24/04/2016
Chúa Nhật tuần 5 Phục Sinh năm C
(phần I)
Bài Ðọc
I: Cv 14, 20b-26
"Các
ngài thuật lại những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô và
Barnaba trở lại Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng cố tinh thần các môn đồ,
khuyên bảo họ giữ vững đức tin mà rằng: "Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi
gian truân mới được vào nước Thiên Chúa". Nơi mỗi hội thánh, các ngài đặt
những vị niên trưởng, rồi ăn chay cầu nguyện, trao phó họ cho Chúa là Ðấng họ
tin theo.
Sau đó, các ngài sang Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin.
Sau đó, các ngài sang Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 10-11. 12-13ab
Ðáp: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa đến muôn đời (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Chúa nhân ái và từ bi,
chậm bất bình và giàu ân sủng.
Chúa hảo tâm với hết mọi loài,
và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.
2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa,
và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài.
Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa,
và hãy đề cao quyền năng của Ngài.
3) Ðể con cái loài người nhận biết
quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa.
Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời,
chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ.
1) Chúa nhân ái và từ bi,
chậm bất bình và giàu ân sủng.
Chúa hảo tâm với hết mọi loài,
và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.
2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa,
và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài.
Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa,
và hãy đề cao quyền năng của Ngài.
3) Ðể con cái loài người nhận biết
quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa.
Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời,
chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ.
Bài Ðọc II: Kh 21, 1-5a
"Thiên
Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ".
Trích sách Khải Huyền của Thánh
Gioan.
Tôi là Gioan đã thấy trời mới và
đất mới. Vì trời cũ và đất cũ đã qua đi, và biển cũng không còn nữa. Và tôi là
Gioan đã thấy thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ nơi Thiên Chúa: tề
chỉnh như tân nương được trang điểm cho tân lang của mình. Và tôi nghe có tiếng
lớn tự ngai vàng phán ra: "Ðây là Thiên Chúa ở với loài người, và chính
Thiên Chúa sẽ ở với họ. Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ. Sự chết chóc sẽ
không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ: bởi
vì các việc cũ đã qua đi". Và Ðấng ngự trên ngai vàng đã phán rằng:
"Này đây, Ta đổi mới mọi sự".
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 13, 34
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 13, 31-33a. 34-35
"Thầy
ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc,
Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được
vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại
cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh
hiển.
"Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau".
"Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm : Một Lệnh Mới:
"các con hãy yêu thương nhau"
Khung cảnh tiệc ly của bài Tin Mừng hôm
nay cho chúng ta có cảm tưởng phụng vụ muốn chuẩn bị lễ Chúa lên trời sắp tới.
Và bài sách Công vụ được chọn để ăn ý với bài Tin Mừng cũng nói về việc các
tông đồ từ giã các giáo đoàn. Nhưng trong Kitô giáo, tin tưởng và bình an tràn
ngập cả những trường hợp như thế. Những cuộc ra đi kể trong các bài Kinh Thánh
kia còn hứa hẹn và bảo đảm một sự sống mới trong tương lai mà bài sách Khải Huyền
hôm nay đã mở ra cho chúng ta thấy. Nếu được phép trình bày lại một cách đơn giản,
giáo huấn của Lời Chúa trong thánh lễ này, chúng ta có thể nói:
- Khi ra đi, Chúa đã để lại một lệnh mới.
- Các tông đồ đã thi hành.
- Một viễn tưởng về tương lai đang mở ra
trước mắt mọi người.
Tức là chúng ta sẽ lần lượt suy niệm bài
Tin Mừng rồi bài sách Công vụ và sau cùng đến bài Khải Huyền.
1. Một Lệnh Mới
Bài Tin Mừng ngắn, nhưng không dễ. Nó có
hai phần rõ rệt, tự nhận là lời của Chúa nói với môn đệ trong bữa tiệc ly sau
khi Giuđa đã bỏ bàn ăn ra ngoài.
Chúng ta còn nhớ hôm ấy Chúa tổ chức một
bữa từ giã các môn đệ trước khi Người ra đi chịu chết. Theo tác giả Gioan,
trong bữa ăn biệt ly ấy, Chúa đã rửa chân cho môn đệ; và báo cho họ biết một
người trong bọn họ sẽ nộp Người. Lập tức họ xôn xao bàn tán: ai là kẻ phản phúc
ấy? Và người nào cũng hỏi Thầy: "Có phải con không?" Giuđa Iscariốt
cũng hỏi. Người trả lời: "Phải!" Nhưng không môn đệ nào nghe thấy.
Sau đó, Người bảo y: "định làm gì thì làm đi". Thế là y đứng dậy, ra
khỏi bàn ăn. Tác giả Gioan viết rằng: Bấy giờ trời tối. Trời tối ở bên ngoài
phòng ăn và ở trong lòng Giuđa đang lao mình đi trong bóng tối... chứ ở trong
phòng tiệc ánh đèn vẫn làm sáng các khuôn mặt. Và chính lúc ấy, theo lời Gioan
kể, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Bây giờ Con Người đã được tôn vinh...
Ðọc vội, chúng ta có thể nghĩ Người nói
như vậy để diễn tả một sự nhẹ nhõm của tâm hồn sau khi tên phản bội ra đi khuất
mắt. Nhưng đọc lại chúng ta không thấy như thế. Chúng ta cũng có thể nghĩ, với
những lời kia Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ về vinh quang thánh giá mà Người
sắp được vì tên phản phúc đã đi làm việc của y. Người có thể thấy trước vinh
quang ấy đã đến rồi, vì thật ra đối với Người mầu nhiệm thánh giá là một sự đã
rồi và Người đã chấp nhận hoàn toàn khi khai mạc "giờ" của Người đã đến
với bàn tiệc hôm nay. Nhưng tại sao sau đó Người lại bảo vinh quang ấy sẽ đến
và Chúa Cha sẽ tôn vinh Người? Khó khăn này đã khiến các học giả đưa ra một giả
thiết mà chắc chúng ta phải coi là thật.
Giả thiết này nghĩ rằng những lời Chúa
Giêsu vừa tuyên bố phải được nghe sau phục sinh. Nói đúng hơn đây là những ý tưởng
có sau phục sinh, nhưng đã được đem đặt lên trước. Nó không ăn ý lắm với văn mạch.
Và người ta phải kết luận, nó đã được nhét vào sau. Người làm công việc này có
thể biện minh rằng: đã nói đến việc Giuđa đi nộp Chúa thì phải gợi ngay đến ý
tưởng vinh quang để ở đâu có mầu nhiệm tử nạn cũng có mầu nhiệm phục sinh. Chỉ
có điều người ấy đã khiêm nhường đến nỗi không dám tạo ra một câu văn mới, mà
chỉ dám lấy lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, một câu văn phụng vụ ca tụng
Chúa Kitô, đem đặt vào chỗ này.
Nói vắn tắt hơn, những câu đầu bài Tin Mừng
hôm nay không phải là những câu Chúa nói trong buổi tiệc ly. Một người đã đem
những lời đó vào chỗ này để nói lên niềm tin vào Chúa phục sinh khi thấy Giuđa
bỏ bàn ăn ra đi với ý định nộp Người. Và chính vì nội dung phục sinh của những
lời này mà phung vụ hôm nay trích đọc cho chúng ta.
Ðức tin của Hội Thánh tuyên xưng ở đây rằng
việc Ðức Giêsu chịu nộp, chịu chết đã tôn vinh Thiên Chúa, để thiên hạ thấy
Chúa Cha yêu thương loài người đến nỗi đã thí ban Con Một yêu quí của Người để
cứu chuộc chúng ta; cũng như để thiên hạ thấy quyền năng của Thiên Chúa sẽ phục
sinh Ðức Giêsu Kitô.
Và việc này Thiên Chúa đã làm rồi. Ðức
Giêsu đã chết và sống lại. Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi mầu nhiệm tử nạn phục
sinh của Ðức Kitô; đồng thời chính Thiên Chúa cũng đã tôn vinh Ðức Giêsu Kitô
trong chính mình Người khi chấp nhận sự vâng phục của Ngài mà đưa Ngài lên trên
mọi danh hiệu dù ở trên trời hay ở dưới đất và trong gầm biển. Chính mầu nhiệm
tử nạn phục sinh đã tôn vinh Thiên Chúa cũng như đã tôn vinh Ðức Giêsu Kitô.
Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ðức Giêsu Kitô và Ðức Giêsu Kitô đã được tôn
vinh trong Thiên Chúa.
Ðó là đức tin của Hội Thánh về mầu nhiệm
Phục Sinh. Nhưng chưa hết, vì mới khởi đầu. Vinh quang phục sinh sẽ chỉ tỏ hiện
hoàn toàn khi Chúa Giêsu trở lại. Và vì thế bài Tin Mừng hôm nay viết: Ngay đây
Thiên Chúa sẽ tôn vinh Ngài. Chỉ bấy giờ khi Ngài trở lại trong vinh quang, tất
cả vinh quang mà Thiên Chúa ban cho Ngài mới tỏ hiện hết vì bấy giờ sẽ có đầy đủ
tạo vật được cứu chuộc để bày tỏ ảnh hưởng mầu nhiệm Chúa Kitô tử nạn phục sinh
bao quát, rộng rãi và sâu xa chừng nào. Nhưng từ nay đến ngày ấy, lịch sử luôn
có thể cảm nghiệm ngay đây Thiên Chúa sẽ tôn vinh Ngài, vì Danh Ngài mỗi ngày
được biết tới và được ca tụng. Nhờ đâu và thế nào, thì chúng ta có thể cứ đọc
tiếp bài Tin Mừng.
Những lời này đúng là những Lời Chúa nói
với bàn tiệc ly, nếu chúng ta căn cứ vào văn mạch. Hôm ấy, Chúa đã rửa chân cho
môn đệ. Người con lập phép Thánh Thể. Người tâm sự với môn đệ về tình yêu
thương của Người. Bầu khí thật thuận lợi để Người ban "một điều răn mới"
vì chúng ta đừng quên Người mới ký một giao ước mới trong chén máu của Người.
Giao ước cũ đã có nhiều giới răn. Tất cả đã qua rồi. Bây giờ khởi sự chế độ của
giao ước mới, với chỉ một điều răn mà thôi, là "các ngươi hãy yêu mến
nhau".
Làm sao có thể gọi là điều răn mới được?
Lề luật đã dạy và vẫn dạy như thế. Có thể nói nhiều bậc thánh hiền trong các
dân tộc đã chủ trương tứ hải giai huynh đệ. Làm sao Chúa Giêsu có thể bảo luật
anh em yêu thương nhau là điều răn mới và là điều răn của Người.
Có người giải nghĩa rằng: Ðiều răn này mới
vì đối tượng của nó là mọi người, kể cả kẻ thù. Khá Lắm! Vì thật sự đây là một
nét mới và độc đáo. Tuy nhiên lối giải thích ấy cũng chưa đáng tin hoàn toàn. Tự
bản chất, nó chưa có khả năng thuyết phục tức khắc. Ðã có người khuyên đọc tiếp
Lời Chúa phán hôm ấy, khi Người ban điều răn mới, để thấy tính cách mới mẻ được
nêu ngay trong lời nói sau đây: "Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi
cũng hãy yêu mến nhau".
Chắc chắn rồi, Thiên Chúa, và cụ thể là
Ðức Giêsu có lối yêu đặc biệt, như không có "Chúa" nào yêu như thế và
không có ai đã sống ở trần gian này yêu như Ðức Giêsu Kitô. Nhưng làm sao loài
người chúng ta có thẻ bắt chước được những kiểu cách ấy?
Cuối cùng có lẽ chúng ta cứ đọc hết Lời
Chúa dạy hôm nay; biết đâu chân lý lại sẽ không sáng lên nơi những lời cuối
cùng. Chúa bảo môn đệ: "Chính nơi đây điều này mọi người sẽ biết các ngươi
là môn đồ Ta, ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến nhau".
Dường như Chúa đã hứa ban cho tình yêu của
môn đệ một dấu hiệu đặc biệt: ấy là khi họ yêu mến nhau thì người ta biết họ là
môn đệ của Người. Và nếu vậy, chúng ta có thể nói như sau về điều răn mới của
Chúa ban hôm nay. Người đang nói với môn đệ trong bàn tiệc ly, hình ảnh của Nước
trời, và Người bảo họ hãy yêu mến nhau. Nhiều lúc khác, Người đã dạy người ta
phải yêu thương mọi người, kể cả thù địch.
Ðó là lòng bác ái phổ cập. Ở đây có lẽ
Người không nói đến tình thương phổ quát đó. Người nói đến tình yêu mến giữa
các môn đệ, giữa những môn đệ, tín hữu của giao ước mới trong máu Người. Họ phải
yêu mến nhau bằng một tình yêu mới, tình yêu mà Người đã biểu lộ ra cho họ khi ở
với họ. Họ đã thấy, họ đã kinh nghiệm, họ vừa chứng kiến tình yêu ấy "đi đến
cùng" là bỏ áo xuống, cầm thau nước đi rửa chân cho họ, tức là bỏ mạng sống
mình để họ được sạch và đồng bàn Nước trời với chính Người. Người bảo họ phải
yêu mến nhau như vậy, và như vậy là mới; và như vậy thì người ta biết họ là môn
đồ của Người. Thế nên Gioan tác giả của bài Tin Mừng hôm nay sẽ lần viết trong
thư của người để giải thích về điều răn mới. Người nói: Nơi điều này ta biết được
lòng mến: là Ðấng ấy đã thí mạng mình vì ta, và ta, ta cũng phải thí mạng mình
vì anh em (1Ga 3,16).
Lòng mến này nhất định mới. Nó không dễ,
nên đừng lạm dụng và "đừng yêu mến bằng lời nói, bằng đầu lưỡi, nhưng là bằng
việc làm thật sự" (3,18) mà việc làm ở đây không dễ...
Tuy nhiên không ai được ngã lòng. Chúa
ra lệnh thì Người ban khả năng, Người đã ban khả năng dồi dào khi tuôn đổ Thánh
Thần. Từ ngày đó lòng mến của điều răn mới bốc cháy mọi nơi. Hôm nay chúng ta
có thể nhìn thấy nó trong con người các tông đồ của bài sách Công vụ.
2. Thi Hành Lệnh
Phaolô và Barnaba đi giảng tin mừng. Các
ông trẩy đi từ Antiôkia là nơi Thánh Thần đã dạy Hội Thánh phải để hai ông đi
làm công việc của Chúa. Các ông đi hết thành này đến thành khác, từ đảo này
sang đảo kia; lao nhọc, khó khăn, lo lắng, thử thách, xỉ nhục, tù đày, các ông
đã chịu và chịu vui vẻ vì danh Chúa và vì yêu mến các linh hồn. Thật sự các ông
đã yêu dân ngoại như Chúa đã yêu các ông. Các ông đã thi hành điều răn mới. Và
người ta đã nhìn nhận rõ các ông là môn đồ của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã yêu mến
môn đồ cho đến cùng nên đã phó nộp mình vì họ.
Không thể bảo đời các tông đồ là sung sướng
được. Thế mà vừa chân ướt chân ráo lên khỏi thuyền bè tròng trành sóng gió, các
ông đã để giờ khích lệ tâm hồn người ta và khuyên nhủ họ kiên vững trong đức tin.
Có thể nói, các ông đối với người ta như Chúa Giêsu đối với các ông ở bàn tiệc
ly; Chúa đã quên sự chết của mình để khuyên nhủ môn đồ kiên vững. Các ông cũng
đã quên mình và số phận "khổ sở" của mình để khích lệ tâm hồn các môn
đồ. "Vì chưng chúng ta phải trải qua nhiều gian khổ mới vào được Nước
Thiên Chúa". Các ông nói như vậy không những theo giáo lý của Chúa đã dạy
phải đi vào con đường hẹp của mầu nhiệm thánh giá, mà còn theo kinh nghiệm bản
thân và hiểu biết của mình. Rồi đây sói sẽ xông vào đàn chiên.
Viễn tượng ấy khiến các tông đồ đặt cho
mỗi Hội Thánh một hàng niên trưởng và phó giao họ cho Chúa, Ðấng họ đã tin. Chắc
chắn các ngài cũng muốn rằng bậc niên trưởng này sẽ cư xử với anh em như Chúa
đã ăn ở với các môn đồ. Họ cũng chẳng phải thi hành điều răn mới và cũng là điều
răn duy nhất của Chúa là họ hãy yêu mến lẫn nhau.
Phải chăng chúng tôi đã không vô tình
trình bày khiến người ta có thể nghĩ điều răn mới của Chúa chỉ thi hành được
trong đời sống tông đồ và nơi những người đứng đầu trong mỗi Hội Thánh? Ít nhất
hết thảy chúng ta đều thấy các chức vụ trong Hội Thánh đều để thi hành bác ái,
và mọi ơn gọi tông đồ đều lãnh trách nhiệm chứng tỏ lòng yêu mến của Chúa Kitô.
Nhưng hết mọi tín hữu không phải là tông đồ sao? Các tông đồ nơi bàn tiệc ly đã
là nền tảng của Hội Thánh mới sẽ được xây dựng lên sau ngày Chúa sống lại.
Chúng ta hết thảy đều là những viên đá sống
đứng trên nền tảng các tông đồ. Các ngài đã nghe và nhận điều răn mới cho tất cả
chúng ta. Và mọi người chúng ta phải thi hành điều răn mới đó. Không ai trong Hội
Thánh được dửng dưng với phần rỗi của anh em và bao lâu người ta chưa hy sinh
gì cho phần rỗi ấy, người ta chưa thi hành điều răn mới của Chúa và chưa chứng
tỏ là môn đệ của Người.
Và điều này bổ túc cho những điều chúng
ta đã nói trong Chúa Nhật trước về ơn gọi tông đồ. Và nếu tuần trước chúng ta
đã thấy Chúa đặt Phêrô ở chức vụ chăn chiên, thì hôm nay thấy thánh Phaolô đặt
hàng niên trưởng ở trong mỗi Hội Thánh, chúng ta phải suy nghĩ về phận sự của mỗi
người phải hy sinh cho phần rỗi của anh em để thi hành điều răn mới của Chúa.
Ðược như vậy chúng ta mới hy vọng được thấy như Gioan trong bài sách Khải huyền
hôm nay.
3. Giêrusalem Mới
Gioan thấy vũ trụ của thời cánh chung.
Trời cũ, đất cũ đã qua. Ðặc biệt, biển, nơi ấp ủ những sức mạnh độc dữ, không
còn nữa. Thay vào cảnh cũ, đã có một trời mới và một đất mới. Và một Giêrusalem
mới đã tự trời xuống, chỉnh tề như một tân nương. Ðó là dân mới của Thiên Chúa,
và là Hội Thánh chúng ta. Tất cả đã sẵn sàng chờ đón đức lang quân. Và Người đã
đến. Người là Thiên Chúa ở cùng họ. Người sẽ lau sạch nước mắt và khử trừ sự chết...
Tất cả những điều cũ đều đã qua; và Chúa phán: Này Ta làm mới mọi sự.
Chắc chắn đây là những điều viết về Nước
Trời sau này, nhưng lại căn cứ vào thực tại đã có và đang có. Ðức tin cho chúng
ta biết, từ ngày Ðức Giêsu được tôn vinh trong mầu nhiệm chết và sống lại, cũ
đã qua và mới đã đến. Giêrusalem cũ đã nhường chỗ cho Giêrusalem mới là Hội
Thánh. Và Chúa Giêsu đã hứa ở cùng Hội Thánh hằng ngày cho đến tận thế, nên Người
là Thiên Chúa ở cùng Hội Thánh và là Ðức Lang Quân của Hội Thánh. Và Thiên Chúa
cũng đang làm mới mọi sự trong Hội Thánh, không phải ở bình diện nào sâu xa và
rõ ràng hơn bình diện bác ái.
Thật vậy, người ta có thể thấy Hội Thánh
là thế này hay thế kia, tùy theo thời đại và quan điểm của mỗi người. Nhưng
luôn luôn và mãi mãi, cơ bản Hội Thánh là cộng đoàn có lòng yêu mến lẫn nhau,
không phải bất cứ tình yêu mến nào nhưng là tình yêu mến làm cho mọi người thấy
Hội Thánh là cộng đoàn môn đệ của Chúa Kitô và thi hành điều răn mới của Người.
Những khi nào lòng yêu mến đó càng nổi, Hội Thánh càng là tân nương trang sức
chờ đón đức lang quân...
Những điều này thật đáng suy nghĩ và đem
ra thực hành. Có thể nói không lúc nào dễ thi hành hơn lúc này, khi cử hành
thánh lễ. Ðây là khung cảnh bàn tiệc ly của Chúa Giêsu ngày xưa, đây là Hội
Thánh của các tông đồ, đây là Giêrusalem mới. Chúa Giêsu sẽ tỏ lòng yêu mến môn
đệ Người cho đến cùng trong mầu nhiệm ban thịt và máu rửa sạch linh hồn chúng
ta. Người trao ban giới răn mới của Người. Người bảo chúng ta đây hãy yêu mến
nhau như Người yêu mến. Chúng ta có nhìn vào nhau để nhận thấy nghĩa vụ phải lo
cho phần rỗi của nhau thì mới là bác ái với nhau. Và một cái nhìn như vậy sẽ
lôi theo bao nghĩa vụ, những nghĩa vụ có thể làm được và phải làm để cho người
ta thấy chúng ta có lòng yêu mến của Chúa. Một Giêrusalem mới sẽ ở giữa chúng
ta. Giêrusalem mới đó sẽ chiếu ánh sáng cứu độ của Chúa để dần dần cũ qua đi, mới
đã đến, trời cũ đất cũ không còn, và một trời mới đất mới đã có đó để tôn vinh
thêm cho Chúa Giêsu phục sinh, đợi ngày Người sẽ được Thiên Chúa tôn vinh nữa
trong vinh quang bất diệt.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời
Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn
Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 5 Phục Sinh, Năm C
Bài đọc: Acts 14:20b-26; Rev 21:1-5a; Jn 13:31-33a, 34-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hiện tại là kết quả của quá khứ
và dọn đường cho tương lai.
Giáo Hội được thành hình không
phải là chuyện tự nhiên dễ dàng; nhưng là do biết bao nhiêu công khó huấn luyện
các tông đồ của Chúa Giêsu, sự hăng say rao giảng không biết mỏi mệt của các
tông đồ và những người kế vị, và sự bảo vệ của biết bao các nhà lãnh đạo gìn giữ
các tín hữu khỏi mọi lạc thuyết và tấn công của quỉ thần cũng như thế gian qua
bao thời đại. Gian khổ không làm cho Giáo Hội yếu đi; nhưng càng làm cho Giáo Hội
kiên trì hơn và chứng tỏ niềm tin của Giáo Hội dành cho Đức Kitô.
Các bài đọc hôm nay nêu bật giá
trị của đau khổ trong việc đào luyện cá nhân cũng như Giáo Hội. Trong bài đọc
I, Phaolô và Barnabas cho các tín hữu tân tòng biết sự thật: Họ phải trải qua
nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa, và chính các ông cũng phải trải
qua biết bao gian khổ để thành lập và nuôi dưỡng các cộng đoàn tiên khởi. Trong
bài đọc II, tác giả Sách Khải Huyền nuôi dưỡng niềm hy vọng của các tín hữu để
họ trung thành giữ vững đức tin bằng cách cho các tín hữu thấy trước những gì sẽ
được: họ sẽ được ở với Thiên Chúa suốt đời, họ sẽ được chính Thiên Chúa cai trị,
và họ sẽ không bao giờ phải chịu những đau khổ nữa. Trong Phúc Âm theo Gioan,
giờ của Chúa Giêsu chịu treo trên Thập Giá là giờ Ngài được tôn vinh và Thiên
Chúa cũng được nơi Ngài. Trước giờ ra đi, Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ một
giới răn yêu thương cách vô vị lợi, cách hy sinh tất cả, và trung thành yêu
thương đến cùng. Người ta cứ nhìn vào cách yêu thương của các môn đệ, họ sẽ nhận
ra ai là môn đệ thực thụ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên
Chúa."
1.1/ Phaolô và Barnabas hoạt động
không ngừng để xây dựng Hội Thánh.
(1) Giáo Hội cần nhiều thợ nhiệt
thành rao giảng Tin Mừng như Phaolô và Barnabas: Chỉ trong hai câu ngắn ngủi,
nhưng đã nói lên công việc rao giảng của Phaolô và Barbabas trong 4 thành phố:
Derbe, Lystra, Iconium và Antioch. Nếu hai ông không mạnh dạn chịu đựng đau khổ
bước ra ngoài lãnh thổ của Do-thái, làm sao đạo của Đức Kitô tràn sang được
Âu-châu?
(2) Hai ông không giấu các tín hữu
con đường vinh quang qua đau khổ: Các ông không lừa dối các tín hữu bằng việc hứa
hẹn theo Thiên Chúa sẽ không phải chịu đau khổ; trái lại, các ông báo trước cho
họ biết: "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên
Chúa." Các ông muốn nói: Đức tin của họ sẽ bị thử thách bằng đau khổ;
nhưng qua đau khổ, họ mới có cơ hội chứng tỏ niềm tin vào Đức Kitô và làm cho đức
tin của họ ngày càng mạnh mẽ hơn.
1.2/ Sáng kiến của Phaolô và
Barnabas trong việc xây dựng Hội Thánh.
(1) Những kỳ mục trong Hội
Thánh: Phaolô và Barnabas biết hai ông không thể ở cố định một nơi để nâng đỡ
và bảo vệ đức tin cho các tín hữu; nên “trong mỗi giáo đoàn, hai ông chỉ định
cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người
đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.” Các Kỳ-mục là những người lớn tuổi, đã có kinh
nghiệm nhiều, nên có thể đứng ra điều khiển các giáo đoàn địa phương cách trực
tiếp. Phần Phaolô và Barnabas, hai ông tiếp tục lên đường thiết lập các giáo
đoàn mới; nhưng hai ông sẽ trở lại để nâng đỡ và củng cố các giáo đoàn cũ khi
có dịp.
(2) Tất cả là ân sủng của Thiên
Chúa: Phaolô và Barnabas thú nhận việc hai ông hoàn thành sứ vụ được các tông đồ
trao phó là do ân sủng của Thiên Chúa; chứ không phải do sức riêng của hai ông.
Sau cuộc hành trình thứ nhất, hai ông vượt biển về Antioch, nơi trước đây các
ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa để lên đường truyền giáo cho
Dân Ngoại.
2/ Bài đọc II: Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ
nữa.
2.1/ Những gì là cũ sẽ biến mất,
cái mới sẽ xuất hiện.
(1) Quan niệm về “hình dạng lý
tưởng” của Hy Lạp: Theo triết gia Plato, tất cả những gì hiện hữu nơi trái đất,
đều có “hình dạng lý tưởng” nơi thế giới không thấy được. Vì thế, theo tác giả
của Sách Khải Huyền trong một thị kiến, ông thấy: “trời mới đất mới, vì trời cũ
đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là
Jerusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương
trang điểm để đón tân lang.” Người xưa rất sợ đi biển, vì họ không có địa bàn để
định hướng như chúng ta bây giờ. Khi phải đi tàu, họ thường lái song song với đất
liền. Ngoài ra, dân chúng khắp nơi đã biết sức mạnh của gió, bão, nước, những
cơn sóng thần đã tiêu diệt cả hàng trăm ngàn người. Theo thị kiến của tác giả
Sách Khải Huyền: “biển sẽ không còn nữa,”
(2) Quan niệm của Do-thái về
Jerusalem mới: Riêng về việc tái tạo Thành Jerusalem mới, chúng ta thấy bàng bạc
trong các Sách ngôn sứ như Isaiah 54:11-12, 60:10-20; Haggai 2-9; Ezekiel
48:31-35; Tobit 13:16-18. Sách Khải Huyền cũng nhiều lần nói về Jerusalem mới
trong tương lai sẽ được xây dựng toàn bằng đá quí, Con Chiên là ngọn đuốc soi
thành, thành có 12 cửa, người muôn nước sẽ kéo đến để nhìn xem Jerusalem.
2.2/ Hiệu quả của sự trung thành với
Thiên Chúa: Mục đích của tác giả khi viết
Sách Khải Huyền là để củng cố đức tin của các tín hữu trong những cơn bách hại.
Trình thuật hôm nay nêu bật 3 phần thưởng các tín hữu sẽ được nếu họ trung
thành với Thiên Chúa.
(1) Thiên Chúa sẽ ở với họ: Rồi
tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: "Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng
nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ.” Trong hành trình của con cái Israel suốt
40 năm trong sa mạc, Thiên Chúa đã ra lệnh cho ông Moses căng một chiếc Lều Hội
Ngộ, trong đó có để Hòm Bia Thiên Chúa. Mục đích là để cho dân chúng biết Thiên
Chúa luôn ở với họ. Những người chiến thắng cũng thế, họ sẽ được ở với Thiên
Chúa suốt đời.
(2) Mối liên hệ mật thiết giữa
Thiên Chúa và con người: “ Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ ở với họ
và là Thiên Chúa của họ.” Như Thiên Chúa đã hứa trong Sách Ngôn Sứ Jeremiah
31:31-34, Ngài sẽ ký kết với họ một giao ước mới. Theo giao ước này, Thiên Chúa
sẽ là Chúa của họ; còn họ sẽ là dân của Ngài. Ngài sẽ bảo vệ họ tới muôn đời.
(3) Đau khổ và nước mắt sẽ không
còn nữa: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng
còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất." Những
gì các tín hữu phải trải qua trên thế gian chỉ tạm thời: bệnh tật phần xác, đau
khổ phần hồn, chia ly cách biệt... Khi về với Thiên Chúa, Ngài sẽ cất sạch những
đau khổ bất toàn này, và họ sẽ không còn phải chịu bất cứ một thứ đau khổ gì nữa.
Điều này cũng đã được nói tới bởi ngôn sứ Isaiah 25:5-8.
3/ Phúc Âm: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
3.1/ Giờ tôn vinh trên Thánh Giá: “Khi Judah đi rồi, Đức Giêsu nói: "Giờ đây, Con Người được
tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn
vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên
Chúa sắp tôn vinh Người.”
(1) Chúa Giêsu được tôn vinh:
+ Giờ Chúa Giêsu được giương cao
trên Thập Giá là giờ Ngài được tôn vinh (Isa 52:13; Jn 12:23, 13: 1). Khi Ngài
được giương cao trên Thập Giá, Ngài sẽ lôi kéo mọi người đến với Ngài (Jn
12:32). Trên Thập Giá, Chúa Giêsu hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó, và mang ơn
cứu độ cho mọi người.
+ Khi Chúa Giêsu bị giương cao
trên Thập Giá, Thiên Chúa siêu tôn Chúa Giêsu bằng cách ban cho Ngài một danh
hiệu vượt trên mọi danh hiệu (Phi 2:11).
(2) Thiên Chúa được tôn vinh:
+ Nhờ sự vâng phục của Chúa
Giêsu, Thiên Chúa được tôn vinh: Tất cả những gì Chúa Cha đã phác họa trong Kế
hoạch Cứu Độ được thành công, nhờ sự vâng lời của Chúa Giêsu. Ngài vâng lời đến
nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên Thập Giá (Phi 2:7c).
+ Nhờ sự vâng phục của Chúa
Giêsu, con người yêu thương Thiên Chúa; thay vì chỉ biết kính phục và sợ hãi
Ngài. Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu của Chúa Cha cho con người: “Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời” (Jn 3:16). Khi nhìn lên Thập Giá, con người không chỉ
cảm thấy tình yêu của Chúa Giêsu đã hy sinh chết thay cho con người, mà còn cảm
thấy tình yêu của Chúa Cha đã hy sinh Con Một cho thế gian đóng đinh Ngài.
3.2/ Tình yêu của Chúa Giêsu dành
cho các môn đệ:
(1) Cách vô vị lợi: Khi con người
yêu thương, họ luôn trông tìm được gì nơi người họ yêu; khó lòng có thể kiếm được
một người yêu thương người khác cách vô vị lợi. Khi Chúa Giêsu yêu thương các
môn đệ, Ngài không trông mong được hưởng gì nơi các ông, nhưng hoàn toàn cho
đi.
(2) Cách hiểu biết: Khi mới gặp
hay chỉ ở với nhau vài lần, con người thường dễ che đậy tật xấu và khuyết điểm
của mình; nhưng khi đã ở với nhau lâu, mọi tật xấu và khuyết điểm bắt đầu lộ
ra. Chúa Giêsu đã biết rõ tính tốt cũng như tật xấu của các môn đệ; tuy vậy,
Ngài vẫn chấp nhận, hy sinh và yêu thương các ông.
(3) Cách trung thành đến cùng:
Con người dễ ngừng yêu thương khi đối tượng không còn đáng yêu nữa; nhất là còn
phản bội người đã yêu thương lo lắng cho mình. Chúa Giêsu yêu thương các môn đệ
đến cùng cho dẫu các ông đã phản bội Ngài. Chúa luôn đi bước trước, Ngài tìm đến
với các ông khi Ngài sống lại.
3.3/ Dấu để mọi người nhận ra một
người là môn đệ Chúa Giêsu: Chúa Giêsu trăn trối cho các
môn đệ giới răn duy nhất: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy
yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi
người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu
thương nhau.”
Dấu để mọi người nhận biết một
người là môn đệ Chúa Giêsu là yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương. Điều này
bao gồm tất cả những điều trên là yêu thương cách vô vị lợi, yêu như người đó
là, và trung thành yêu thương đến cùng cho dẫu bị phản bội.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Con đường hy sinh chấp nhận
đau khổ là con đường Chúa Cha đã chọn, Chúa Giêsu đã đi qua, và người tín hữu
phải chấp nhận mới có thể làm môn đệ của Chúa Giêsu.
- Con đường dễ dãi, tuy nhiều
người chọn để đi; nhưng chỉ dẫn tới đổ vỡ và diệt vong.
- Phần thưởng cho những người chọn
đi con đường thánh giá: họ sẽ được ở với Thiên Chúa mãi, không còn phải chịu
hành hạ bởi đau khổ, và được sống muôn đời với Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
24/04/16 CHÚA NHẬT TUẦN 5 PS – C
Ga 13,31-33a.34-35
Ga 13,31-33a.34-35
Suy
niệm: Chúa Giê-su sắp
bước vào cuộc khổ nạn, Ngài để lại cho các môn đệ lời dạy cuối cùng: di chúc tình yêu! Thật quá rõ ràng,
mối quan tâm ưu tiên số một của Thầy Giê-su là: các học trò biết yêu thương
nhau cách vô điều kiện, yêu thương nhau hết mình và phục vụ nhau hết tình, theo
khuôn mẫu: “như
Thầy đã yêu thương”. Yêu
thương là dấu hiệu duy nhất để mọi người nhận ra ai là môn đệ của Đức Giê-su.
Cũng như người cha người mẹ luôn ước mong điều tốt đẹp cho con cái, nhưng điều
cốt lõi vẫn là con cái biết thương yêu đùm bọc nhau. Thầy chúng ta cũng muốn
các môn đệ của Ngài biết tìm thấy hạnh phúc khi sống hiến thân vì tha nhân, chứ
không tìm cách để thỏa mãn lòng tham lam hưởng thụ ích kỷ của mình.
Mời Bạn: Bạn và tôi vẫn biết ‘yêu thương’ luôn là đề tài hấp
dẫn, luôn mang tính thời sự, nhưng đồng thời cũng là từ ngữ dễ bị lạm dụng
nhất. Chúng ta, những học trò của thầy Giê-su có sống được đề tài này không,
hay cũng chỉ mang ra để bàn luận, thậm chí còn lợi dụng lòng yêu thương của
người khác?
Chia sẻ: Theo bạn tiêu chí đánh
giá một xứ đạo là gì: có nhà thờ to? có đoàn thể rầm rộ? có kinh kiệu rình
rang?... hay là một xứ đạo trong đó mọi người biết quan tâm, yêu thương và phục
vụ lẫn nhau?
Sống Lời Chúa: Không chỉ nói lời yêu
thương suông mà còn thực hành yêu thương bằng hành động cụ thể.
Cầu
nguyện: Lạy Thầy Giê-su, Thầy
không dạy con điều gì khác ngoài luật yêu thương, xin cho con luôn biết thực
hành bài học này cách quảng đại, để xứng đáng là môn sinh của Thầy.
ĐIỀU RĂN MỚI
Thế giới hôm nay như sa mạc thiếu vắng tình yêu.
Ước gì thế giới Kitô trở thành một ốc đảo xanh tươi mời mọi người đặt chân tới.
Suy niệm:
Gandhi được coi là bậc đại thánh của dân Ấn Ðộ.
Ông say mê Kinh Thánh, nhất là bài giảng trên núi.
Ông nghĩ rằng Kitô giáo sẽ là câu trả lời thích đáng
cho những xung đột giữa các giai cấp ở Ấn.
Một ngày nọ ông đến dự lễ tại một nhà thờ.
Nhưng người giữ cửa ngăn ông lại, và bảo ông
nên đến dự lễ ở một nhà thờ khác dành cho người da
đen.
Ông đã bỏ đi và không bao giờ quay trở lại.
Có thể chúng ta đã mất một Kitô hữu tốt như Gandhi
chỉ vì có sự phân biệt màu da nơi nhà thờ.
Biết đâu thế giới này lại chẳng có nhiều Gandhi,
họ sống tinh thần Ðức Kitô còn hơn cả các Kitô hữu.
“Thầy
ban cho anh em một điều răn mới:
hãy
yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”
Lời
trăn trối của Ðức Giêsu vẫn làm chúng ta nhức nhối.
Ở
đây Ngài không nhắc chúng ta yêu thương người ngoài,
nhưng
Ngài đòi buộc các môn đệ Ngài yêu thương nhau.
Yêu
thương nhau trở thành điều răn mới,
mới
vì Ngài đòi họ phải yêu nhau như Ngài đã yêu họ.
Vấn
đề cốt lõi là cảm nhận được tình yêu của Ngài.
Trước
khi công bố điều răn mới này,
Ðức
Giêsu đã rửa chân cho môn đệ, trong đó có Giuđa.
Ngài
cúi xuống bên chân Giuđa để bày tỏ một tình yêu.
Sau
đó Ngài còn chấm miếng bánh đầu tiên trao cho Giuđa
như
đưa ra một vẫy gọi thân thương cuối cùng. (x. Ga 13,26)
Nhưng
vô ích, Giuđa không đổi ý.
Anh
vẫn ra đi để làm điều mình muốn (x. Ga 13,31)
Ðức
Giêsu biết rõ số phận đang chờ mình.
Ngài
sẽ yêu đến cùng bằng việc hiến mạng trên thập giá.
Ðức
Giêsu đã yêu trước khi truyền cho ta yêu nhau.
Nếu
ta không cảm nhận được tình yêu Ngài dành cho ta,
thì
ta cũng chẳng thể yêu nhau như Ngài muốn.
Có
nhiều dấu hiệu để người ta nhận ra một Kitô hữu:
đeo
thánh giá nơi cổ, làm dấu thánh giá trước khi ăn...
Nhưng
theo Ðức Giêsu, dấu hiệu đặc trưng của nhóm môn đệ
là
tình yêu thương mà họ dành cho nhau:
cảm
thông, tha thứ, cộng tác, hy sinh, chia sẻ, đối thoại...
Giữa
các môn đệ, có bao dị biệt, bao hàng rào.
Nếu
không vượt qua được những hàng rào dị biệt này
thì
coi như việc truyền giáo bị đổ vỡ.
Tiếc
thay, vẫn chưa có sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu
khác
màu da, khác văn hoá, khác quan điểm chính trị...
Có
bất đồng giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo ở Nga,
giữa
người Công Giáo và người Tin Lành ở Bắc Ailen.
Ðến
bao giờ mọi Kitô hữu có thể đọc chung kinh Lạy Cha,
mừng
chung với nhau lễ Phục Sinh trong một ngày,
cử
hành chung với nhau một phụng vụ.
Thế
giới hôm nay như sa mạc thiếu vắng tình yêu.
Ước
gì thế giới Kitô trở thành một ốc đảo xanh tươi
mời
mọi người đặt chân tới.
Cầu
nguyện:
Lạy
Cha,
xin
dạy chúng con biết cộng tác với nhau
trong
việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.
Xin
cho chúng con đến với nhau
không
chút thành kiến,
và
tin tưởng và thiện chí của nhau.
Khi
cộng tác với nhau,
xin
cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ
đó chúng con vượt qua
những
tự ái nhỏ nhen,
những
tham vọng ích kỷ
và
những định kiến cằn cỗi.
Ước
gì chúng con dám từ bỏ mình,
để
tìm kiếm chân lý
ở
mọi nơi và mọi người,
nhất
là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy
Cha,
xin
sai Thánh Thần đến trên chúng con,
để
chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,
và
hiểu nhau ngay trong những dị biệt.
Nhờ
sống mầu nhiệm cộng tác,
xin
cho chúng con được triển nở không ngừng
và
Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
24 Tháng Tư
Hạt Táo
Tại một xứ Hồi giáo nọ, có một
người đàn ông bị vua truyền lệnh treo cổ vì đã ăn cắp thức ăn của một người
khác. Như thường lệ, trước khi bị treo cổ, tù nhân được nhà vua cho phép xin một
ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin với nhà vua như sau: "Tâu bệ hạ, xin cho thần được
trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, thành cây và
có trái ăn ngay tức khắc. Ðây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần.
Thần tiếc là bí quyết này không được truyền lại cho hậu thế".
Nhà vua truyền lệnh cho chuẩn bị
mọi sự sẵn sàng để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn cách trồng táo. Ðúng
giờ hẹn, trước mặt nhà vua và các quan văn võ trong triều đình, tên trộm đào một
cái lỗ nhỏ và nói: "Chỉ có người nào chưa hề ăn cắp hoặc lấy của người
khác, người đó mớico thể trồng được hạt giống này. Vì đã từng ăn trộm nên tôi
không thể trồng được hạt giống này".
Nhà vua tin người tử tội, nên mới
quay sang nhìn vị tể tướng, có ý nhờ ông ta làm công tác ấy. Nhưng sau một hồi
do dự, vị tể tướng mới thưa: "Tâu bệ hạ, thần nhớ lại lúc còn niên thiếu,
thần cũng đã có lần lấy của người khác... Thần cảm thấy mình không đủ điều kiện
để trồng hạt táo này". Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang cómặt,
ông nghĩ bụng: may ra quan thủ kho trong triều đình là người nổi tiếng trong sạch
có thể hội đủ điều kiện. nhưng cũng giống như vị tể tướng, quan thủ kho cũng lắc
đầu từ chối và tuyên bố trước mặt mọi người rằng, ông cũng đã có một lần gian lận
trong chuyện tiền bạc. không còn tìm được người nào có thể thực hiện được bí
quyết trồng cây ấy, nha vua định cầm hạt giống đến cho vào lỗ đã đào sẵn. Nhưng
ông cũng chợt nhớ rằng lúc còn niên thiếu, ông cũng có lần đánh cắp một báu vật
của vua cha...
Lúc bấy giờ, người tử tội chỉ vì
ăn cắp thức ăn, mới chua xót thốt lên: "Các ngài là những kẻ quyền thế cao
trọng. Các ngài không hề thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài cũng không thể trồng
được hạt giống này, bởi vì các ngài cũng đã hơn một lần lấy của người khác. Còn
tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác để ăn cho đỡ đói
qua ngày, thì lại bị các ngài nghị án treo cổ...". Nhà vua và cả triều thần
nghe như xốn xáo trong lương tâm. Ông ra lệnh phóng thích cho người ăn trộm.
Lời cầu chúc "bình an"
của Ðức Kitô Phục Sinh là một thứ hạt táo được gieo vào tâm hồn chúng ta. hạt
giống bình an đó chỉ có thể nảy mầm thành cây và mang lại hoa trái là nếu mỗi
người ai cũng dọn sẵn đất đai cho nó. Ðất đai thuận tiện để cho hạt giống của
Bình An ấy được nảy mầm, chính là lòng sám hối thực sự. Sám hối nghĩa là biết
chấp nhận chính bản thân và sãn sàng cảm thông, tha thứ cho người khác. Có nhận
ra những yếu đuối bất toàn của mình, con người mới dễ dàng cảm thông và tha thứ
cho người. Và có cư sử như thế, chúng ta mới thấy được hạt giống Bình An nảy mầm
trong tâm hồn chúng ta và mang lại hoa trái cho người xung quanh...
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét