Trang

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

29-03-2013 : (Phần I) THỨ SÁU TUẦN THÁNH


Thứ Sáu Tuần Thánh
Kỷ Niệm Cuộc Khổ Nạn Của Chúa

 Phần Thứ Nhất: Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 52, 13-53, 12
"Người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta".
(Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa)
Trích sách Tiên tri Isaia.
Này tôi tớ Ta sẽ được cao minh, sẽ vinh thăng tấn phát, cao cả tuyệt vời. Cũng như nhiều người đã kinh ngạc, vì thấy người tàn tạ mất hết vẻ người, dung nhan người cũng không còn nữa, cũng thế, muôn dân sẽ sửng sốt, các vua không còn biết nói chi trước mặt người. Vì họ sẽ thấy việc chưa ai kể cho mình, sẽ biết điều mình chưa hề được nghe.
Ai mà tin được điều chúng ta nghe? Và Chúa đã tỏ ra sức mạnh cho ai? Người sẽ lớn lên trước mặt Ngài như một chồi non, như một rễ cây, tự đất khô khan. Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta.
Người hiến thân vì người tình nguyện và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông, người thinh lặng chẳng hé môi. Do cưỡng bách và án lệnh, người đã bị tiêu diệt; ai sẽ còn kể đến dòng dõi người nữa, bởi vì người đã bị khai trừ khỏi đất người sống; vì tội lỗi dân Ta, Ta đánh phạt người. Người ta định đặt mồ người giữa những kẻ gian ác, nhưng khi chết, người được chôn giữa kẻ giàu sang, mặc dầu người đã không làm chi bất chánh, và miệng người không nói lời gian dối. Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ. Bởi đó, Ta trao phó nhiều dân cho người, người sẽ chia chiến lợi phẩm với người hùng mạnh. Bởi vì người đã hiến thân chịu chết và đã bị liệt vào hàng phạm nhân, người đã mang lấy tội của nhiều người, và đã cầu bầu cho các phạm nhân.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 30, 2 và 6. 12-13. 15-16. 17 và 25
Ðáp: Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha (Lc 23, 46).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con muôn đời tủi hổ, vì đức công minh Ngài, xin cứu chữa con! Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành, xin cứu chữa con. - Ðáp.
2) Con trở nên đồ ô nhục đối với những người thù, nên trò cười cho khách lân bang, và mối lo sợ cho người quen biết; gặp con ngoài đường, họ tránh xa con. Con bị người ta quên, không để ý tới, dường như đã chết, con đã trở nên như cái bình bị vỡ tan. - Ðáp.
3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài, con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con! Vận mạng con ở trong tay Ngài, xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những người bách hại. - Ðáp.
4) Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu hiền, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa. Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo, hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Dt 4, 14-16; 5, 7-9
"Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời".
Trích thư gởi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, chúng ta có một thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.
Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.


Phúc Âm: Ga 18, 1 - 19, 42
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng:
J. "Các ngươi tìm ai?"
C. Chúng thưa lại:
S. "Giêsu Nadarét".
C. Chúa Giêsu bảo: "Ta đây".
C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng:
J. "Các ngươi tìm ai?"
C. Chúng thưa:
S. "Giêsu Nadarét".
C. Chúa Giêsu đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi".
C. Như thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con". Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Ðầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng:
J. "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!"
C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô:
S. "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?"
C. Ông đáp:
S. "Tôi không phải đâu".
C. Ðám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp:
J. "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói".
C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói:
S. "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?"
C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông:
S. "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?"
C. Ông chối và nói:
S. "Tôi không phải đâu".
C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng:
S. "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?"
C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói:
S. "Các ngươi tố cáo người này về điều gì".
C. Họ đáp:
S. "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan".
C. Philatô bảo họ:
S. "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông".
C. Nhưng người Do-thái đáp lại:
S. "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả".
C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi:
S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"
C. Philatô đáp:
S. "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này".
C. Philatô hỏi lại:
S. "Vậy ông là Vua ư?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi".
C. Philatô bảo Người:
S. "Chân lý là cái gì?"
C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ:
S. "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?"
C. Họ liền la lên:
S. "Không phải tên đó, nhưng là Baraba".
C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói:
S. "Tâu Vua Do-thái!"
C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói:
S. "Ðây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án".
C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ:
S. "Này là Người".
C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to:
S. "Ðóng đinh nó vào thập giá! Ðóng đinh nó vào thập giá!"
C. Philatô bảo họ:
S. "Ðấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông".
C. Người Do-thái đáp lại:
S. "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa".
C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu:
S. "Ông ở đâu đến?"
C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn".
C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên:
S. "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa".
C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân:
S. "Ðây là vua các ngươi".
C. Nhưng họ càng la to:
S. "Giết đi! Giết đi! Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô nói:
S. "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?"
C. Các thượng tế đáp:
S. "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa".
C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.
Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
S. Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'".
C. Philatô đáp:
S. "Ðiều ta đã viết là đã viết".
C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau:
S. "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy".
C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó.
Ðứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:
J. "Hỡi Bà, này là con Bà".
C. Rồi Người lại nói với môn đệ:
J. "Này là Mẹ con".
C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:
J. "Ta khát!"
C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:
J. "Mọi sự đã hoàn tất".
C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Ðấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.


Phụng Vụ Thứ Sáu Tuần Thánh A
Người Tôi Tớ Của Thiên Chúa
(Ys 52,13-53,12; Hr 4,14-16;5,7-9; Yn 18,1-19,42)

Phụng Vụ Thứ Sáu Tuần Thánh A
Ys 52,13-53,12; Hr 4,14-16;5,7-9; Yn 18,1-19,42
Phụng vụ hôm nay không phải là Phụng vụ Thánh Thể mà là Phụng vụ Thánh Giá. Cao điểm của buổi phụng vụ này là nghi thức mở Thánh Giá và thờ lạy Thánh Giá. Nhưng để giúp chúng ta hiểu biết mầu nhiệm Thánh Giá, ba bài Kinh Thánh vừa nghe lần lượt giới thiệu với chúng ta những khía cạnh của Thánh gía Ðức Kitô, cũng là những nét chính trên khuôn mặt Ðức Kitô ở trên Thánh giá. Là vì từ ngày Người bị đóng đinh, thập giá đã trở thành Thánh giá khi mang xác thánh Người; và như lời thánh Phaolô nói, chúng ta cũng chẳng biết một Ðức Kitô nào khác ngoài chính Ðức Kitô đã bị đóng đinh vào Thập giá. Nên suy nghĩ về Thánh giá, là chiêm ngưỡng Ðức Kitô chịu đóng đinh. Qua những bài Kinh Thánh vừa nghe, Phụng vụ muốn chúng ta nhìn ngắm Ðức Kitô trên Thánh giá như là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, như là Vị Thượng Tế của Ðạo Mới, và như là Ðấng Hoàng Ðế đã cứu chuộc chúng ta.

A. Người Tôi Tớ Của Thiên Chúa
Isaia có một đoạn sách rất mầu nhiệm, đoạn mà chúng ta vừa nghe đọc. Cho đến ngày Ðức Kitô chịu treo trên Thập giá, người ta chẳng hiểu gì về đoạn sách này. Tác giả nói đến một người Tôi Tớ của Ðức Yavê. Người có đủ mọi tư cách của một người công chính và của một vị tiên tri. Hơn nữa đó còn là Vị Tiên tri công chính đặc biệt. Chẳng người công chính và vị tiên tri nào trong lịch sử hội đủ những tư cách của Người. Phải nói Người là vị thánh duy nhất và là Người của Thiên Chúa có một không hai. Bản chất của con người của Người đã rất mầu nhiệm vì dường như Người không phải là một cá nhân nhưng là toàn dân Thiên Chúa ở nơi Người. Ðịnh mệnh của Người còn mầu nhiệm hơn nữa. Người đạo đức thánh thiện tuyệt vời, thế mà không hiểu sao lại bị đánh đập, mắng chửi, ruồng rẫy, vất bỏ như một tên vô đạo, như một kẻ bất lương. Và cực hình Người phải chịu dữ dằn đến nỗi làm nát khuôn mặt Người, khiến ai nhìn vào cũng phải rùng rợn ngó đi nơi khác. Thế rồi Người được tôn vinh, tôn vinh đến cùng độ khiến cả thiên hạ phải ngỡ ngàng. Ai hiểu được con người lạ lùng ấy? Isaia viết ra theo ơn linh hứng cũng phải bàng hoàng. Ông suy nghĩ và táo bạo viết thêm chính vì tội lỗi loài người mà Vị công chính kia phải chịu khổ như vậy. Người là bầy tôi Thiên Chúa dùng để gánh vác các khổ đau của chúng ta, hầu trở nên Vị trung gian cầu bầu cho tội nhân. Isaia được linh hứng viết đoạn trên, nhưng ông cũng như mọi độc giả đều ngậm tăm, chẳng biết nhân vật mình mô tả đó là ai. Lời tiên tri trên còn chờ mạc khải.
Nay Ðức Kitô chịu treo trên Thập giá. Và chính lúc ấy trời đất chuyển động. Nhiều kẻ đấm ngực ăn năn thú nhận: Người bị treo kia thật là Con Thiên Chúa. Mầu nhiệm Phục sinh tiếp đến chứng thực cho lời thú nhận trên. Và bài sách Isaia nay được ứng nghiệm. Ðức Kitô bị đóng đinh chính là Ðấng Thánh đã mang lấy tội lỗi và khổ đau của loài người. Người bị đánh đập, ruồng rẫy, vứt bỏ như viên đá mà thợ xây quẳng đi. Nhưng Thiên Chúa đã nhặt lại làm đá góc xây nên Ðền thờ mới là Hội Thánh hiện thời. Ðức Kitô Chúa chúng ta đã hoàn tất lời tiên tri; đã làm trọn thời Cựu ước; đã trở nên phương xá cứu rỗi loài người.
Bài sách Isaia ít nhất khuyên nhủ chúng ta điều này: mỗi khi nhìn vào Thập giá Ðức Kitô, lập tức chúng ta phải nghĩ đến tội lỗi lớn lao và khổ đau dữ dằn của loài người. Không có tội lỗi và hậu quả của nó, thì không có việc Ðức Kitô phải đập đánh và khổ đau trên Thập giá. Thân thể rách nát của Người nhắc nhở chúng ta ý thức sự kiện tội lỗi tràn lan mọi nơi, mọi thời một cách thật độc dữ. Và trước hết chính mỗi người chúng ta phải nhận thức lương tâm và đời sống nhiều khi còn tội lỗi của mình. Thiếu sự công nhận này là phủ nhận Thánh giá Ðức Kitô; là không chấp nhận ý nghĩa cứu thế của việc Người tử nạn; là cho rằng việc Người chịu chết thật vô ích, nếu không phải chỉ có hệ tới Người. Và như vậy rõ rệt là phạm thượng và xúc phạm.
Ngược lại, ai có cái nhìn như Isaia, ai nhận thức rằng Ðấng bị treo trên Thập giá đã phải khổ hình vì tội lỗi chúng ta, người đó dễ nhận ra Ðức Kitô bị đóng đinh hiện nay là Vị trung gian cầu bầu cho kẻ có tội. Khi ấy Thập giá của Người trở nên Thánh giá, trở thành phương xa cứu độ loài người tội nhân.
Thế nên thái độ đầu tiên phải có để cử hành Phụng vụ Thánh giá hôm nay là tâm tình nhận thức mình là tội nhân và Ðấng bị đóng đinh kia đang đau khổ vì mình; chúng ta đến với Thập giá vừa khiêm cung vừa cảm mến. Cái hôn nồng nàn đặt vào chân Ðấng bị đóng đinh sẽ có giá trị tha tội khác nào những cái hôn đầy nước mắt của bà Maria đặt vào chân Chúa khi Người còn sống. Ðó là những cái hôn thú nhận tội lỗi và trao phó chúng cho Ðấng đầy yêu thương muốn gánh đỡ hết tội lỗi của loài người.
Tuy nhiên bài sách Isaia mới đem đến thái độ mở đầu. Chúng ta còn phải đi xa hơn nữa vào Phụng vụ Thánh giá hôm nay. Và bài thư Hipri tiếp sau gợi lên một tâm tình mới.

B. Vị Thượng Tế Của Ðạo Mới
Tác giả thư Hipri nói với chúng ta: Ðức Kitô bị đóng đinh Thập giá là Vị Thượng tế đã tiến vào thiên cung. Không giống như bất cứ vị thượng tế nào trong đạo cũ, hay đã gặp ở trần gian này, Vị Thượng tế của chúng ta độc nhất vô song và đáng tin cậy hoàn toàn, vì lẽ Người đã chịu khổ nạn.
Ý tác giả muốn nói gì? Mấy lời thư chúng ta vừa nghe chỉ nêu lên một ý tưởng. Theo ông, cuộc khổ nạn Ðức Kitô đã chịu chứng tỏ Người có lòng tôn kính vâng phục Thiên Chúa. Người đã khiêm nhường sấp mình nài van Ðấng có thể cứu thoát Người khỏi chết. Lòng vâng phục của Người đã khiến Người được chấp nhận. Và cũng nhờ sự vâng phục cho đến chết như thế, Người đã trở nên phương xá tội tất cả những ai tùng phục Người.
Muốn hiểu ý tác giả một cách đơn sơ, có lẽ chúng ta có thể nói theo như đã học biết. Thánh Kinh dạy loài người đã sa ngã phạm tội bất vâng phục Thiên Chúa và càng đi càng vấp váp nặng nề. Ðức Kitô đến gánh vác mọi tội lỗi trần gian. Người phải tỏ ra vâng phục hết mình, tức là phải vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá. Khi đó Người mới được nâng lên, trở thành phương xá cứu độ tất cả những ai chấp nhận tinh thần vâng phục của Người. Nói một cách vắn tắt hơn, như vì sự bất tuân phục của một người mà cả loài người phải chết, thì nay nhờ sự vâng phục của một người khác mà cả nhân loại lại được sống. Nhiều tác giả đạo đức còn suy nghĩ thêm: như loài người đã hư đi vì một người đã bất tuân phục nơi cây trái cấm, thì nay nhân loại được cứu chuộc nhờ một người khác đã vâng phục cho đến chết và chết trên cây gỗ. Do đó, Thánh giá Ðức Kitô đã trở thành cây thang đưa người ta trở về Thiên Quốc. Và Ðức Kitô cũng chỉ có thể lên nơi vinh hiển qua nhiều gian khổ đớn đau để học biết vâng phục.
Tuy nhiên như vậy chúng ta vẫn chưa nói đủ về tư cách Thượng tế của Ðức Kitô như bài Thánh thư hôm nay muốn. Tác giả nghĩ đến ngày xá tội trong dân Dothái. Ông thấy đạo cũ đặt cả tin tưởng vào vị thượng tế, khi ngài bước vào cung cực thánh, dâng máu chiên máu bò để xin ơn tha tội. Ðó là lễ xá tội lớn nhất của đạo cũ. Ðó là ngày thượng tế thi hành đặc quyền của mình. Nhưng nếu chỉ có vậy, thì sánh làm sao được với lễ xá tội trong Ðạo Mới? Hay nói cách khác, lễ đền tội trên Thánh giá tỏ ra trổi vượt hơn biết bao! Ở đây không phải là vị thượng tế thường, nhưng là vị Thượng tế tuyệt vời. Ở đây không phải chỉ là máu chiên máu bò, nhưng là chính Máu Thánh Ðức Kitô. Ở đây vị Thượng tế không khách quan dùng một hy lễ ngoài mình để dâng lên, nhưng dâng chính sự đau khổ và sự chết của mình làm Hy tế. Nhất định vị Thượng tế này thật là trổi vượt, Hy tế của Người thật là giá trị. Thế nên chúng ta hãy tin tưởng đến gần ngai ân sủng để được cứu độ. Và để lòng tin tưởng không bị một nghi ngờ nào có thể làm lung lay, thì chúng ta cũng cần biết: Vị Thượng tế của chúng ta thông cảm vô ngần, vì Người đã kinh nghiệm nơi cuộc đời và thân thể của Người mọi nỗi khổ đau của chúng ta ngoài trừ tội lỗi.
Nói đúng ra, khi nêu lên lý do tin tưởng này, tác giả cũng hàm ý bảo chúng ta: muốn tin tưởng đến gần ngai ân sủng, chúng ta cũng phải cảm thông những đau khổ đớn đau của Người. Cũng như khi gợi lên giá trị của sự vâng lời trong cuộc Khổ nạn của Ðức Kitô, tác giả đã khuyên ta chỉ mong được cứu độ khi chúng ta tuân phục Người.
Như vậy bài thư Hipri đã đi xa hơn bài sách Isaia nhiều. Nhìn vào Thánh giá Ðức Kitô không những chúng ta phải nhận thức rằng chính vì tội lỗi của loài người chúng ta mà Người Tôi Tớ Thiên Chúa đã phải cực hình như vậy; nhưng sau bài thư Hipri, chúng ta còn thấy rõ hơn; Ðức Kitô đã phải đi qua nhiều đau khổ và chết trên Thập giá để học biết và chứng tỏ lòng vâng phục hầu chuộc tội bất tuân phục, khiến một đàng Người trở thành vị Thượng tế duy nhất có thể ban ơn tha tội và đàng khác chúng ta chỉ có thể đến gần ngai ân sủng nếu tùng phục Ðấng đã bị đóng đinh, tức là tham gia vào cuộc Khổ nạn của Người. Tư tưởng cuối cùng này dẫn ta sang bài tường thuật việc Chúa chịu nạn theo Tin Mừng Yoan.

C. Ðấng Hoàng Ðế Cứu Ðộ
Như đã có lần chúng ta nói: mỗi tác giả Tin Mừng có một lối riêng để trình bày việc Chúa chịu chết. Nhờ vậy chúng ta có những bài tường thuật phong phú và độc đáo. Cách thánh Yoan thuật lại việc Chúa chịu nạn cũng thật là của người. Ở đây chúng ta chỉ làm nổi bật lên hai tư tưởng: Ðức Kitô là Thượng Tế và là Hoàng Ðế.
Nếu tác giả thư Hipri còn nhận thấy Chúa chịu đóng đinh là Thượng tế tuyệt vời, thì huống nữa là tác giả Tin Mừng Yoan. Cuốn Tin Mừng sau chót này luôn có khuynh hướng phụng vụ: làm sao lại có thể không nhận ra khuôn mặt Tư tế của Ðức Kitô trong cuộc Người thương khó?
Theo Yoan, sau khi bị bắt, Ðức Yêsu bị điệu đến nhà Hanna là thân phụ của vị thượng tế năm ấy là Caipha. Và khi Người ở trước mặt ông này, Yoan dùng đi dùng lại danh từ thượng tế để chúng ta thấy rõ tư cách trổi vượt của Ðức Yêsu, khiến chúng ta công nhận chức thượng tế của đạo cũ không còn giá trị gì nữa.
Rồi Yoan phân biệt rõ trong số y phục của Chúa mà lý hình đem ra chia nhau, có cái áo dài một đường chỉ. Lý hình đã để nguyên và rút thăm. Cái áo ấy gợi lên hình ảnh cái áo dài của thầy thượng tế. Và như vậy, Yoan muốn cho chúng ta nhìn nhận nơi Ðức Kitô chịu đóng đinh, vị Thượng tế ở trên bàn thờ Thánh giá.
Mà quả thật Thánh giá đã trở thành bàn thờ của Ðạo Mới. Khi người lính không đánh dập ống chân Chúa như đã làm cho hai người tử tội hai bên, Yoan đã nhận ra Người là Chiên Vượt qua, mà khi hy tế không được để gẫy một cái xương nào.
Hơn nữa, lúc người lính cầm đòng đâm cạnh sườn Chúa, Yoan thấy nước với máu chảy ra. Ông thấy ngay đó là Ðền thờ Yêrusalem mới, có nước sinh sống chảy ra từ bên hông, đem sự sống mới đến phục sinh mọi loài.
Như vậy Yoan đã kín đáo nhưng rất tài tình và sâu sắc giới thiệu Ðức Kitô chịu cực hình là Thượng tế, là Ðền thờ, là Hy lễ, tức là tất cả tôn giáo mới của chúng ta. Ông đồng ý với tác giả thư Hipri. Cũng như ông nhắc lại một câu trong sách Isaia để chứng tỏ ông coi Ðức Kitô chịu nạn đây là Người Tôi Tớ Thiên Chúa: "Chúng sẽ trông lên Người chúng đã đâm".
Nhưng khi trông lên Ðấng đã bị đâm, Yoan còn nhìn thấy Người là Hoàng đế muôn dân trông đợi. Tác giả sách Tin Mừng thứ tư có cái nhìn đặc biệt này: ngay khi thấy Ðức Yêsu còn sinh hoạt ở trần gian này, ông đã nhìn ra vinh quang của Người là Ngôi Lời Thiên Chúa. Lúc nào Người cũng có vẻ uy nghi, mặc dầu kín đáo, vì Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm. Thế nên cả trong cuộc Khổ nạn này, Ðức Kitô uy nghi, lẫm liệt, và có thể nói, hơn bao giờ hết. Một mình Yoan đã nói lên cái oai của Ðức Kitô nơi vườn Cây Dầu. Tiếng của Người vừa phán, bọn lính đã ngã lăn ra. Mà không phải chỉ một lần! Thái độ của Người ở trước tòa Caipha cũng vậy. Ðặc biệt cuộc đối thoại giữa Người với Philatô. Yoan thuật lại tỉ mỉ và ông đã giải thích vương quyền của Chúa là gì. Ðến nỗi Philatô bị ám ảnh. Hay bị chinh phục? Ông đã đưa Ðức Kitô ra trước mặt dân, chỉ vào Người mà tuyên bố: Ðây là Người. Nhưng ông cũng đã nói: Ðây là Vua các ngươi! Rồi một mình tác giả Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh việc Philatô từ chối không sửa lại bảng viết đặt trên đầu Thánh giá Ðức Yêsu. Ông muốn muôn đời người ta nhìn nhận Ðấng chịu đóng đanh đây là Hoàng đế cứu độ muôn dân. Ông ngồi ghế quan tòa, mà cuối cùng đã thú nhận người bị xét xử kia là Vua! Cũng như Caipha là thượng tế đã bị mất mặt trước Vị Thượng tế mới!
Vậy, nếu chúng ta phải tóm tắt những tư tưởng và tâm tình của Phụng vụ muốn chúng ta phải có khi đến với Thánh giá Ðức Kitô, thì chúng ta có thể nói:
* Mọi người hãy như Isaia nhìn lên Thập giá mà nhận thức rằng: Thân thể tan nát kia là nạn nhân của tội lỗi. Ðó là Người Tôi Tớ Thiên Chúa đã gánh chịu mọi tội lỗi và hậu quả của trần gian. Không thể tôn thờ Thánh giá mà không nhìn nhận phần trách nhiệm tội lỗi của mình; nên phải thống hối ăn năn đến với Thánh giá Chúa Kitô.
* Khi đó, theo lời thư Hipri, chúng ta sẽ được dạn dĩ, tin tưởng đến gần ngai ân sủng vì có Ðức Kitô làm Thượng tế. Người đã chịu đóng đinh để tiến vào thiên cung với Máu Thánh của Người, hầu cầu bầu ơn tha thứ cho chúng ta với một tấm lòng rất thông cảm mọi sự yếu đuối của chúng ta.
* Như vậy, chúng ta hãy để Ðức Kitô chịu đóng đinh kéo mình lên với Người. Chính Người đã phán: khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta. Người thống nhất mọi sự khi ở trên Thánh giá. Người chinh phục mọi người khi hy sinh đến cả mạng sống cho người mình yêu. Người là Vua Tình yêu khi chịu đóng đinh.
Phụng vụ hôm nay quy tụ chúng ta lại bên Thánh giá. Chúng ta hãy nhìn lên Ðấng đã bị đóng đinh và bị lưỡi đòng đâm thâu. Người đang khẩn khoản nài xin Chúa Cha tha tội cho chúng ta. Và ơn tha tội ấy như đang chảy ra từ cạnh sườn Người trong Nước và Máu để rửa sạch và tưới mát chúng ta thành tạo vật mới. Như vậy Ðấng bị đóng đinh vừa là Của Lễ Ðền Tội, vừa là Vị Thượng Tế ban ơn cứu độ và là Thủ Cấp của một cơ thể mới, hay là Vua của Dân Thánh Mới. Chúng ta đến với Thánh giá không những trong tâm tình ăn năn thống hối, nhưng còn để được đổi mới canh tân và ý thức từ nay phải liên kết với Vị Thủ Lãnh của mình đang giang tay trên Thập giá để cầu bầu cho nhân loại và đang để mở cạnh sườn cho thiên hạ thấy tình yêu to lớn đã hy sinh phục vụ cho đến chết và chết trên Thập giá. Liên kết với Ðấng yêu thương loài người như vậy, chúng ta hãy đứng lên cầu nguyện cho mọi hạng người, mong mọi người đến thờ lạy Thánh giá Chúa Kitô.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
(Veritas Asia)


Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!
Bài Suy Niệm của ÐTC Gioan Phaolô II trong Buổi Ði Ðàng Thánh Giá Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2002 (Ga 18,1-19,42)
1. Crucem tuam adoramus, Domine!  - Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!
Ở cuối của lời cầu xúc động này về cuộc Vượt Qua của Ðức Kitô, tia nhìn của chúng ta vẫn hướng về Thánh Giá. Chúng ta suy niệm trong đức tin mầu nhiệm cứu độ được mạc khải cho chúng ta. Khi chết đi, Ðức Giêsu vén lên bức màn trước mắt chúng ta, và giờ đây Thánh Giá đứng thẳng trên thế giới trong tất cả sự huy hoàng của nó. Sự yên lặng đem lại an bình của Ðấng mà sự dữ thế gian đã treo lên Cây này đang hé lộ ra hòa bình và yêu thương. Trên Thánh Giá, Con Người đã chết, mang theo với Ngài gánh nặng của mọi khổ đau và bất công nhân thế. Trên đồi Golgotha, Ðấng, mà qua cái chết của Ngài đã cứu rỗi thế giới, chết vì chúng ta.
2. "Họ sẽ nhìn ngắm Ðấng mà họ đã đâm thâu qua" (Ga 19,37).
Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh chứng kiến những lời các tiên tri được nên trọn, những lời mà Thánh Sử Gioan, một chứng nhân tận mắt, đã thấy được sự chính xác khi suy niệm trong lòng, Thiên Chúa làm người, Ðấng vì yêu thương đã chấp nhận hình phạt nhục nhã nhất mà bao nhiêu chủng tộc và các nền văn hóa ngày nay đang chứng kiến. Khi tia nhìn của họ được dẫn dắt bởi cảm nhận sâu sắc của đức tin, họ nhận ra trong Ðấng Bị Ðóng Ðinh một "chứng nhân" vô địch của yêu thương.
Từ Thánh Giá, Ðức Giêsu gom lại thành một dân tộc, Dân Do Thái và Dân Ngoại, hiển thị ý chí của Cha Ngài trên trời muốn tạo ra một gia đình duy nhất cho nhân loại được tụ họp dưới Danh Ngài.
Trong nỗi đau tê tái của Người Ðầy Tớ Thống Khổ, chúng ta đã nghe tiếng kêu khải hoàn của Thiên Chúa Trỗi Dậy. Ðức Kitô trên cây Thánh Giá là nhân loại mới đã được chuộc khỏi gánh nặng của tội lỗi và sự chết. Bất chấp những bóp méo và ngộ nhận của lịch sử, có thể có, chúng ta biết rằng nếu bước theo chân của Người Nazarét bị đóng đinh này, chúng ta sẽ đạt được mục đích. Giữa những xung đột của một thế giới thống trị bởi ích kỷ và thù hận, chúng ta, như những tín hữu, được kêu gọi để công bố vinh quang của Yêu Thương. Hôm nay, Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta làm chứng cho vinh quang của Ðức Kitô bị đóng đinh.
3. Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!
Vâng, chúng con thờ lạy Ngài, Lạy Chúa, Ðấng đã bị treo lên Thánh Giá giữa trời và đất, Ðấng Trung Gian duy nhất của ơn cứu độ chúng con. Thánh Giá Ngài là bích chương của vinh quang chúng con!
Chúng con thờ lạy Ngài, Con của Ðức Trinh Nữ Rất Thánh, đang đứng bất khuất bên cạnh Thánh Giá, can đảm chia sẻ trong lễ hy sinh cứu chuộc của Ngài.
Qua Gỗ Thánh Giá trên đó Ngài bị đóng đinh, niềm vui đã đến với toàn thế giới - propter Lignum venit gaudium in universo mundo. Hôm nay chúng con tất cả nhận thức hơn về điều này khi tia nhìn của chúng con được nâng về phía sự kỳ diệu khôn tả của sự Phục Sinh của Chúa. "Chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa, Lạy Chúa, chúng con tán tụng và thờ lạy sự Phục Sinh thánh thiện của Ngài!".
Với những tình cảm này, anh chị em thân mến, tôi gỡi đến anh chị em lời chúc Phục Sinh với phép lành Tòa Thánh.
+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng
(Bản dịch Việt Ngữ của J.B Ðặng Minh An)

Thứ Sáu 29-3

Chân Phước Ludovico ở Casoria

(1814-1885)

S
inh ở Casoria (gần Naples), Arcangelo Palmentieri là thợ đóng bàn ghế trước khi gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn năm 1832, và lấy tên là Ludovico. Năm năm sau đó ngài được chịu chức, và dạy hóa học, vật lý và toán cho các đệ tử trong tỉnh dòng.
Vào năm 1847, ngài được một cảm nghiệm huyền nhiệm mà sau này ngài diễn tả cảm nghiệm ấy như một sự thanh tẩy. Sau đó ngài dùng cả cuộc đời để phục vụ người nghèo và người đau yếu, thành lập một nhà phát chẩn cho người nghèo, hai trường học cho các trẻ em Phi Châu, một học viện cho các em nhà giầu, một trung tâm cho các em mồ côi, các em câm điếc, và các trung tâm khác cho người mù và người già. Ngoài một bệnh xá dành cho các tu sĩ dòng, ngài còn thành lập các trung tâm bác ái khác ở Naples, FlorenceAssisi. Có lần ngài nói, "Tình yêu Ðức Kitô đã làm thương tích tâm hồn tôi." Tình yêu này đã thúc giục ngài thi hành nhiều công việc bác ái cao cả.
Ðể tiếp tục công việc bác ái, năm 1859 ngài thành lập tổ chức Các Thầy Áo Xám, là một tổ chức tôn giáo gồm những người trước đây thuộc về dòng Ba Phanxicô. Ba năm sau, ngài thành lập tổ chức Các Chị Áo Xám của Thánh Êligiabét, cũng cùng một mục đích ấy.
Trong những năm cuối đời, ngài bị đau yếu đến chín năm, và đã viết một chứng từ linh đạo mà trong đó ngài diễn tả đức tin như "ánh sáng trong tăm tối, sự trợ giúp khi đau yếu, một ân huệ khi khổ cực, nơi cực lạc khi bị đóng đinh và sự sống giữa cái chết." Sau khi ngài từ trần được năm tháng thì việc điều tra phong thánh đã được tiến hành. Ngài được phong chân phước năm 1993.

Lời Bàn

Những người thánh thiện không được Chúa che chở khỏi những đau khổ, nhưng Chúa đã giúp họ biết triển nở tình yêu từ sự đau khổ ấy. Khi đối diện với sự đau khổ của người khác, chúng ta có hai thái độ, hoặc hờ hững hoặc yêu quý giúp đỡ họ. Các thánh là những người chỉ cho chúng ta con đường tiến đến sự yêu quý giúp đỡ.

Lời Trích

Chứng từ linh đạo của Chân Phước Ludovico bắt đầu như sau: "Chúa đã gọi tôi đến với Ngài bằng một tình yêu thật dịu dàng, và với sự bác ái vô bờ Ngài đã hướng dẫn và chỉ bảo tôi trên đường đời."



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét