25/04/2016
Thứ Hai tuần 5 Phục Sinh
Thánh Mác-cô, tác giả sách Tin Mừng.
Lễ kính.
* Thánh Marcô là cháu của
thánh Barnaba. Người đã đi theo thánh tông đồ Phaolô trong hành trình truyền
giáo lần thứ nhất, và theo đến tận Rôma. Người cũng là môn đệ của thánh Phêrô
và là thông ngôn của thánh Phêrô, đã soạn lời giảng của thánh Phêrô thành sách
Tin Mừng. Truyền thống cho rằng người đã sáng lập giáo đoàn Alexandria
BÀI ĐỌC
I: 1 Pr 5, 5b-14
"Marcô,
con tôi, gửi lời chào anh em".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh
em thân mến, tất cả anh em hãy mặc lấy đức khiêm nhường để đối xử với nhau, vì
Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho người khiêm nhường. Vậy anh em
hãy hạ mình dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người nhắc anh em lên
trong thời giờ Người thăm viếng. Anh em hãy trút bỏ cho Người mọi điều lo lắng
của anh em, bởi vì chính Người chăm sóc anh em.
Anh
em hãy ăn ở tiết độ và hãy tỉnh thức, vì kẻ thù anh em là ma quỷ, như sư tử gầm
thét, nó rình mò chung quanh, tìm kiếm một ai để nuốt. Anh em hãy vững vàng
trong đức tin mà chống lại nó, vì biết rằng hết mọi người anh em khác trong thế
gian đều phải chịu cùng một sự đau khổ đó. Nhưng Thiên Chúa nguồn mạch mọi ân sủng,
Đấng đã kêu gọi anh em tham dự vinh quang đời đời của Người trong Đức Giêsu
Kitô, chính Người sẽ làm cho anh em là những người chịu đau khổ ít lâu, được
hoàn thiện, vững vàng và kiên cố. Nguyện Người được vinh quang và uy quyền đến
muôn đời. Amen.
Nhờ
Silvanô, người anh em trung tín, tôi cam đoan như thế, tôi viết vắn tắt thư này
cho anh em, để khuyên nhủ và chứng thực rằng đó là ơn đích thực của Thiên Chúa,
và anh em đang tận hưởng. Hội thánh được tuyển chọn ở Babylon và Marcô, con
tôi, gởi lời chào anh em. Anh em hãy chào nhau trong cái hôn thánh thiện.
Nguyện
(chúc) ơn Chúa ở cùng tất cả anh em, những người ở trong Đức Giêsu Kitô.
Amen. Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 88, 2-3. 6-7. 16-17
Đáp:
Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời. Qua mọi thế hệ, miệng con
loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng
vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Đáp.
2) Lạy
Chúa, trời xanh ca tụng những kỳ công của Chúa, và lòng trung thành Chúa trong
công hội thánh nhân. Vì trên cõi nước mây, ai bằng được Chúa, trong các con
Thiên Chúa, ai giống như Ngài? - Đáp.
3)
Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan
Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài.
- Đáp.
ALLELUIA:
1 Cr 1, 23. 24
Alleluia,
alleluia! - Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, Ngài là quyền năng và
khôn ngoan của Thiên Chúa. - Alleluia.
PHÚC
ÂM: Mc 16, 15-20
"Các con
hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng".
Bài
kết thúc Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy,
Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế
gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được
cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những
người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn
trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những
người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".
Vậy
sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần
các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông,
và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
SUY NIỆM
: Thánh Marcô, Thánh sử
Thánh
Marcô, mặc dù mang tên Roma, nhưng lại là người Do Thái, và còn được gọi theo
tên Do Thái là Gioan. Tuy không thuộc nhóm Mười Hai Tông Đồ, nhưng rất có thể
ngài đã quen biết Chúa Giêsu. Nhiều văn gia Giáo Hội phát hiện ra chữ ký kín ẩn
của thánh Marcô trong Phúc Âm của ngài, trong trình thuật người thanh niên bỏ
chạy với một mảnh vải trên người, khi Chúa Giêsu bị bắt trong vườn Cây Dầu: ý
nghĩa ở đây là chỉ có mình thánh Marcô đề cập đến chi tiết ấy. Điều này còn
trùng hợp với một chi tiết khác: Marcô là con trai bà Maria, một góa phụ giàu
có, sở hữu ngôi nhà, nơi các tín hữu Jerusalem tiên khởi thường tụ họp. Theo một
truyền thống cổ xưa, ngôi nhà này chính là ngôi nhà có phòng Tiệc Ly, nơi Chúa
Giêsu đã ăn bữa Tiệc Ly và thiết lập bí tích Thánh Thể.
Marcô
có bà con với thánh Barnabas; ngài đã đồng hành với thánh Phaolô trong cuộc
truyền giáo lần thứ nhất, và ở bên cạnh vị Tông Đồ dân ngoại trong những ngày
cuối đời của ngài. Tại Roma, Marcô còn làm môn đệ của thánh Phêrô. Trong Phúc
Âm của ngài, với ơn linh hứng Chúa Thánh Thần, thánh Marcô đã trung thành trình
bày giáo huấn của vị Tông Đồ trưởng. Theo một truyền thống cổ xưa được thánh
Jerome kể lại, sau khi hai thánh Phêrô và Phaolô chịu tử đạo, thánh Marcô đã
sang Alexandria, giảng đạo, thành lập giáo đoàn và trở thành giám mục tiên khởi
ở đó. Vào năm 825, thánh tích của ngài được dời từ Alexandria về Venice, thành
phố hiện nay nhận ngài làm quan thầy.
1.
Marcô, người phụ tá của thánh Phêrô.
Ngay
từ khi còn rất trẻ, Marcô đã thuộc vào nhóm các tín hữu tiên khởi ở Jerusalem,
những người quen biết và được sống bên cạnh Đức Mẹ và các Tông Đồ. Mẹ của ngài
là một trong những phụ nữ đã lấy tài sản chu cấp cho Chúa Giêsu và mười hai
Tông Đồ. Marcô cũng có bà con với thánh Barnabas, một trong những nhân vật
chính yếu trong thời kỳ đầu, và là người đầu tiên dìu dắt ngài trong công cuộc
rao giảng Phúc Âm. Marcô đồng hành với thánh Phaolô và thánh Barnabas trong
hành trình truyền giáo lần thứ nhất, nhưng khi đến đảo Cyprus, Marcô cảm thấy
không thể tiếp tục được nữa nên đã từ giã và trở về Jerusalem. Thánh Phaolô dường
như rất thất vọng về tính thay đổi của Marcô. Về sau, khi trù định cho hành
trình truyền giáo lần thứ hai, thánh Barnabas muốn đem theo Marcô, nhưng thánh
Phaolô nhất định không chịu vì nhớ lại sự việc trước đó. Cuộc tranh luận giữa
thánh Phaolô và thánh Barnabas căng thẳng đến nỗi sau cùng hai vị đã chia tay,
mỗi người tiến hành chương trình của riêng mình.
Khoảng
mười năm sau, chúng ta lại thấy Marcô tại Roma, lần này ngài giúp đỡ thánh
Phêrô. Lời thánh Phêrô đã viết trong thư: con tôi là Marcô, minh chứng mối liên
hệ lâu bền và gần gũi giữa hai vị. Thời gian ấy, Marcô là thông dịch viên cho vị
Tông Đồ trưởng, việc này đem lại một lợi điểm mà chúng ta nhận ra trong Phúc Âm
được ngài viết sau đó ít năm. Mặc dù không ghi lại một bài giáo huấn dài nào của
Chúa, nhưng bù lại, thánh Marcô đã mô tả rất sinh động về những biến cố trong
cuộc sống của Chúa Giêsu với các Tông Đồ. Trong các trình thuật của ngài, chúng
ta thấy hiện lên những thị trấn nhỏ ven bờ biển Galilê; chúng ta cảm nhận được
những lời bàn tán của đám đông đi theo Chúa Giêsu, chúng ta như thể tiếp xúc với
những cư dân của các địa phương ấy, nhìn thấy những việc kỳ diệu của Chúa
Giêsu, và những phản ứng tự phát của nhóm Mười Hai. Tóm lại, chúng ta thấy mình
như giữa đám đông dân chúng, được chứng kiến các biến cố Phúc Âm. Qua những mô
tả sinh động, thánh Marcô đã in đậm vào linh hồn chúng ta một hấp lực dịu dàng
nhưng không sao cưỡng lại của Chúa Giêsu mà dân chúng và các Tông Đồ đã cảm
nghiệm được trong cuộc sống với Thầy Chí Thánh. Thánh Marcô đã trung thành ghi
lại những hồi tưởng thân mật của thánh Phêrô với Thầy Chí Thánh: những ký ức ấy
không phai nhòa theo năm tháng, nhưng càng ngày càng sâu đậm và sinh động hơn,
càng thấm thía và hứng thú hơn. Có thể nói Phúc Âm thánh Marcô là tấm gương
sinh động về giáo huấn của thánh Phêrô.
Thánh
Jerome cho chúng ta biết, theo thỉnh nguyện của các tín hữu Roma, Marcô, môn đệ
và thông ngôn của thánh Phêrô, đã viết Phúc Âm theo những gì ngài đã được nghe
thánh Phêrô giảng dạy. Và chính thánh Phêrô, sau khi đã duyệt bản Phúc Âm ấy,
đã dùng quyền bính chấp thuận cho sử dụng trong Giáo Hội.5 Đây thực sự là sứ mệnh
chính trong cuộc đời thánh Marcô: trung thành ghi lại những lời giảng của thánh
Phêrô. Ngài đã để lại cho hậu thế biết bao ích lợi! Ngày nay, chúng ta thực sự
phải mang ơn thánh Marcô vì nhiệt tâm ngài đã đặt vào công việc và lòng trung
thành với ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần! Ngày lễ kính thánh Marcô là dịp để
chúng ta xét lại việc hằng ngày chúng ta đọc Phúc Âm, lời Chúa nói trực tiếp với
chúng ta, như thế nào. Chúng ta có thể tự hỏi đã bao lần chúng ta đã sống như
người con hoang đàng, hoặc áp dụng cho mình lời cầu khẩn của anh mù Bartimaeus:
Lạy Chúa, xin cho con được nhìn thấy – Domine, ut videam! Hoặc lời thỉnh nguyện
của người cùi: Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, xin cho tôi được sạch – Domine, si vis,
potes me mundare! Bao lần chúng ta cảm thấy tận đáy lòng rằng Chúa Kitô đang
nhìn và mời gọi chúng ta hãy sát bước theo Người, kêu gọi chúng ta hãy vượt thắng
một thói xấu nào đó làm chúng ta xa cách Người, hoặc như các môn đệ trung
thành, hãy sống nhân ái hơn nữa với những người khó hòa hợp với chúng ta?
2.
Là khí cụ của Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng thực hiện một cuộc khởi đầu mới.
Thánh
Marcô đã giúp đỡ thánh Phêrô nhiều năm tại Roma, ở đó, chúng ta còn thấy ngài
phụ giúp thánh Phaolô nữa. Quả thế, con người mà thánh Phaolô thấy không thể sử
dụng trong hành trình truyền giáo lần thứ hai thì nay lại là một niềm an ủi và
một người bạn trung thành. Vào khoảng năm 66, thánh Tông Đồ đã viết cho
Timothy: Con hãy đem Marcô đi với con, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục
vụ của cha. Sự kiện đảo Cyprus một thời hết sức ảm đạm, thì nay dường như đã bị
quên lãng hoàn toàn. Giờ đây, thánh Phaolô và thánh Marcô là bạn hữu và đồng sự
của nhau trong công cuộc quan trọng là mở rộng vương quốc Chúa Kitô. Thực sự
đây là một tấm gương lớn lao và cũng là một bài học tuyệt vời cho chúng ta học
biết: đừng bao giờ kết luận dứt khoát về một ai, khi nào cần thiết một ai,
chúng ta hãy biết cách nối lại mối dây thân hữu mà đã có lúc xem như đã tan rã
hoàn toàn!
Giáo
Hội hôm nay nêu lên mẫu gương thánh Marcô. Thật là một hy vọng và ủi an khi
chiêm ngưỡng đời sống vị sử gia thánh thiện này. Mặc dù có những yếu đuối,
nhưng chúng ta vẫn có thể như ngài, tin tưởng vào ơn Chúa và sự phù trợ của Mẹ
Giáo Hội. Những thất bại và những hành vi nhát đảm của chúng ta, dù lớn hoặc nhỏ,
phải làm chúng ta khiêm tốn hơn, liên kết chúng ta mật thiết hơn với Chúa
Giêsu, và kín múc từ nơi Chúa nguồn sức mạnh mà chúng ta đang thiếu thốn.
Chúng
ta đừng để những bất toàn nên cớ làm chúng ta xa cách Chúa hoặc từ bỏ sứ mạng
tông đồ, mặc dù đôi khi chúng ta đã không đáp ứng đúng mức với ơn Chúa, hoặc
chúng ta đã ngần ngại khi được nhờ cậy. Những hoàn cảnh như thế, nếu có khi nào
xảy ra, chúng ta không nên ngạc nhiên, bởi vì như lời thánh Phanxicô Salê đã
nói, Không có gì phải ngạc nhiên vì bệnh tật là bệnh tật, yếu đuối là yếu đuối,
và gian ác là giac ác. Tuy nhiên, hãy hết sức gớm ghét điều bạn đã xúc phạm đến
Chúa, và với lòng tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, hãy quảng đại quay lại
con đường mà bạn đã từ bỏ.
Những
thất bại và những hành vi nhát đảm rất quan trọng. Chúng khiến chúng ta trở về
bên Chúa để nài xin ơn tha thứ và trợ giúp của Người. Nhưng Chúa vẫn tin tưởng
chúng ta, và chúng ta vẫn cậy trông ơn Chúa, nên chúng ta hãy lập tức làm lại
và quyết tâm trung thành hơn trong tương lai. Với ơn phù trợ của Đức Mẹ, chúng
ta sẽ biết cách rút ra điều hữu ích từ những yếu đuối, nhất là khi kẻ thù, những
kẻ không bao giờ nghỉ ngơi, ra sức làm chúng ta thất đảm và từ bỏ cuộc chiến.
Chúa Giêsu muốn chúng ta thuộc về Người mặc dù chúng ta đã có một lịch sử yếu
đuối với những sai phạm.
3.
Sứ vụ tông đồ.
Hãy
đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo. Hôm nay, chúng ta đọc
những lời này trong Ca Nhập Lễ. Đây là sứ vụ tông đồ Chúa đã ban và thánh Marcô
đã ghi lại. Về sau, được ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, thánh nhân đã minh chứng
lệnh truyền ấy đã được thực hiện khi ngài chép Phúc Âm: Các tông đồ ra đi và
rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố tin mừng bằng
những phép lạ kèm theo. Đó là những lời thánh Marcô kết thúc Phúc Âm của ngài.
Thánh
Marcô đã trung thành với sứ vụ tông đồ mà ngài đã nghe qua lời giảng của thánh
Phêrô: Hãy đi khắp thế gian. Chính thánh Marcô và Phúc Âm của ngài đã là một thứ
men hiệu quả cho thời đại ngài. Chúng ta cũng phải trở nên một thứ men tốt cho
thời đại chúng ta. Nếu sau lần nhát đảm, thánh nhân đã không khiêm nhượng và
dũng cảm làm lại, có lẽ giờ đây chúng ta không có những kho tàng lời giảng và
việc làm của Chúa Giêsu để thường xuyên suy gẫm, và nhiều người, nếu không nhờ
ngài, chắc cũng chẳng bao giờ biết được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ của nhân loại.
Sứ mạng
của thánh Marcô - cũng như của các Tông Đồ, của các nhà truyền giáo, của các
tín hữu tốt lành luôn ra sức sống đúng với ơn gọi của mình - chắc chắn không phải
là một sứ mạng dễ dàng. Chúng ta biết ngài đã chịu tử đạo. Ắt hẳn thánh nhân đã
trải qua kinh nghiệm chịu bách hại, mệt mỏi, và hiểm nguy trong việc theo bước
Chúa.
Chúng
ta hãy cám tạ Thiên Chúa, cũng như các tín hữu thời các Tông Đồ, vì sức mạnh và
niềm vui Chúa Kitô đã được truyền lại đến ngày nay cho chúng ta. Mọi thế hệ
Kitô hữu, mọi cá nhân đều được mời gọi lãnh nhận sứ điệp Phúc Âm và truyền thụ
lại cho người khác. Ơn Chúa không bao giờ thiếu: Non est abbreviata manus
Domini – Cánh tay Chúa không bị thu ngắn. Người tín hữu biết Chúa đã thực hiện
các phép lạ từ nhiều thế kỷ trước kia, và hiện nay Người vẫn đang thực hiện.Với
ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta cũng sẽ thực hiện những phép lạ nơi tâm hồn
thân nhân, bạn bè, và những người quen biết, nếu chúng ta sống trong mối kết hợp
với Chúa Kitô qua lời cầu nguyện.
(Trích
‘dongcong.net’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Marcô Thánh Sử (Ngày 25 tháng 4)
Bài đọc: 1 Pet 5:5b-14; Mk 16:15-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành với sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Theo
truyền thống, Marcô Thánh Ký được đồng nhất với John Mark (Acts 12:12, 25;
15:37; Col 4:10; 2 Tim 4:11; Phi 24). Thánh Phêrô trong bài đọc I hôm nay gọi
Marcô là “con của ngài” (1 Pet 5:13). Marcô là anh em họ (anepsios) của
Barnabas (Col 4:10), là con của bà Mary. Bà này là bạn với thánh Phêrô, sống tại
Jerusalem (Acts 21:12), và là một thành phần quan trọng của giáo hội sơ khai tại
Jerusalem. Chính tại nhà Bà mà thánh Phêrô đến, sau khi được sứ thần của Thiên
Chúa giải thoát khỏi ngục tù (Acts 12:12-13).
Khi nạn
đói xảy ra vào năm 45-46 AD, Barnabas và Phaolô sau khi đã hoàn thành sứ vụ tại
Jerusalem, họ mang Marcô đi với họ trong hành trình trở về Antioch (Acts
12:25). Không lâu sau đó, khi bắt đầu hành trình truyền giáo thứ nhất, họ đem
Marcô theo như một trợ tá (hupereten, Acts 13:5). Theo văn mạch ám chỉ,
Marcô có thể đã giúp hai ông ngay cả trong việc rao giảng Tin Mừng. Khi hai ông
tiếp tục cuộc hành trình từ Perga tiến vào trong vùng trung tâm của Asia Minor,
Marcô bỏ hai ông và trở về Jerusalem (Acts 13:13). Tại sao Marcô trở lại
Jerusalem, không ai biết rõ lý do; nhưng có thể Marcô sợ khổ cực (Acts 15:38).
Phaolô không quên biến cố này, nên ông từ chối cho Marcô đi theo trong hành
trình truyền giáo thứ hai. Sự từ chối này dẫn tới việc phân ly giữa Phaolô và
Barnabas, Phaolô tiếp tục cuộc hành trình, Barnabas và Marcô xuống thuyền tới đảo
Cyprus (Acts 15:37-40). Sau biến cố này (khoảng 49-50 AD), chúng ta mất dấu
Marcô trong CVTĐ, cho tới khi Marcô xuất hiện khoảng 10 năm sau như một bạn đồng
hành của Phaolô, và đi theo Phêrô tại Rôma.
Theo
cuốn Lịch Sử Giáo Hội của Eusebius (III,39), viết khoảng năm 130 AD, đặt căn bản
trên thế giá của một kỳ mục, Marcô là “người thông dịch” (hermeneutes) của
Phêrô, và đã viết cách chính xác, mặc dù không theo niên lịch, giáo huấn của
Phêrô. Nhiều người giả sử chàng thanh niên ở trần trốn chạy từ vườn Gethsemane
là Marcô (Mk 14:51). Điều này có thể vì nhà mẹ của Marcô nằm trong Jerusalem và
là nơi các môn đệ hay lui tới. Ngày chết của Marcô không chắc chắn, thánh Jerome
cho là năm thứ tám của triều đại Nero (62-63 AD). Thánh Marcô là quan thầy của
Alexandria, Ai-cập; và là quan thầy của thành phố Venice, nước Ý.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Hội-thánh ở Babylon,
và Marcô, con tôi, gửi lời chào anh em.
1.1/ Thiên
Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.
Trình
thuật hôm nay là phần khuyên nhủ và kết thúc Thư I của thánh Phêrô. Ngài tóm tắt
những điều cần khuyên nhủ quan trọng tới các tín hữu.
(1)
Hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh
em khi đến thời Người đã định: Đây là đức tính quan trọng hàng đầu người tín hữu
cần luyện tập; nếu không có đức tính này, họ sẽ dễ dàng rơi vào bẫy giăng của
ma quỉ và sa ngã như ông Adam và bà Eva trong Vườn Địa Đàng
(2) Mọi
âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em: Lo lắng làm con người bất
an và nghi ngờ tình thương của Thiên Chúa. Để diệt lo lắng, con người cần tin
tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa, chẳng lẽ Ngài bỏ rơi con cái trông đợi
nơi tình thương của Ngài!
(3)
Hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm
thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé: Tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa
không có nghĩa con người không cần phải làm chi cả. Thánh Phêrô khuyên con người
hãy tập luyện để biết sống tiết độ. Nói cách khác, con người cần tập luyện nhân
đức mới có thể thắng vượt các chước cám dỗ của ba thù.
(4)
Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần
gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế: Đức tin cần được thử thách bằng
những gian khổ, ai cũng phải trải qua tiến trình rèn luyện để vượt qua những
gian khổ. Người chiến thắng là người kiên vững trong đức tin cho dù phải gian
nan, đau khổ, ngay cả phải chấp nhận cái chết.
1.2/ Phần
thưởng của các tín hữu là cuộc sống mai sau: Các Kitô hữu phải chịu đau khổ để thử luyện đức tin trước
khi được lãnh nhận vinh quang: “Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là Đấng
đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Kitô. Phần anh em
là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn
thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường.”
Ân sủng
của Thiên Chúa đủ cho các tín hữu: Khi phải chịu thử thách nặng nề, thay vì kêu
trách Thiên Chúa và tha nhân, các tín hữu cần chạy đến với Thiên Chúa để xin
gia tăng ơn thánh, hầu có thể đứng vững trong đức tin. Thánh Phêrô, cũng như
thánh Phaolô, tin chắc ơn thánh của Thiên Chúa ban đủ sức giúp các tín hữu vượt
qua mọi trở ngại trong cuộc đời: “Tôi viết ít lời để khuyên nhủ anh em và làm
chứng rằng đó thật là ân sủng của Thiên Chúa: anh em hãy sống vững vàng trong
ân sủng đó.”
2/
Phúc Âm: Chúa Giêsu trao sứ
vụ rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ.
2.1/
Trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Người
nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng
cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không
tin, thì sẽ bị kết án." Khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, Ngài đã hoàn
tất sứ vụ mang lại ơn cứu độ cho con người. Giờ đây Ngài trao sứ vụ loan báo
Tin Mừng cho các môn đệ, để các ông mang ơn cứu độ này cho mọi người sống trên
trần thế. Để được hưởng ơn cứu độ, con người cần tin vào Đức Kitô và chịu Phép
Rửa.
3.2/ Ban
uy quyền cho các môn đệ để khán giả tin vào lời các ông rao giảng: Chúa hứa với các nhà rao giảng:
"Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ:
(1)
Khai trừ quỷ: Phaolô truyền cho quỉ xuất khỏi người đầy tớ tại Philippi (Acts
16:18)
(2)
Nói được những tiếng mới lạ: Các Tông-đồ nói tiếng của thổ dân trong ngày Lễ
Ngũ Tuần (Acts 2:1-11)
(3)
Tránh được nguy hiểm: "Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc,
thì cũng chẳng sao."
(4)
Chữa lành: "Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ
được mạnh khoẻ." Điều này đã được làm bởi Phêrô, Phaolô, và rất nhiều môn
đệ.
"Nói
xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ
ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu
lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Trung thành theo Chúa đến cùng không phải là điều dễ dàng vì chúng ta phải
đương đầu với ba kẻ thù nặng ký là ma quỉ, thế gian và xác thịt.
- Để
có thể vượt qua các thử thách, con người cần tập luyện nhân đức và cầu nguyện
xin Thiên Chúa ban ơn thánh. Chúng ta phải trỗi dậy sau mỗi lần bị ngã và tiếp
tục tiến bước. Ngoài ra, chúng ta cũng phải giúp nhau để trung thành trong ơn gọi
của mình.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
25/04/16 THỨ HAI TUẦN 5 PS
Th. Mác-cô, tác giả sách Tin Mừng
Mc 16,15-20
Th. Mác-cô, tác giả sách Tin Mừng
Mc 16,15-20
Suy niệm: Không phải ngẫu nhiên mà cả bốn sách Tin Mừng
đều kết thúc bằng lời mời gọi làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh. Còn nhớ tối
hôm ấy sau bữa Tiệc Ly, các môn đệ đều hoảng loạn khi Thầy bị bắt. Một bóng đen
sợ hãi đã bao trùm trên họ khi Chúa Giê-su bị kết án tử hình; hòn đá lấp cửa mồ
cũng khép lại nơi họ mọi hy vọng. Họ đứng trước một tương lai vô định. Thế rồi
điều họ không mong đợi lại xảy đến: Đức
Giê-su phục sinh. Chính Ngài đã hiện đến với các ông và truyền lệnh cho các ông “đi khắp tứ phương thiên hạ” để loan báo Tin Mừng vĩ đại này. Họ trở thành
chứng nhân bởi vì họ“không thể nào không nói lên những gì mắt thấy
tai nghe” (x.
Cv 4,20).
Mời Bạn: Cuộc
gặp gỡ Đức Ki-tô “chỗi
dậy từ cõi chết” khiến
các môn đệ đầy xác tín loan báo Tin Mừng với tư cách là chứng nhân, dám đem
mạng sống mình làm bảo chứng cho lời mình rao giảng. Như thế lệnh truyền của
Đức Ki-tô “Hãy
đi loan báo Tin Mừng” không
phải là mệnh lệnh áp đặt từ bên ngoài mà là lẽ sống còn của người ki-tô hữu. Đã
tin vào Chúa Ki-tô phục sinh thì không thể không loan báo tin vui Ngài sống lại.
Chia sẻ: Truyền
giáo là lệnh truyền của Chúa. Hôm nay bạn phải thực hiện lệnh truyền đó thế nào?
Sống Lời Chúa: Sống
trung thực hoặc thực hiện một lời Phúc Âm với ý hướng loan báo sứ điệp đó cho
lương dân.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh, là nguồn mạch và là nội dung niềm tin
của chúng con - xin biến đổi chúng con trở nên chứng nhân Tin Mừng trong đời
sống mỗi ngày. Amen.
Loan báo Tin Mừng
Chúng ta có nhiều phương tiện
nhanh hơn, rộng hơn, để kể chuyện về Giêsu. Làm sao để cuộc đời chúng ta trở
thành một cuốn sách Tin Mừng để ai đọc cũng gặp được Giêsu?
Suy
niệm:
Hôm
nay Giáo Hội mừng lễ thánh Marcô, tác giả sách Tin Mừng.
Ngài
thường được coi là người viết cuốn sách Tin Mừng đầu tiên.
Ngài
đã thu tập những tài liệu có trước, rồi sắp xếp lại thành một câu chuyện.
Marcô
muốn kể một câu chuyện lý thú về Đức Giêsu.
Dù
khả năng viết tiếng Hy lạp của ngài không thuộc loại giỏi,
nhưng
bù lại, ngài là một nhà kể chuyện có tài.
Ngài
cho chúng ta một khuôn mặt Đức Giêsu rất sống động và rất người.
Đức
Giêsu ấy biết giận dữ, biết xao xuyến, biết ngạc nhiên như người khác.
Marcô
đã cầm bút viết tác phẩm của mình về Thầy Giêsu
trong
một giai đoạn đen tối của Giáo hội sơ khai.
Vào
năm 64, bạo chúa Nêrô đốt thành Rôma và đổ tội cho các kitô hữu.
Vậy
mà tại nơi ấy, giữa thời điểm căng thẳng ấy, Marcô viết sách Tin Mừng
dành
cho những kitô hữu không phải là người Do Thái.
“Khởi
đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1):
Marcô
đã bắt đầu tác phẩm của mình như thế.
Sách
này thật là Tin Mừng nâng đỡ các tín hữu bị chao đảo bởi bách hại.
Đức
Giêsu vác thánh giá mời gọi người ta trung tín bước theo Ngài.
Ngài
đã chết nhưng hẹn gặp lại các môn đệ ở Galilê sau khi Ngài phục sinh.
Bài
Tin Mừng hôm nay, tuy không phải do thánh Marcô soạn thảo,
nhưng
lại hợp với ngày lễ mừng thánh nhân.
Đấng
sống lại kêu gọi nhóm Mười Một đi khắp thế giới để rao giảng Tin Mừng.
Đó
là Tin Mừng về Đức Giêsu bị đóng đinh nhưng nay được phục sinh,
được
đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (c. 19).
Các
tông đồ đã vâng lời, đi rao giảng khắp nơi.
Chúa
lên trời nhưng Ngài vẫn cùng làm việc với họ như xưa.
Ngài
giúp họ có khả năng trừ quỷ, chữa bệnh, nói những thứ tiếng mới.
Ngài
bảo vệ họ khỏi những hiểm nguy do rắn rít hay thuốc độc (cc.17-18).
Giáo
Hội hôm nay cần nhiều kitô hữu say mê rao giảng Tin Mừng.
Trên
quê hương vẫn còn nhiều nơi vắng tiếng chuông nhà thờ buổi sáng.
Marcô
đã kể chuyện về Giêsu bằng ngòi bút, viết trên giấy da hay giấy cói.
Chúng
ta có nhiều phương tiện nhanh hơn, rộng hơn, để kể chuyện về Giêsu.
Làm
sao để Giêsu đến gặp con người qua internet, sách báo, phim ảnh…?
Làm
sao để cuộc đời chúng ta trở thành một cuốn sách Tin Mừng
để
ai đọc cũng gặp được Giêsu?
Cầu
nguyện:
Lạy Cha,
Cha
muốn cho mọi người được cứu độ
và
nhận biết chân lý,
chân
lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa
nhận biết Đức Giêsu,
họ
cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát
vọng truyền giáo,
khát
vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm
vui và bình an của mình cho tha nhân,
và
khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước
sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để
loan báo Tin Mừng.
Chúng
con chỉ xin đến
với
những người bạn gần bên,
giúp
họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua
đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho
tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25
THÁNG TƯ
Phục
Sinh Trong Hiện Tại
Đức
Kitô đã sống lại từ cõi chết tại một thời điểm nhất định trong thời gian. Tuy
nhiên, Người vẫn đang đợi chờ sự Phục Sinh của Người tác động biến đổi mọi người.
Người vẫn đang đột phá vào cuộc sống của mỗi cá nhân và vào lịch sử của mọi dân
tộc. Nhưng tác động chuyển hóa của cuộc Phục Sinh đối với xã hội và cá nhân còn
tùy thuộc vào sự hợp tác của con người nữa.
Trong
cuộc Phục Sinh này, người ta phá vỡ sự ràng buộc của tội lỗi và sự chết. Người
ta sống lại trong Đức Kitô như chính Người đã sống lại vào buổi sáng Phục Sinh
cách đây hai mươi thế kỷ ấy. Vâng, bất cứ ở đâu có một trái tim thắng vượt ích
kỷ, bạo lực, và đố kỵ – bất cứ ở đâu có một trái tim mở ra cho một ai đó đang cần
đến mình – thì ở đó Đức Kitô được Phục Sinh từ cõi chết, được Phục Sinh trong
hiện tại hôm nay. Bất cứ ở đâu có người theo đuổi công lý và hòa bình đích thực,
thì sự chết bị đánh bại và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô được khẳng định lại. Bất
cứ khi nào một người lìa đời sau khi đã sống một cuộc sống đầy tràn tin, yêu,
và đau khổ vì Đức Kitô … thì ở đấy và lúc ấy có sự Phục Sinh.
Cuộc
Phục Sinh này – được định liệu cho mọi người – là chiến thắng tối hậu. Đó là câu
trả lời của Thiên Chúa cho những đau buồn và thử thách của con người. Đó không
phải là sự chết mà chính là sự sống. Đó không phải là thất vọng mà chính là hy
vọng. Và Giáo Hội mời gọi mọi con người hôm nay đón nhận niềm hy vọng này.
Giáo
Hội nhắc lại với chúng ta, với mọi người, lời công bố khó tin nhưng rất thật rằng:
Đức Kitô đã sống lại! Mong sao cả thế giới cùng sống lại với Người! Alleluia!
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
25-4
Thánh
Mác-cô tác giả Sách Tin Mừng
1Pr
5, 5b-14; Mc 16, 15-20
Lời
suy niệm: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn
ai không tin, thì sẽ bị kết án.”
Đây
là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho tất cả những ai thuộc về Người. Mỗi người đều
có bổn phận và trách nhiệm phải ra đi loan báo Tin Mừng. Muốn được làm tốt công
việc này, mỗi người cần phải luôn học biết về lòng thương xót và tha thứ của
Thiên Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúng con đang mang trên mình bổn phận phải loan báo Tin Mừng. Xin
cho chúng con được ơn ham thích học hỏi Lời Chúa, với ơn ban của Chúa Thánh Thần
để chúng con không giới thiệu sai về Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
25-04
THÁNH
MARCÔ THÁNH SỬ
(Thế
kỷ I)
Marcô
là ai ? Chắc chắn Ngài không phải là một trong 12 tông đồ. Nhưng một người tên
Marcô đã được các cộng đoàn Kitô giáo sơ khai biết đến, nhiều như là người bạn
đồng hành của thánh Phaolô và như người bạn thân ái của thánh Phêrô ở Roma (Cl
4,10; 1Pr 5,13; 2Tim 4,11). Sách Công vụ ba lần nói tới một "Gioan cũng gọi
là Marcô" (Cv 12,12; 25,15.17) là bạn thiết của thánh Barnaba.
Các học
giả thường đồng ý rằng: Marcô đã được nói tới trong các thánh thư, Gioan tên
Marcô trong sách công vụ và tác giả Phúc âm thứ II đều chỉ là một người. Đồng ý
với sự đồng hóa trên, chúng ta có thể phác họa hình ảnh của thánh sử như sau:
-
Ngài là con của Maria. Một góa phụ giàu có ở Giêrusalem có một người giúp việc
và căn nhà rộng rãi làm nơi tụ họp các tín hữu.
Năm
43, sau khi thoát khỏi ngục tù, thánh Phêrô đã chọn nhà này làm nơi trú ngụ (Cv
12,12-17). Như thế, Marcô sớm quen thuộc với những ghi nhận của thánh Phêrô.
Hai năm sau, tức là năm 45, chúng ta thấy Marcô và thánh Barnaba cùng đi trong
cuộc hành trình thứ nhất của Phaolô. Nhưng khi đoàn truyền giáo đi về hướng bắc,
Marcô đã từ giã để trở về Giêrusalem (Cv 13,13). Phaolô bất bình và không muốn
nhận cho Marcô đi theo trong cuộc hành trình thứ hai. Năm 50, như Barnaba đề
nghị, Barnaba về phe với Marcô, và đáp tàu về Cyprus là quê hương của Barnaba
(Cv 15,36-39).
Chúng
ta không thấy nói gì đến Marcô nữa cho tới năm 61 khi Ngài ở Roma với Phaolô
(Cl. 4,10), ba năm sau tức là năm 64 thánh nhân vẫn có mặt ở Roma vì Phêrô có
nhắc tới tên Người trong các lời chào của mình (1Pr 5,13). Đây là năm thánh
Phêrô chịu tử đạo. Ít lâu sau đó có lẽ thánh Marcô đã bắt đầu viết sách Phúc âm
ở Roma, dầu một số tác giả mới đây cho rằng ở Alexandri. Năm 67, thánh sử ở
Ephesô vì một ít tháng trước khi qua đời, thánh Phaolô dặn dò Timothêô đưa theo
Marcô đến Roma (2Tm 4,14). Mối bất hòa xưa đã được hàn gắn hoàn toàn.
Từ
đây, chúng ta phải dựa vào truyền thống để tìm hiểu về Marcô. Có lẽ sau khi
thánh Phêrô qua đời, Marcô đi rao giảng ở Alaexandria thành lập và làm giám mục
giáo đoàn này. Sự kiện không được chắc vì các bậc tiến sĩ của Alexandria như
Clêmente (200), và Origênê (203) không nhắc nhở gì đến.
Cuốn
Chronicon-Pascale không mấy có thế giá cho rằng: Marcô đã làm giám mục ở
Alexandrie và bị thiêu sống dưới thời Trajanô (năm 98 - 117).
Dựa
vào bút pháp của Marcô, chúng ta cố gắng tìm hiểu tính khí của Ngài. Tính chất
sống động của Phúc âm thứ II biểu lộ rõ chứng tích mục kiến của Phêrô, chứ
không phải của Marcô, dầu có thể là Marcô đã chứng kiến việc bắt bớ Chúa Giêsu
vì các nhà chú giải đồng hóa Ngài với người thanh niên vô danh bỏ chạy mình trần
(Mc 14,50-52). Dầu vậy, thánh Marcô không phải là một máy ghi âm diễn lại lời của
Phêrô, Ngài là tác giả ghi lại ký ức của Phêrô với bút pháp riêng. Ngài là người
ít lời (673 câu so với 1068 câu nơi Matthêu) và có giọng văn không chải chuốt.
Người
ta có thể cho rằng: Ngài không có đau khả năng viết văn cho duyên dáng. Nhưng với
những khiếm khuyết này, Marcô lại tỏ ra rất chân thành, Ngài đã ương ngạnh từ
chối việc bỏ bớt những sự kiện vụng về hay là giải thích chúng. Chẳng hạn không
thánh sử nào giấu giếm sự chậm hiểu của các thánh tông đồ, nhưng ở Marcô nhấn mạnh:
"Lòng họ ra như chai lại" ( Mc 6,51). Marcô cũng không che dấu tham vọng
không thể tin nổi của họ (Mc 9,34). Chính Phêrô cũng rất thẳng thắn: "Ông
không biết phải đáp ứng làm sao" (Mc 9,6). Có lẽ chứng cớ hùng hồn nhất
nói lên sự lương thiện của Marcô là Ngài đã liều tỏ ra mâu thuẫn với chính
mình.
Chẳng
hạn đối với Ngài Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa với ý nghĩa đầy đủ nhất của từ ngữ
"vượt các thiên thần" (3,32) "có quyền tha tội" (2,10).
Nhưng rồi Ngài không ngần ngại viết rằng: "Ở Nazareth Người đã không làm
được phép lạ nào" (6,5) Ngài cũng không dấu diếm sự kiện bà con Chúa Giêsu
nghi ngờ Người thiếu khôn ngoan (3,21) hay sự kiện Chúa Giêsu thất vọng với cây
vả không trái (11,13). Những chi tiết loại này khiến cho tựa đề của Marcô được
nguyên vẹn (Phúc âm Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa) nhưng lại mang dáng vẻ khó
hiểu vì Ngài đã không thèm dấu giếm gì hết. Với một sử gia tài danh như vậy,
chúng ta rất an tâm.
Tại đền
thờ thánh Marcô người ta nói có chôn dưới bàn thờ thánh nhân do các thương gia
mang từ Alexandria về vào thế kỷ IX. Thánh sử được biểu trưng bằng hình con sư
tử vì Phúc âm của Ngài mở dầu bằng tiếng nói oai hùng của Gioan tẩy giả từ
trong sa mạc. Đọc Phúc âm theo thánh Marcô, chúng ta như có thể nghe tiếng nói
thô sơ của thánh sử "Đừng nhìn tôi, hãy nhìn Người".
(daminhvn.net)
25
Tháng Tư
Sư Tử Có Ðôi Cánh
Khách
du lịch đến thưởng ngoạn Venezia, một thành phố mơ mộng nằm trên sông nước và
được làm tăng thêm vẻ đẹp bằng những công trình kiến trúc độc đáo cũng như bằng
những tác phẩm nghệ thuật thời danh nằm ở mạn đông bắc Italia, không thể bỏ qua
công trường Marcô, công trình mang tên của vị thánh bổn mạng của thành phố
Venezia và cũng là vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay.
Trên
con đường tiến gần đến công trường Marcô, du khách nhìn thấy một con sư tử có
đôi cánh đứng sừng sững trên một ngọn tháp cao. Hình sư tử này nhắc đến sự nghiệp
viết sách Phúc Âm đầu tiên của thánh Marcô, như chứng từ của sử gia Papias,
sinh sống vào cuối thế kỷ thứ hai viết như sau:
"Marcô,
người thông ngôn của Phêrô, đã viết ra đúng những gì nhớ được, tuy không theo
thứ tự, về những điều Ðức Kitô đã nói và đã làm. Marcô không trực tiếp nghe
Chúa giảng, cũng không phải là môn đệ của Ngài. Nhưng ông đã tháp tùng Phêrô,
người đã giảng dạy theo những gì ông cảm thấy cần thiết, chứ không phải chủ tâm
thuật lại lời Chúa một cách có hệ thống".
Marcô
là người thông ngôn và lãnh trách nhiệm chép lại những lời Phêrô giảng, vì thế
không lạ gì ở cuối bức thư thứ nhất, Phêrô gọi ông là "Marcô, người con của
tôi".
Ngoài
sự gần gũi với thánh Phêrô, Marcô cũng tiếp xúc lân cận với Phaolô, bắt đầu vào
lần gặp gỡ đầu tiên vào năm 44, khi Phaolô và Barnaba đưa về Giêrusalem số tiền
cộng đoàn Antiokia quyên được để trợ giúp cộng đoàn Mẹ. Khi trở về, Barnaba đem
theo Marcô, là cháu của ông.
Sau
đó, trong khi đồng hành với Phaolô và Barnaba để hoạt động truyền giáo ở đảo
Cypre, vì một sự bất đồng ý kiến nào đó, Marcô đã bỏ về Giêrusalem. Vì lý do
này, trong chuyến truyền giáo thứ hai, Phaolô đã nhất quyết không cho Marcô
theo, mặc dù Barnaba tha thiết yêu cầu. Sự kiện này đã gây đổ vỡ đến sự cộng
tác giữa Phaolô và Barnaba.
Nhưng
trong những ngày cuối đời, khi chờ đợi ngày hành quyết, Phaolô đã viết thư nhắn
với Timôthê: "Hãy đem cả Marcô đến nữa, vì tôi cần sự giúp đỡ của anh ấy lắm".
Bạn bè người ta muốn gặp trong những ngày cuối đời phải là những người đồng
sinh đồng tử!
Những
chi tiết khác nhau đó của cuộc đời của thánh Marcô không lấy gì làm chắc. Có tài
liệu cho là thánh nhân chết tự nhiên. Tài liệu khác lại cho là thánh nhân được
phúc tử đạo. Vương cung thánh đường tại công trường Marcô ở Venezia tự hào là
còn giữ lại hài cốt của Ngài.
Trong
cuộc sống, Marcô đã chu toàn bổn phận mà mọi người Kitô được kêu gọi phải thực
thi: Ðó là rao giảng Tin Mừng và làm chứng về Ðức Kitô. Marcô đã thực hiện công
việc này đặc biệt qua công tác viết sách Phúc Âm, những người Kitô khác qua kịch
nghệ, âm nhạc, thơ phú hay qua việc dạy đạo cho con em quanh bàn ăn của gia đình
hoặc qua cuộc sống chứng tá trong những sinh hoạt và nếp sống hằng ngày.
(Lẽ
Sống)
Lectio Divina: Thánh Máccô, Phúc Âm Thánh Sử - Mc 16:15-20
Thứ
Hai, 25 Tháng 4, 2016
Thánh
Mátthêu, Thánh Sử
Mùa
Phục
Sinh
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy
Chúa là Thiên Chúa của chúng con,
Có rất
nhiều điều trong chúng con đã che lấp lời của Chúa
Và
ngăn trở chúng con trở thành Giáo Hội thật sự của Chúa.
Hôm
nay, chúng con cầu xin Chúa:
Xin
hãy gọi chúng con, như Chúa đã gọi Máccô xưa kia,
Để
chúng con nói và sống Lời Chúa.
Xin
Chúa hãy linh ứng chúng con qua Chúa Thánh Thần
Và
xin hãy dạy chúng con sống trong hy vọng
Rằng
vương quốc của Chúa sẽ đến
Và ở
lại giữa chúng con
Nhờ Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng con
Bây
giờ và muôn đời.
2.
Bài Đọc Tin Mừng – Máccô 16:15-20
Khi ấy,
Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế
gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ
được ơn cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi
theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng
mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ
đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh.” Vậy sau
khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các
ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
3.
Suy Niệm
- Bài Tin Mừng hôm nay là một phần
của phần phụ lục của sách Tin Mừng Máccô (Mc 16:9-20), trong đó trình bày bản
danh sách một số lần hiện ra của Chúa Giêsu: với bà Maria Mađalêna (Mc
16:9-11), với hai môn đệ đang trên đường về miền quê (Mc 16:12-13) và với nhóm
Mười Một tông đồ (Mc 16:14-18). Lần hiện ra cuối cùng này cùng với lời tường
thuật việc Chúa về Thiên Đàng (Mc 16:19-20) tạo thành bài Tin Mừng hôm nay.
- Mc 16:14: Các
phép lạ kèm theo với lời loan báo Tin Mừng. Chúa Giêsu hiện ra với mười một
tông đồ và quở trách các ông vì đã không tin vào những người đã trông thấy Chúa
đã phục sinh. Các ông đã không tin lời bà Maria Mađalêna (Mc 16:11), cũng
chẳng tin hai môn đệ trên đường đi về miền quê (Mc 16:13). Nhiều lần,
thánh Máccô đề cập đến sự ương ngạnh của các môn đệ trong việc tin vào những
nhân chứng là những người đã có kinh nghiệm về sự Phục Sinh của Chúa
Giêsu. Tại sao thánh Máccô lại nhấn mạnh rất nhiều đến việc thiếu lòng
tin của các môn đệ như vậy? Có lẽ, để giảng dạy hai điều: Thứ nhất,
đó là niềm tin vào Chúa Giêsu phải đi qua lòng tin vào những người làm chứng.
Thứ hai, không ai được nản lòng khi có sự ngờ vực trong lòng. Ngay cả
nhóm mười một môn đệ cũng đã hoài nghi!
- Mc 16:15-18: Sứ
vụ loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới. Sau khi đã quở trách việc thiếu
lòng tin của các môn đệ, Chúa Giêsu giao phó sứ vụ cho các ông: “Các con
hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, Ai tin và chịu
phép rửa, thì sẽ được ơn cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt.” Đối với
những ai đã có đủ can đảm để tin vào Tin Mừng và những ai đã chịu phép rửa,
Chúa Giêsu hứa hẹn những phép lạ sau đây: họ sẽ trừ quỷ, họ sẽ nói được
nhiều thứ tiếng lạ, họ sẽ cầm rắn trong tay và sẽ không bị hề hấn gì nếu họ uống
phải chất độc, họ sẽ đặt tay trên những người bệnh và những bệnh nhân này sẽ khỏi
bệnh. Điều này vẫn còn xảy ra ngay cả ngày nay:
* Trừ
quỷ: đó là để chiến đấu chống lại quyền lực tội lỗi phá hủy sự sống.
Đời sống của nhiều người cải thiện bởi vì họ đã gia nhập vào cộng đoàn và đã bắt
đầu sống Tin Mừng về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của họ.
* Nói
nhiều ngôn ngữ lạ: đó có nghĩa là bắt đầu thông tri với người khác theo
phương cách mới. Thỉnh thoảng chúng ta gặp một người mà chúng ta chưa từng
gặp bao giờ, thế mà dường như chúng ta đã quen biết người ấy lâu rồi. Điều
này xảy ra bởi vì chúng ta nói cùng một ngôn ngữ, ngôn ngữ của tình yêu.
* Chất
độc sẽ chẳng làm hại được họ: có nhiều điều đầu độc cuộc sống chung, cuộc
sống cộng đoàn. Có quá nhiều chuyện bàn tán phá hủy mối quan hệ giữa các
cá nhân. Một người sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa không nên quan
tâm đến những chuyện này và do đó không thể bị quấy rầy bởi chất độc khủng khiếp
này.
* Họ
chữa bệnh: Bất cứ nơi nào có một lương tâm trong sáng và sống động về sự
hiện diện của Thiên Chúa, thì nơi đó cũng có một sự chăm sóc đặc biệt dành cho
những kẻ bị thiệt thòi và hắt hủi, cách riêng là những kẻ bệnh tật. Điều
mà có thể giúp chữa lành là người đó cảm thấy được chấp nhận và yêu thương.
- Mc 16:19-20:
Qua cộng đoàn, Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ của mình. Chính Chúa Giêsu đã sống
ở vùng Paléstine, và chấp nhận người nghèo khó của thời bấy giờ, mặc khải tình
yêu của Chúa Cha với họ, và trong cùng cách này Chúa Giêsu tiếp tục sống ở giữa
chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta. Qua chúng ta, Người muốn tiếp tục sứ
vụ của Người để mặc khải Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa dành cho những kẻ
nghèo khó. Ngay cả ngày nay, việc sống lại vẫn diễn ra. Và nó thôi
thúc chúng ta phải ca khen lên: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu
của Đức Kitô?” Không có một quyền lực nào của thế gian này có thể tách rời
chúng ta khỏi sức mạnh đến từ đức tin vào Chúa Phục Sinh (Rm 8:35-39). Một
cộng đoàn muốn trở thành nhân chứng cho Chúa Phục Sinh phải là một dấu chỉ của
sự sống, phải đấu tranh chống lại quyền lực của sự chết, theo một cách mà thế
gian có thể là nơi thuận lợi cho sự sống, nơi để tin rằng một thế giới khác là
điều có thể. Hơn hết cả, tại châu Mỹ Latin, nơi đời sống người dân đang gặp
nguy khốn bởi vì chế độ chết chóc đã được áp đặt, các cộng đoàn phải là một bằng
chứng sống động cho niềm hy vọng vượt thắng thế gian, mà không sợ được hạnh
phúc!
4.
Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Những dấu chỉ về sự hiện diện của
Thiên Chúa xảy ra trong đời sống của tôi như thế nào?
- Ngày nay, những dấu chỉ nào về sự
hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta sẽ thuyết phục người ta nhất?
5.
Lời nguyện kết
Tình
thương CHÚA, đời đời con ca tụng,
Qua
muôn ngàn thế hệ
Miệng
con rao giảng lòng thành tín của Ngài.
Vâng
con nói: “TÌnh thương ấy được xây dựng tới thiên thu,
Lòng
thành tín Chúa được thiết lập trên trời.”
(Tv
89:1-2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét