ của mình.
Đây là điều mang lại sức sống cho một giáo xứ và thu hút mọi người đến với nó.
Và chúng ta cần cầu nguyện và nỗ lực tìm kiếm những giải pháp sáng suốt và thiết
thực cho tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng lãnh đạo mục vụ ở rất nhiều nơi
trong Giáo hội ngày nay.
Chú giải về Luca 7,11-17
Câu chuyện này chỉ được tìm thấy trong Phúc Âm Luca. Đây là
một trong ba câu chuyện duy nhất trong Phúc Âm mô tả Chúa Giêsu làm cho người
chết sống lại. Câu chuyện ấn tượng nhất là câu chuyện về La-da-rô được kể trong
Phúc Âm Gioan. Ngoài ra còn có câu chuyện về con gái của vị trưởng hội đường Do
Thái (Luca 6,40-56; Mác-cô
5,21-43; Mt 9,18-26), mặc dù không chắc chắn liệu cô ấy có thực sự chết hay
không. Cô ấy có thể đang hôn mê hoặc mất trí.
Theo suy nghĩ của thời đó, khung cảnh hôm nay đặc biệt đáng
buồn. Một người phụ nữ đã mất chồng, giờ đây lại mất đi đứa con trai duy nhất -
nguồn sống duy nhất của bà. Bà đang trên đường đi chôn cất con trai. Số phận của
những góa phụ thời đó—thường là những phụ nữ tương đối trẻ—đặc biệt khó khăn
trong một xã hội mà người phụ nữ đã kết hôn không còn là trách nhiệm của gia
đình mình, và sau khi chồng con qua đời, họ cũng không còn là trách nhiệm của
gia đình chồng nữa. Họ gần như bị bỏ mặc tự xoay xở trong một xã hội mà phúc lợi
xã hội dưới bất kỳ hình thức nào cũng không được biết đến.
Chính Chúa Giê-su cũng vô cùng xúc động trước hoàn cảnh của
bà. Tại thời điểm này, lần đầu tiên, Lu-ca gọi Chúa Giê-su là “Chúa”, một danh
hiệu dành riêng cho chính Thiên Chúa. Ngài đến gần chiếc cáng (không phải là
quan tài như chúng ta biết) đang khiêng người chết và chạm vào nó, khiến những
người khiêng dừng lại. Sau đó, Ngài phán:
Hỡi người trẻ tuổi, Ta
bảo ngươi, hãy trỗi dậy!
Cũng như trong những câu chuyện tương tự khác, từ được dùng
để chỉ “trỗi dậy” cũng giống như từ được dùng khi mô tả sự phục sinh của Chúa
Giê-su, vì Ngài:
…đã đến để họ được sống
và sống dồi dào. (Gioan 10,10)
Phản ứng của những người xung quanh là sự kinh ngạc và ngưỡng
mộ:
Mọi người đều sợ hãi, và họ tôn vinh Thiên Chúa rằng:
"Một vị tiên tri vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta!" và "Thiên
Chúa đã viếng thăm dân Người!"
Họ không hề nghi ngờ về nguồn gốc của những gì họ đã thấy xảy
ra; đó là công trình của Thiên Chúa. Không có gì ngạc nhiên khi câu chuyện lan
truyền như cháy rừng khắp Judea và xa hơn nữa. Câu chuyện này mở đường cho lời
đáp trả của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ của Gioan Tẩy Giả sau đó một chút
(không có trong các bài đọc Thánh Lễ của chúng ta trong thời gian này).
Câu chuyện này sẽ giúp chúng ta nhìn lại hoàn cảnh của chính
mình và trước hết, thấy được chúng ta thực sự đang sống như thế nào. Chúng ta
hãy nhìn xung quanh và xem có bao nhiêu người cần được nâng đỡ và giúp đỡ để
tìm thấy cuộc sống mới. Biết đâu chúng ta có thể làm điều gì đó cho họ.
https://livingspace.sacredspace.ie/o1243g/
Suy niệm: Ý Nghĩa Của Cuộc Sống
Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng
kiến nhiều cái chết cũng như tham dự nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm cho kẻ
chết sống lại được Tin Mừng ghi lại không quá ba lần: một em bé gái con của vị
kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của Marta và Maria; người thanh niên con của
bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ là hồi sinh, chứ không phải là phục
sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của những người này chỉ kéo dài được
thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng trở về với bụi đất.
Chúa Giêsu đã không đến để làm cho con người được trường
sinh bất tử ở cõi đời này, đúng hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu.
Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải
kinh qua cái chết. Chết vốn là thành phần của cuộc sống và là một trong những
chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu đến nhắc nhở cho con người. Mang lấy thân
phận con người là chấp nhận đi vào cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng không thoát
khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết:
"Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá". Ðón nhận cái
chết và đi vào cõi chết như thế nào để cuộc sống có ý nghĩa, đó là điều Chúa
Giêsu muốn bày tỏ cho con người khi đi vào cái chết.
Một trong những cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối bỏ ý
nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự sống của mình. Những cái chết như thế là
lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc sống không còn ý nghĩa và như vậy
không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người phát ngôn của cả thế hệ không tìm
thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác phẩm "Buồn Nôn":
"Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống là để bảo tồn sự quí giá của
chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối không có lý do gì để sống cả".
Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái chết,
Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống sung mãn, Ngài đã
chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống.
Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho chúng ta
thấy điểm đến và vinh quang đích thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã vâng phục
cho đến chết. Vâng phục của Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó thác, trong
khiêm tốn và yêu thương; đó là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và làm cho
cuộc sống trở thành đáng sống.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta niềm tin,
can đảm và vui tươi để biết đón nhận và sống từng giây phút hiện tại một cách
sung mãn, để tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét