Lời tâm sự của ông Giuđa
Các bạn thân mến,
biến cố đau thương, cái chết của Sư Phụ tôi trên thập giá, do tôi gây ra đã xảy
ra cách đây trên hai ngàn năm rồi, nhưng nó vẫn dằn vặt lương tâm tôi một cách
khủng khiếp như thể nó vừa xảy ra hôm qua vậy. Nó càng dằn vặt lương tâm tôi
hơn nữa, vì cho mãi tới bây giờ tôi vẫn chưa một lần có dịp tâm sự, vẫn chưa
một lần có dịp nói ra hết những cảm nghĩ chân thành u ẩn trong tâm hồn mình.
Nghe
vậy, có lẽ các bạn sẽ nghĩ rằng tôi đang tìm cách thanh minh cho hành động ngu
dại của mình chăng? Không đâu. Tôi không tìm cách thanh minh và tôi cũng không
thể thanh minh cho hành động sai lầm chết người ấy của tôi được, vì nó đã quá
rõ ràng như ban ngày, dù tôi đã hành động nó trong bóng đêm tối tăm. Những điều
tôi muốn tâm sự hôm nay với các bạn hoàn toàn phát xuất từ cõi lòng của tôi.
Tôi muốn nói ra hết cho vơi nhẹ lòng mình và cũng hy vọng sẽ góp thêm phần nào
vào kinh nghiệm sống của các bạn.
Các
bạn biết không, suốt ba năm sống bên Thầy Giêsu tôi rất hiểu Thầy và rất yêu
mến Thầy. Thật ra, có lẽ mức độ khác nhau chút ít, nhưng cả mười hai anh em
chúng tôi đều yêu mến và tôn kính Thầy, vì thật sự Thầy vô cùng dễ thương dễ
mến, vì tâm tư, tình cảm, tư cách và cả cuộc sống của Thầy tuyệt đối siêu thoát
và quang minh chính đại. Tính Thầy luôn hiền hòa và đầy yêu thương, nhưng lại
không bao giờ chấp nhận bất công và giả dối. Thầy luôn thẳng tay điểm danh và
chống đối chúng đến cùng, dù tác nhân của chúng là ai đi nữa và nhất là dù cho
chính Thầy có phải nguy hiểm đến tính mạng.
Như
vừa nói, tất cả mười hai anh em chúng tôi đều yêu mến và gần gũi bên Thầy,
nhưng có lẽ mỗi người một vẻ. Chẳng hạn anh Phêrô, vốn là người chài lưới
chuyên nghiệp, ngày đêm chỉ làm bạn với sóng nước và biển cả, nên anh rất trực
tính, tính anh thích nói thẳng nói thật, nghĩ sao nói vậy. Anh không thích rào
trước đón sau; vì thế, hầu như bao giờ anh cũng phát ngôn trước cả nhóm. Điều
nào anh nói đúng thì Thầy khen anh là người có phúc, vì điều anh biết và nói ra
không phải do xác thịt hay máu huyết đã mạc khải cho anh, nhưng là do Thiên
Chúa, Đấng ngự trên trời (x. Mt 16,16); nhưng nếu anh nói sai và ngược lại với
thánh ý Thiên Chúa thì anh liền bị Thầy nặng lời la rầy ngay “Sa-tan, ngươi hãy
lui ra khói mắt Ta.” (Mt 16,23) Trong khi đó, anh Gioan là người trẻ nhất trong
nhóm chúng tôi. Theo tuổi tác thì tôi có thể nói được rằng anh Gioan là đứa em
út trong nhóm mười hai chúng tôi. Tính anh đơn sơ hiền lành, trong trắng và trẻ
trung nên được Thầy thương yêu hơn, và ngược lại, anh cũng là người thương và
gần gũi Thầy nhất. Vì thế, khi biết tôi phản bội Thầy, anh Gioan đã giận tôi vô
cùng và rất cay cú khi anh viết về tôi trong cuốn Phúc Âm thứ bốn của anh. Điều
này không hề làm tôi buồn và trách móc anh, vì tôi đáng như vậy; ngược lại,
thái độ của anh càng khiến tôi cảm phục và yêu mến anh hơn, vì anh đã biết đặt
tình yêu Thầy lên trên tất cả, nhất là khiến tôi càng thêm hối hận vì sự ngu
dại của mình, dù tôi lớn tuổi hơn anh. Trên đây là hai trường hợp tiêu biểu,
còn các anh em khác trong nhóm cũng ít nhiều tương tự như thế.
Riêng
cá nhân tôi, nhờ trời cho chút khả năng nhanh nhẹn và tháo vát, nên được Thầy
và anh em tin tưởng giao cho trách nhiệm làm quản lý giữ số tiền quỹ ít ỏi của
nhóm và có bổn phận phải mua sắp thức ăn nước uống cho Thầy và cho anh em khi
cần. Tôi vừa nói “số tiền quỹ ít ỏi”, vì chính Thầy là người quá nghèo, đến vô
sản, Thầy chẳng có gì cả và thật ra Thầy cũng chẳng cần gì cả. Chỉ một số ít
trong nhóm anh em chúng tôi trước khi theo Thầy, đã có nghề nghiệp làm ăn, như
anh Matthêu làm nghề thu thuế, anh Phêrô hay anh Giacôbê làm nghề chài lưới,
v.v… nên ngoài bổn phận lo bảo đảm cho cuộc sống gia đình riêng của các anh để
các anh yên tâm theo Thầy, các anh cũng đóng góp mỗi người một ít cho cuộc sống
chung của nhóm theo khả năng và hoàn cảnh từng người. Ngoài ra thỉnh thoảng còn
có người này kẻ nọ cũng đã hảo tâm giúp đỡ nhóm chúng tôi ít nhiều.
Thật
ra, lúc khởi đầu khi tôi nhận ra được rằng nơi Đức Giêsu thành Na-da-rét từ lời
nói cho tới việc làm đều bộc lộ một uy quyền lạ lùng, sự xác tín và sự khả tín
của một vị Tiên Tri, của một Đấng Thiên Sai, có sức thuyết phục vô cùng mạnh
mẽ, nên cũng như các anh em khác, tôi đã quyết tâm theo Người và xin làm môn đệ
thụ giáo nơi Người, hầu mai sau khi Người thiết lập lại nước Ít-ra-en hùng mạnh
tôi cũng sẽ được tham phần vào hạnh phúc và vinh quang của Người. Đây không chỉ
là niềm hy vọng duy nhất của tôi vào lúc bấy giờ, mà đó cũng là niềm hy vọng
của các anh em khác nữa, như có lần anh Phêrô đã hỏi thẳng Thầy: “Thưa
Thầy, phần chúng con đã bỏ hết mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được gì?” (Mt
19,27) Còn hai anh em Gia-cô-bê và Gioan lại rõ ràng hơn khi hai anh ấy xúi mẹ
đến xin Thầy cho hai anh được ngồi bên hữu và bên tả Thầy trong Nước Thầy (Mt
20,21). Thú thật, vào lúc bấy giờ tư tưởng chúng tôi còn mê muội và thế tục
lắm, chứ không được như các bạn ngày nay nhờ được học hỏi nhiều nên hiểu được rõ
ràng và đúng đắn sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giêsu. Hơn nữa, có lẽ ngoài một vài
vị được Thiên Chúa mặc khải đặc biệt cho, như Đức Trinh Nữ Maria hay thánh
Gioan Tẩy Giả, mới hiểu biết được chính xác sứ mệnh của Chúa Cứu Thế, chứ đại
đa số con dân Ít-ra-en đều đồng một quan điểm trong việc trông đợi vào Đấng Cứu
Thế như anh em chúng tôi cả.
Khi
được Thầy và cả anh em tin tưởng giao phó cho bổn phận làm quản lý cho cả nhóm
như thế tôi vô cùng hãnh diện và luôn tìm cách chu toàn tốt bổn phận được giao
phó. Tôi không muốn Thầy và anh em phải quá thiếu thốn; vì thế, một đàng tôi
tiết kiệm những chi tiêu không cần thiết, một đàng khác tôi luôn tìm mọi cách
làm sao kiếm cho được nhiều tiền, mà ngày nay người gọi là “công việc kinh
tài”, chẳng hạn như vận động các vị ân nhân cũng như các gia đình giàu có
giúp đỡ nhóm chúng tôi. Nhưng cũng chính vì thiện ý ban đầu này, dần dà tôi đã
đâm ra mê thích tiền bạc, muốn có được nhiều tiền, thật nhiều tiền và đồng thời
khi thấy ai tiêu tiền quá rộng rãi, dù là điều hợp lý, tôi vẫn cảm thấy tiếc
xót. Chẳng hạn, lần kia khi chứng kiến cô Maria thành Bê-ta-ni-a vì tôn kính
Đức Giêsu nên đã lấy cả một cân dầu thơm hảo hạng và đắt tiền đổ và xức lên
chân của Người, tôi đã buột miệng trách cô là quá phí phạm, tại sao không đưa bán
đi để giúp người nghèo. Biết rõ và đọc được tư tưởng thầm kín của tôi, anh
Gioan về sau đã nặng lời chê trách tôi: “Y (tôi) nói thế, không phải vì lo
cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho
mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung.” (Ga 12, 2-6) Tôi thật không ngờ
anh Gioan lại có con mắt quan sát một cách chính xác như thế. Anh nói và phán
đoán về tôi như vậy là hoàn toàn đúng, không sai chút nào. Còn Thầy cũng trách
tôi, nhưng nhẹ nhàng và khéo léo hơn khi Người nói: “Người nghèo thì bên
cạnh anh em lúc nào cũng có, còn Thầy, anh em không có mãi đâu.” (Ga 12,8)
Giá lúc đó khi nghe Thầy nhắc khéo tôi như thế mà tôi biết động lòng ăn năn hối
cải, thì tôi đã không tham lam tiền bạc một cách quá khích và mù quáng, để rồi
tôi đã không hành động một cách điên khùng làm hại Thầy và danh dự của nhóm
cũng như sự sống của chính bản thân tôi.
Vì
bị tiền bạc chi phối và điều khiển quá nhiều, nên tôi đã hoàn toàn đâm ra mù
quáng và chủ quan. Tôi đã từ từ bỏ quên lý tưởng theo Thầy lúc ban đầu của
mình. Nhiều khi cùng ngồi nghe Thầy giảng giải và cắt nghĩa Tin Mừng với các
anh em khác, nhưng lòng trí tôi lại ở đâu đâu. Đó là lý do khiến tôi không hiểu
được cặn kẽ Tin Mừng Nước Trời như các anh em khác. Thú thật, mọi tư tưởng và
hoạt động trong ngày của tôi vào lúc bấy giờ hầu như chỉ xoay quanh việc làm
sao kiếm được thật nhiều tiền, bất kể phương tiện.
Từ
tư tưởng ấy, tôi đã bắt đầu nảy ra ý nghĩ là sẽ tìm cách đánh lừa mấy thầy
Pharisiêu một phen để lấy tiền các ông một cách hợp pháp. Vâng, nếu các thầy
Pharisiêu đang luôn căm thù và ghen ghét Đức Giêsu và đang tìm cách hại Người,
vì Người đã công khai điểm mặt những sai sót và tội lỗi xấu xa của họ trước mặt
dân chúng, tôi hứa sẽ nộp Người vào tay họ và ngược lại, họ phải trả trước cho
tôi một số tiền nhất định nào đó. Dĩ nhiên, tôi biết chắc chắn họ sẽ không thể
bắt và làm hại được Đức Giêsu, vì suốt trong ba năm qua tôi đã từng chứng kiến
có biết bao nhiêu phen họ cũng đã từng tìm cách bắt Người hay tìm cách ném đá
Người cho chết, nhưng Đức Giêsu đều ung dung và thản nhiên thoát khỏi tầm tay
của họ một cách dễ dàng. Và nếu lần này họ không bắt và sát hại được Đức Giêsu,
thì tất nhiên đó là lỗi của họ, chứ không phải của tôi. Hơn nữa, tiền tôi đã
cầm chắc trong tay rồi.
Vì
lòng tham tiền bạc quá lớn, làm tâm trí tôi u mê, nên tôi không còn đủ khả năng
để nghĩ đến luân lý, đến đạo thầy trò, đến tình anh em trong nhóm và cả đến
phương pháp đen tối và bất chính của tôi. Tôi cương quyết thực hiện kế hoạch đã
phác họa và đinh ninh sẽ vui vẻ bỏ túi riêng được một số tiền lớn.
Nhưng
nào ngờ đâu, sự việc đã không xảy ra như tôi nghĩ tưởng. Họ thật sự đã bắt được
và trói dẫn Đức Giêsu đi. Lòng tôi bắt đầu bất an, nhất là khi tôi chứng kiến
Đức Giêsu bị bọn họ hành hạ và đánh đập một cách dã man, toàn thân không một
chỗ nào còn nguyên vẹn và đang lê từng bước với cây thập giá nặng nề trên vai
để tiến về Núi Sọ. Lòng tôi tự nhiên thắt lại, tôi cảm thấy thương Thầy và hối
hận hành động của mình vô cùng. Nhưng mọi sự đã quá muộn mằn, không sao dừng
lại được nữa. Còn số tiền bạc tôi đã từng hí hửng nhận từ tay mấy Thầy Thượng
Tế hôm kia, nay nằm trước mặt tôi như những nhân chứng tố cáo tội phản bội của
tôi. Trước đây một vài hôm tôi còn ham thích chúng và rất sung sướng khi cầm
được chúng trong tay, nhưng giờ đây tôi kinh tởm chúng vô cùng, tôi cương quyết
vất trả lại cho chủ của chúng.
Và
sau đó, tuy tôi đã trả lại tiền cho mấy Thầy Thượng Tế, nhưng lòng tôi vẫn luôn
bất an và dằn vặt tôi liên lỷ: Ban đêm thì không sao nhắm mắt ngủ được, còn ban
ngày thì bỏ gì vào miệng cũng đắng như ngậm bồ hòn vậy. Tôi phải làm gì bây giờ
đây? Tôi có thể chạy đâu cho khỏi tiếng lương tâm ngày đêm trách móc và hành hạ
tôi? Trở về với các anh em khác và xin các anh thay Thầy tha tội cho mình
chăng? Có lẽ đó là lối giải quyết cuối cùng và tốt nhất cho tôi, nhưng nếu thế
thì còn đâu là sĩ diện và danh dự nữa!
Giữa
lúc tâm trí tôi bấn loạn cực độ như thế, tôi như một thằng điên khùng không còn
nhìn ra được ánh sáng của lý trí nữa và nhất là tôi đã quên mất sự bao dung vô
bờ bến của Thầy, như Thầy thường dạy chúng tôi qua dụ ngôn “Đứa con hoang
đàng” hay “Người cha nhân hậu” (x. Lc 15, 11-32), vì thế tôi lại rơi
vào một hành động ngu dại khác nữa, đó là sau khi trả lại số tiền nhơ nhớp ba
mươi đồng tiền cho chủ của chúng, tôi đã đi thắt cổ tự tử, chứ tôi không còn
sáng suốt và bình tĩnh như anh Phêrô đã biết khóc lóc, ăn năn hối cải sau khi
làm điều sai lầm là chối Thầy ba lần.
Các
bạn thân mến, qua câu chuyện vô cùng đáng buồn của đời tôi như thế, tôi muốn
nói với các bạn kinh nghiệm này là sống ở đời tiền bạc là phương tiện tốt và
cần thiết cho cuộc sống. Nhờ có tiền, chúng ta có thể đạt được nhiều mục đích
tốt như tạo cho mình có cuộc sống thoải mái và vui vẻ hơn, và đồng thời nhờ có
tiền chúng ta cũng mới có điều kiện để giúp đỡ được các anh chị em đồng loại,
nhất là những anh chị em đồng loại đang trong cơn túng thiếu và bất hạnh. Nhưng
nếu chúng ta không còn biết coi tiền bạc là phương tiện nữa, nhưng là mục đích
đời mình, quá đề cao và coi trọng chúng hơn cả nhân nghĩa và lẽ phải, thì bấy
giờ tiền bạc lại trở thành một ông chủ toàn năng và chúng ta sẽ bị nó chi phối,
điều khiển làm những hành động bất công, trái với lương tri và với đạo lý ở
đời. Các bạn đừng quên rằng tiền bạc là đứa đề đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông
chủ vô cùng khó tính và độc tài!
Một
khi con người đã quá coi trọng tiền bạc và lấy nó làm trọng tâm cuộc sống, họ
sẽ tìm mọi cách để làm giàu một cách ích kỷ, tìm mọi cách để thu vén tiền bạc
về cho mình, càng nhiều càng tốt, bất chấp mọi phương tiện. Để có tiền và để có
thật nhiều tiền, họ sẵn sàng làm những hành động và thực thi những mưu mô thủ
đoạn bất nhân và man rợ, như lừa đảo, trộm cướp và sát hại kẻ khác, kể cả ông
bà, cha mẹ, con cái và vợ chồng cũng như thân nhân bạn bè. Tin tức hằng ngày
trên các phương tiện truyền thông xã hội đã chứng minh cho thấy hiện tượng băng
hoại và kinh khủng đó.
Nhưng
trước hết, các bạn cứ nhìn vào gương của tôi thì sẽ thấy được sự bất hạnh và
khốn nạn đó. Chỉ vì để cho lòng mình quá dính bén vào tiền bạc và việc tích trữ
tiền bạc, tôi đã ra nông nỗi này: Tôi đã phạm tội lừa đảo, phản Thầy phản bạn,
đã tự sát hại chính mình, đến nỗi ngày nay tôi đã trở thành biểu tượng của sự
phản bội và bị người đời qua mọi thế hệ phỉ báng và khinh bỉ, đến nỗi khi muốn
nói đến một tâm địa gian xảo lật lọng hay một cử chỉ thân thiện không thật
lòng, người ta nói “tâm địa giu-đa” hay “nụ hôn giu-đa”, v.v… Đặc
biệt nhất là khi người ta nhắc nhở hay tưởng niệm sự thương khó Đức Giêsu trong
các lễ nghi tôn giáo, cách riêng trong Tuần Thánh, tội “phản bội Thầy”
của tôi lại được làm sống động lại trước mắt mọi người. Tôi vô cùng xấu hổ và
ân hận, nhưng giờ đây mọi chuyện đã quá muộn!
Đấy,
các bạn xem, thật quá khốn nạn cho tôi! Nếu tội phản bội Thầy của tôi đã quá
xấu xa và nặng nề, thì tội mất tin tưởng vào lòng thương xót và sự tha thứ vô
bờ bến của Thiên Chúa của tôi còn xấu xa và nặng nề gấp bội, đến nỗi tôi đã tự
hủy hoại đời mình một cách vô ích bằng chiếc dây thừng. Trong khi đó, anh Phêrô
cũng vì yếu đuối và nhát đảm nên đã chối Thầy ba lần, nhưng anh đã biết khiêm
tốn hết lòng ăn năn hối hận sự sai lầm và tội lỗi của mình, nên khi sống lại từ
cõi chết Thầy đã giao cho anh giữ chìa khóa Nước Trời và chăn dắt đàn chiên của
Thầy, gồm cả chiên mẹ và chiên con. Trên đây là tâm sự u ẩn bấy lâu trong lòng
tôi.
Sau
cùng, có lẽ cũng như nhiều người khác, các bạn sẽ thắc mắc tự hỏi: Liệu ông
Giu-đa đã phản bội Chúa và thắt cổ tự tử như thế có được rỗi linh hồn không?
Hơn nữa, chính Kinh Thánh cũng viết về ông là thà ông đừng sinh ra thì hơn? (x.
Mt 14,21). Trước thắc mắc về phần rỗi cá nhân tôi, tôi xin được phép không trả
lời các bạn một cách trực tiếp; sau này, khi các bạn từ giã cuộc đời này và trở
về bên Chúa, các bạn sẽ thấy rõ điều đó. Nay tôi chỉ nói thế này để các bạn tự
suy nghĩ và tự hiểu lấy:
-
Thiên Chúa là Đấng vô cùng nhận hậu. Người chậm giận và giàu tình thương cũng
như sự tha thứ, chứ Người không nhỏ nhoi và tính toán như phàm nhân chúng ta.
-
Thiên Chúa không chỉ là Đấng Tạo Hóa Toàn Năng, nhưng còn là Người Cha đầy lòng
thương yêu tất cả chúng ta là con cái của Người.
-
Mỗi con người dù độc ác và gian xảo đến thế nào đi nữa, thì Thiên Chúa cũng vẫn
luôn yêu thương họ và luôn sẵn sàng tha thứ cho họ khi họ biết ăn năn hối cải,
vì Người không muốn kẻ có tội phải chết, nhưng là muốn họ ăn năn trở lại và
muốn họ sống.
-
Các bạn hữu và những người đã được Người thương kén chọn, Thiên Chúa sẽ không
để họ hư mất đời đời, trừ khi họ tự ý từ chối tình thương của Người.
-
Tình thương của Thiên Chúa là một mầu nhiệm vô cùng bao la diệu vợi, chúng ta
không thể lấy trí khôn và sự phán đoán nhân loại hẹp hòi của mình làm thước đo
tình thương ấy được.
-
Mỗi con người trước khi chết, tức trước khi từ giã cõi đời này để bước sang thế
giới vĩnh cửu, bao giờ Thiên Chúa cũng nhân từ dành cho họ một khoảnh khắc nhất
định nào đó để họ được sáng suốt nhìn lại toàn bộ cuộc sống của mình và có dịp
ăn năn hối cải, nếu như họ đang trong tình trạng tội lỗi.
-
Một điều quan trọng mà các bạn nên nhớ là trong Nước Trời có nhiều chỗ ở và sau
khi chết trở về bên Chúa, chúng ta sẽ vô cùng ngạc nhiên, vì có nhiều người “xa
lạ” từ Đông từ Tây tới, cũng như có nhiều người mà theo sự nhận xét chủ
quan của chúng ta thì không thể bén mảng đến cửa Thiên Đàng được mà phải “lót
đáy hỏa ngục”, lại đang vui vẻ ngồi dự tiệc với tổ phụ Áp-ra-ham trên Nước
Trời, còn nhiều người chúng ta từng quen biết và từng kính trọng nhân đức này
nọ của họ lại không có mặt ở đó. Điều đó cũng muốn nói rằng chúng ta đừng vội
phê bình hay xét đoán về số phận người khác. Tốt nhất là mỗi người chúng ta hãy
sống tốt, hãy hoàn thành tốt các bổn phận hằng ngày của mình, nhất là hãy biết
mến Chúa yêu người. Còn chuyện phê phán và xét đoán người khác hãy để mặc một
mình Chúa quyết định.
Nói
tóm lại, các bạn hãy luôn luôn tin tưởng chạy tới cùng Thiên Chúa như những đứa
con đến với cha mình, trong mọi lúc và mọi nơi, trong mọi tình huống và mọi
cảnh ngộ đời mình, chắc chắn các bạn sẽ cảm nhận được tình cha bao la vô bờ bến
của Người dành cho các bạn.
(Phóng tác)
Lm. Nguyễn Hữu Thy
Lm. Nguyễn Hữu Thy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét