CHÚA
NHẬT 03/03/2013
Chúa Nhật III Mùa Chay
Năm C
(Phần I)
Bài Ðọc I: Xh 3, 1-8a. 13-15
"Ðấng hiện hữu
sai tôi đến với anh em".
Trích
sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê chăn chiên cho ông
nhạc là Giêtrô, tư tế xứ Mađian. Ông lùa đoàn chiên qua sa mạc, đến núi Horeb
là núi của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện ra với ông trong ngọn lửa cháy từ giữa
bụi gai. Ông nhìn thấy bụi gai bốc lửa, nhưng không bị thiêu rụi. Môsê nói:
"Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này, vì sao bụi gai không bị thiêu rụi".
Thiên Chúa thấy ông lại xem, từ giữa bụi gai
Người gọi ông: "Môsê! Môsê!" Ông thưa: "Dạ con đây!" Chúa
nói: "Ngươi đừng đến gần đây. Hãy cởi dép ở chân ra, vì chỗ ngươi đang
đứng là nơi thánh". Chúa lại nói: "Ta là Thiên Chúa của Tổ phụ ngươi.
Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp". Môsê
che mặt, vì không dám nhìn Thiên Chúa. Chúa nói: "Ta đã thấy dân Ta phải
khổ cực ở Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than kẻ đốc công áp bức. Ta biết
nỗi đau khổ của chúng, nên Ta xuống cứu chúng thoát khỏi tay người Ai-cập và
đưa ra khỏi đất ấy đến miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và
mật".
Môsê thưa với Thiên Chúa rằng: "Này con
sẽ đến với con cái Israel
và bảo họ: Thiên Chúa của tổ phụ anh em đã sai tôi đến với anh em. Nếu họ hỏi
con: "Tên Người là gì?", con sẽ nói sao với họ?" Thiên Chúa nói
với Môsê: "Ta là Ðấng Tự Hữu". Chúa nói: "Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này:
"Ðấng Tự Hữu sai tôi đến với anh em".
Thiên Chúa lại nói với Môsê: "Ngươi sẽ
bảo con cái Israel thế này: "Thiên Chúa của tổ phụ anh em, Thiên Chúa của
Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp sai tôi đến với anh
em". Ðó là danh Ta cho đến muôn đời, đó là danh Ta phải ghi nhớ qua mọi
thế hệ".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 6-7. 8
và 11
Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).
Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi,
hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh
hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.
2)
Người đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người
chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân
sủng. - Ðáp.
3)
Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị
ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel .
- Ðáp.
4)
Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân.
Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt
hơn thế trên kẻ kính sợ Người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 10, 1-6. 10-12
"Ðời sống dân
chúng đối với Môsê trong hoang địa được viết ra để răn bảo chúng ta".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em
không hay biết điều này, là tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây, đi
ngang qua biển và tất cả nhờ Môsê mà được thanh tẩy, dưới áng mây và trong lòng
biển; tất cả đã ăn cùng một thức ăn thiêng liêng, và uống cùng một thức uống
thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng
đi theo họ: tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Tuy nhiên, không phải phần đông
trong họ đã sống đẹp lòng Chúa, vì họ đã bị gục ngã trong hoang địa.
Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta,
để chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như những người đó đã chiều
theo. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đã làm, và đã
vong mạng bởi tay một sứ thần huỷ diệt. Những việc đó đã xảy đến cho họ để làm
gương, và đã được ghi chép để răn bảo chúng ta là những người đang sống trong
thời đại cuối cùng. Thế nên, ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã.
Ðó
là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2
Này
là lúc thuận tiện, này là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Lc 13, 1-9
"Nếu các ngươi
không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu
về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các
vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ
Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác
ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn
năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám
người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những
người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi
không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Ngài nói với họ dụ ngôn này: "Có người
trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy,
ông liền bảo người làm vườn rằng: "Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả
này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!"
Nhưng anh ta đáp rằng: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ
đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông
sẽ chặt nó đi".
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Chúa Kêu Gọi Thống Hối
Với Chúa nhật hôm nay, chúng ta đã đi vào giữa
Mùa Chay. Phụng vụ hối thúc chúng ta phải làm công việc quan trọng nhất trong
mùa này, là thống hối ăn năn tội lỗi và trở về với Chúa. Những tư tưởng này
được trình bày rõ rệt trong bài Tin Mừng và bài Thánh Thư. Nhưng chúng ta cần
xem bài Cựu Ước trước, để thấy Chúa thương xót những người khổ sở như thế nào
và Người sẵn sàng giải thoát họ. Ðược niềm tin như vậy, chúng ta sẽ sung sướng
đón nhận Lời Chúa kêu gọi ăn năn thống hối để được cuộc hành trình mùa Chay nói
riêng và đời sống nói chung của chúng ta sẽ tốt đẹp hơn cuộc hành trình của con
cái Israen nơi sa mạc mà bài Thánh thư hôm nay còn gợi lại. Chúng ta hãy bắt
đầu với bài Cựu Ước.
1. Chúa Muốn Cứu Dân
Bài sách Xuất Hành hôm nay thuật chuyện Chúa
gọi Môsê đi cứu dân. Chính ông đã được cứu ra khỏi nước khi mới sinh được ít
tháng. Hoàng đế Ai Cập bấy giờ ra lệnh giết hết con trai mới sinh của người Do
Thái. Mẹ của Môsê thương con, dấu diếm trong nhà cho đến ngày không dấu được
nữa. Bà bỏ con vào thúng đã trét hắc ín và đem đặt bên bờ sông, nhằm lúc Công
chúa của Pharaôn đến tắm. Nàng thấy đứa bé xinh, cho tìm vú nuôi và sau đem vào
hoàng cung giáo dục. Khi đã thành nhân, một hôm ra khỏi đền vua, Môsê thấy cảnh
nô lệ man rợ của đồng bào mình. Ông đã giết một tên Ai Cập để bênh vực một
người đồng hương; và sau đó sợ lộ chuyện, ông phải trốn đi và trở thành mục tử
chăn dê cừu cho nhạc phụ là Jếthro ở đất Mađian.
Hôm nay Môsê lùa đàn vật đi ăn, ngang qua sa
mạc và đến núi của Thiên Chúa. Người Do Thái miền Bắc gọi núi này là Horeb; còn
người miền Nam
gọi nó là Sinai. Và dân của cả hai miền đều coi nó là núi thánh và là núi của
Thiên Chúa. Vì nó vẫn là nơi có điện thờ và có sự hiện diện của Chúa một cách
đặc biệt, hay nó chỉ mới trở nên thánh địa kể từ ngày có câu chuyện Chúa hiện
ra hôm nay với Môsê? Béthel (Kn 28,11) cũng là một nơi giống như vậy. Israen
đến đó và mơ thấy có một bậc thang bắc từ đất đến trời. Ông bừng dậy và nhận ra
nơi này là thánh địa. Nơi ấy xưa nay vẫn thánh, hay mới chỉ thánh từ khi Israen
được Chúa hiện ra trong chiêm bao ở trên đất này? Dù sao việc Chúa hiện ra cũng
đã làm cho những nơi kia trở nên thánh địa một cách khác thường. Và mỗi khi
Người hiện ra, các tác giả Thánh Kinh đều nói rằng "thần sứ" của
Người hiện ra chứ không dám nói rằng chính Người xuất hiện. Và từ ngữ
"thần sứ Giavê" đã trở thành công thức nói về "Thiên Chúa hiện
ra".
Vậy hôm nay thần sứ Giavê đã hiện đến với Môsê
trong ngọn lửa giữa bụi gai. Thoạt đầu Môsê đâu có biết. Ông chỉ thấy một ngọn
lửa cháy giữa bụi gai mà gai không bị thiêu hủy. Thấy lạ, Môsê muốn mon men lại
gần để quan sát. Nhưng từ trong lửa giữa bụi gai có tiếng gọi: "Môsê,
Môsê"; rồi bảo ông chớ lại gần vì đây là nơi thánh địa.
Ðối với chúng ta, một hình thức Chúa hiện ra
như vậy tỏ ra thế nào ấy! Nhưng đối với người xưa đó là hình thức quá tự nhiên
để họ khỏi khiếp đảm. Họ vẫn quan niệm thần linh ở trong lửa, trong khói. Có
ngọn lửa lạ lùng giữa một bụi gai như vậy là dấu chắc chắn có thần linh muốn
hiện ra với người ta. Trong tiếng Do Thái, chữ bụi gai cũng na ná như chữ
Sinai. Và vì thế lửa cháy giữa bụi gai hôm nay, như báo trước một ngày nào đó
lửa cũng sẽ nghi ngút trên đỉnh Sinai khi Chúa muốn ký kết giao ước với đoàn
dân mà Môsê vừa dẫn ra khỏi Ai Cập. Chúa giữa bụi gai cũng là Chúa ở núi Sinai,
Người đã hiện diện đến với Môsê ban cho ông những mạc khải vô cùng quan trọng.
Người tự xưng là Chúa của Abraham, Isaac và
Giacob, những tổ phụ xa xôi của con cái Israen. Người đã thấy những nỗi thống
khổ của họ bên Ai Cập. Người đã nghe tiếng roi của các đốc công người Ai Cập
quất trên họ. Người nghe hết những tiếng kêu đau khổ của con cái Israen. Người
sẽ ra tay cứu họ ra khỏi Ai Cập, và đưa họ vào Ðất Hứa chảy sữa và mật. Thế nên
Người bảo Môsê: "Vậy bây giờ ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô;
ngươi hãy đem dân của Ta, con cái Israen ra khỏi Ai Cập".
Lệnh truyền đầy cương quyết và thật an ủi. Nó
nói lên lòng thương đầy thông cảm và hiểu biết của Chúa. Nó cho thấy Chúa quan
tâm săn sóc những người khổ sở. Họ là "phần riêng" của Người. Họ sẽ
trở thành "sở hữu" của Người. Chúng ta muốn nhận được tình thương của
Chúa, hãy đứng vào hàng ngũ những thành phần khó nghèo và khổ sở. Nhất định
chúng ta sẽ nhận được nhiều tình thương cứu độ, nếu chưa dám nói là nhận được
tất cả lòng thương xót của Chúa...
Mà chúng ta đâu có cần đứng vào hàng ngũ những
thành phần đáng thương ấy. Bản chất chúng ta là tội nhân đầy những yếu đuối và
rồi đây sẽ phải chết. Không ai khổ sở và đáng thương hơn chúng ta; chỉ có điều
chúng ta dễ quên và muốn quên thân phận của mình. Chúng ta tự ái muốn che dấu
tội lỗi của chúng ta. Chúng ta muốn bám vào những lớp sơn có thể che dấu được
con người thật của mình. Chúng ta che thân bằng quần áo thì cũng muốn che tâm
hồn và đời sống hèn hạ dưới những cái "mã" tưởng là dễ coi. Chính sự
bỏ quên cũng là một bình phong và là một tấm màn phủ lên con người xấu xa của
chúng ta...
Nhưng vô ích, lương tâm như một con sâu luôn
rúc rỉa tâm hồn. Bài Kinh Thánh hôm nay, những Lời Chúa vừa tuyên bố, mùa Chay
đang cử hành, tất cả kêu gọi chúng ta hãy giác ngộ, thú nhận tội lỗi và cầu xin
ơn tha thứ. Thiên Chúa đang đến. Người đầy lòng xót thương. Người muốn cứu kẻ
lầm than khổ sở. Người sai một Môsê Mới đi cứu những ai thú nhận mình yếu đuối.
Ðó là Ðức Giêsu Kitô. Nhưng để hiểu biết Người, chúng ta hãy tiếp tục xem Môsê
cũ.
Nghe Chúa muốn sai mình đi cứu dân. Ông xin
được muốn đích danh của Người để khi con cái Israen hỏi ông biết đàng mà thưa.
Nhưng không lẽ ông chưa biết danh Giavê! Và chắc chắn ông cũng đã biết con cái
Israen vẫn dùng danh Giavê mà xưng tụng Chúa. Có lẽ ở đây tác giả viết như vậy
là vì muốn giải thích danh Giavê và muốn cho lời giải thích này khởi sự từ Môsê
và từ miệng Chúa. Người trả lời cho Môsê: Ta là Ðấng
"Ta có".
Vẫn biết lời của
Chúa nói ở đây khó dịch ra tiếng Việt Nam. Nhưng trong mọi thứ tiếng và ngay
trong tiếng Do Thái, ý nghĩa của câu Chúa trả lời để mạc khải Danh của Người
cũng thật khó hiểu. Nó khó hiểu đến nỗi có thể nói được rằng nghe rồi người ta
cũng chẳng hiểu gì hơn. Và điều này chứng tỏ không từ ngữ và quan niệm nào có
thể diễn tả được Thiên Chúa. Người là Ðấng Vô Danh theo nghĩa của Lão Tử, tức
là theo nghĩa không thể nào gọi tên được. Mọi danh xưng đều bất lực nói về bản
tính Thiên Chúa.
Nhưng khi nói
Giavê Ðấng đang có, người ta cũng có thể nghĩ đến sự trường tồn của Người, đang
khi hết thảy là phù vân không có nền tảng hiện hữu. Nhất là tựa vào ý nghĩa ấy,
người ta có thể nghĩ rằng Giavê là Ðấng luôn hiện diện với Môsê và với dân
Người để ở với họ, hướng dẫn họ, giúp đỡ họ thi hành kế hoạch của Người. Và
điều này sẽ được triển khai khi cũng tác giả Xuất Hành viết: Giavê là Chúa chạnh
thương, huệ ái, bao dung, đầy nhân nghĩa và tín thành (34,6). Mà quả thật mọi
trang Kinh Thánh mạc khải đều nói lên lòng từ nhân của Thiên Chúa Giavê. Người
không ở xa con cái loài người, nhưng hằng quan tâm độ trì họ.
Ðặc biệt trong bài
sách Xuất Hành hôm nay Người tỏ ra thông cảm, lo lắng cho số phận con cái
Israen. Người hiện ra với Môsê với tâm trạng ấy, thì khi Người giải thích danh
xưng Giavê của Người, chúng ta có thể và có lẽ phải hiểu theo ý nghĩa từ nhân
này. Và phụng vụ hôm nay cũng muốn chúng ta biết Thiên Chúa là Ðấng đầy lòng
thương xót đang muốn cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy nghe thêm lời Con của Người
nói trong bài Tin Mừng để hiểu Người hơn và mến Người hơn nữa.
2. Chúa Kêu Gọi Thống Hối
Thánh Luca kể, hôm
ấy người ta đưa tin cho Ðức Giêsu biết: Pilatô mới giết một số người Galilê,
khi họ dâng lễ. Vụ này ai cũng biết nên tác giả không cần nói rõ thêm. Ðàng
khác Pilatô đã làm nhiều vụ như vậy mà sử sách còn kể lại. Phản ứng của Ðức
Giêsu không chính trị tí nào, mà chỉ hoàn toàn đạo đức. Người đáp: các ngươi
tưởng đó là những người tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Không đâu, nếu
không hối cải, các ngươi hết thảy cũng sẽ bị tiêu diệt như thế.
Người còn nói thêm
về vụ 18 người bị tháp Silôam đổ xuống đè chết. Vụ này chắc cũng phải thời danh
lắm. Ai nghe nói cũng hiểu tức thời. Nhưng 18 người kia có phải là hạng tội lỗi
hơn mọi kẻ cư ngụ ở Giêrusalem không? Không đâu, Người nói: "Nếu các ngươi
không hối cải, các ngươi cũng sẽ bị tiêu diệt in như thế".
Trong phản ứng của
Người, chúng ta có thể nhận ra một số quan niệm Người không coi những kẻ bị tai
họa bên ngoài tất nhiên phải là hạng tội lỗi hơn mọi người khác. Cũng như trong
sách của Gioan, Người không coi một kẻ mù từ khi mới sinh là vì tội của nó, hay
của cha mẹ nó. Ðối với Người ai cũng có tội hết, cả những người ở Galilê và cả
những người ở Giêrusalem. Tất cả những người đang ở trước mặt Người và nghe
Người nói đều có tội. Họ hãy thống hối và cải thiện; nếu không họ cũng sẽ bị
tiêu diệt, dĩ nhiên không phải hết thảy sẽ bị giết hay tháp đè. Nhưng tất cả
đều sẽ chết và chết đời đời.
Và để thúc đẩy
người ta nhận thấy tình cảnh đã khẩn trương, Ðức Giêsu kể tiếp dụ ngôn về cây
vả. Chủ vườn muốn chặt nó tức khắc, vì đã ba năm rồi, ông đến tìm quả mà không
thấy một trái nào. Nếu bài dụ ngôn đã dừng lại ở đây, thì chúng ta chỉ thấy
tính cách khẩn trương của vấn đề hối cải. Và chúng ta có thể nghĩ rằng Ðức
Giêsu đã nói dụ ngôn này vào khoảng cuối đời truyền giáo, sau ba năm hoạt động
nơi người Do Thái, như Mátthêu và Máccô đã kể chuyện về một cây vả tương tự vào
hai, ba ngày trước khi Chúa Giêsu bị bắt nộp.
Nhưng Luca tác giả
của lòng thương xót, đã không dừng lại ở lời ngăm đe tức thời như vậy. Ông cho
người làm vườn đến trước mặt chủ và xin để cây vả lại một năm nữa, chờ cuốc xới
và bón phân thêm xem thế nào, không chừng nó sẽ sinh quả; bằng không sẽ chặt nó
đi.
Người làm vườn nào
mà lạ lùng như vậy? Xét theo chuyên canh, lời ông chủ thật có lý. Ðể cây vả lại
trong tình trạng ấy chỉ làm hại đất. Nhưng chính vì lạ lùng, người làm vườn kia
khiến chúng ta nghĩ đến một câu trong sách của Gioan: "Cha Ta là người
trồng nho". Quả thật câu nói của người làm vườn ở đây đầy lòng nhân từ.
Lời người ấy buộc chúng ta phải nghĩ đến lòng thương xót kiên nhẫn của Thiên
Chúa. Người muốn cuốc xới và bón phân, tức là săn sóc chăm nom để tội nhân trở
lại sinh quả tốt. Kinh Thánh không thường ví dân Chúa như một thân nho sao?
Và như vậy, khi
cho người làm vườn xuất hiện nài xin ông chủ vườn để cây vả lại, tác giả Luca
muốn cho chúng ta thấy lòng thương xót lạ lùng của Thiên Chúa đã tỏ hiện đối
với tội nhân. Và cụ thể người muốn nói đến Ðức Kitô Giêsu, Ðấng mà Chúa Cha đã
sai đến để kêu gọi người tội lỗi. Ngài đang lao nhọc vất vả giảng dạy và khuyên
bảo người ta. Người đang cuốc xới và bón phân. Ngài ban cho người ta một hạn
chót để trở lại: một năm nữa thôi. Phải chăng Ngài đang ở trong năm thứ hai của
cuộc đời truyền giáo? Ðúng hơn đó chỉ là kiểu nói ám chỉ hạn chót.
Do đó tính cách
khẩn trương của lời kêu gọi hối cải vẫn còn y nguyên. Nó được trình bày kèm với
quan niệm về lòng thương xót kiên nhẫn của Thiên Chúa. Và như vậy luôn luôn nó
sẽ có tính cách tức thời; khiến hôm nay đọc bài Tin Mừng này, chúng ta vẫn thấy
đang được thôi thúc phải ăn năn hối cải và sinh quả công chính.
Hơn nữa, có thể
nói được rằng lời hối thúc lại càng khẩn trương khi nó lại là tiếng nói của một
tấm lòng đầy nhân nghĩa, nó làm chúng ta lại nhớ tới Lời Chúa thổ lộ với Môsê
trước khi sai ông đi cứu dân. bao giờ Chúa cũng từ nhân và muốn cứu độ; chúng
ta có thể làm ngơ trước kêu gọi tha thiết như vậy không? Thánh Phaolô bảo chúng
ta phải coi chừng. Chúng ta hãy đọc thư Người.
3. Chúa Ðã Chẳng Hài Lòng
Thánh Tông đồ không
viết cho dân thời Môsê, cũng chẳng gởi cho người Do Thái thời Chúa Giêsu, mà là
cho các Kitô hữu, những người đã được lãnh nhận Thánh tẩy và thường cử hành
thánh lễ tạ ơn. Họ được ưu đãi như thế, nhưng cũng phải coi chừng, vì dân Cựu
Ước cũng đã được những ơn tương tự, nhưng đã chết nơi sa mạc và không được vào
Hứa Ðịa. Họ cũng đã thanh tẩy khi tin vào Môsê mà đi qua nước Biển. Họ đã được
ăn Manna, cũng là một thứ lương thực thiêng liêng. Họ đã uống được ở Tảng Ðá
giữa sa mạc chảy ra và như vậy nước ấy cũng linh thiêng vì vọt ra từ một tảng
đá lạ lùng (Ds 20,8) mà truyền thống Do Thái nói rằng nó đi theo con cái Israen
suốt trong thời gian nơi sa mạc. Nếu có một sự kiện như thế, thì theo Phaolô,
tảng đá ấy phải là hình ảnh về Ðức Giêsu Kitô cứu thế, vì nó có sức độ trì dân
khát nước như vậy. Do đó dân Cựu Ước đã có tất cả những sự thánh thiện tương tự
của Tân Ước là "Thánh tẩy và Thánh thể"... nhưng họ đã chết vì đam mê
(Ds 11,4-6); vì thờ quấy (Xh 32,6); vì dâm dật (Ds 25,1-5); vì thử thách Chúa
(Ds 21,4-6); và vì kêu ca Người (Ds 13,25...). Tất cả những việc ấy đã xảy ra
để làm gương cho chúng ta. Ðừng ai tưởng mình đã đứng vững trong sự thánh
thiện. Hãy coi chừng kẻo ngã. Hãy khiêm nhường thú nhận tội lỗi để được hưởng
nhờ lòng Chúa xót thương.
Trong cả ba bài
Kinh Thánh hôm nay, chúng ta đã thấy lòng từ bi của Chúa khẩn thiết kêu gọi
chúng ta thống hối ăn năn. Chúa Giêsu trong mầu nhiệm bàn thờ mà chúng ta cử
hành bây giờ càng mong muốn chúng ta trở lại hơn nữa. Người đến không những để
tha thứ mà còn để hoán cải. Chúng ta hãy dự lễ để thêm ơn Phục sinh; để cải tạo
đời sống, để làm cho mùa Chay thành mùa đổi mới con người và xã hội, đáp lại
lòng Chúa luôn xót thương muốn cứu độ mọi người.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời
Chúa
của Ðức cố Giám
Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật III Mùa Chay, Năm C
Bài
đọc: Exo 3:1-8a, 13-15; I Cor
10:1-6, 10-12; Lk 13:1-9.
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Hãy biết dùng cơ hội Thiên Chúa ban để sám hối và sinh
hoa kết trái.
Không ai trong chúng ta muốn giữ những thứ vô dụng, vừa
choán chỗ vừa không dùng được: chiếc áo đã rách, đôi giày đã thủng lỗ, cái dù
đã bị bung; nếu đã cố gắng sửa mà vẫn không dùng được, chúng ta sẽ vất nó vào
sọt rác để mua sắm cái khác. Con người trước mặt Thiên Chúa cũng thế, Ngài sẽ
làm mọi cách để sửa dạy và giúp con người thăng tiến như: răn dạy, cảnh cáo, và
dùng hình phạt; nhưng nếu đã cố gắng mọi cách mà không sửa đổi được, Ngài sẽ
phải cất đi để khỏi tốn công và tránh thiệt hại cho người khác.Các Bài Đọc của Chủ Nhật III Mùa Chay tập trung trong việc con người phải biết nắm lấy cơ hội Thiên Chúa ban để ăn năn sám hối và thăng tiến không ngừng. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa động lòng thương xót dân của Ngài khi thấy họ bị đối xử tàn nhẫn như những nô lệ bên Ai-cập; Ngài hiện ra với ông Moses để tỏ ý định của Ngài và sai ông đến với con cái Israel để chuẩn bị đưa họ ra khỏi đất nô lệ để vào Đất Hứa. Trong Bài Đọc II, Phaolô muốn các tín hữu nhìn lại biến cố Xuất Hành để rút ra bài học cụ thể cho các tín hữu Corintô: cho dù con cái Israel đã được Thiên Chúa yêu thương và ban cơ hội để giải thoát; nhưng nhiều người trong họ đã không biết dùng cơ hội, vẫn càm ràm, than trách, và sau cùng phải chết trước khi vào Đất Hứa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho dân chúng phải biết nhìn các biến cố xảy ra trong cuộc đời và học hỏi những điều quan trọng cho bản thân: khi thấy người khác chết, đừng nghĩ là họ tội lỗi hơn mình, nhưng hãy biết sự chết cũng sẽ xảy ra cho mình; điều quan trọng là phải biết ăn năn sám hối và sinh hoa kết trái cho Thiên Chúa.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ta xuống để
giải thoát chúng khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập.1.1/ Thiên Chúa thương xót và muốn giải cứu con cái
(1) Cuộc thần hiện của Thiên Chúa cho ông Moses: Moses tuy là người Do-thái; nhưng lớn lên trong hoàng gia như là con của công chúa Ai-cập. Sở dĩ ông phải bỏ hoàng gia để trốn qua đất Madian là vì ông đã giết một người Ai-cập khi người này đối xử dã man với một người Do-thái; tin này được loan truyền tới tai vua Pharaoh và nhà vua đang tìm cách bắt ông. Giống như tổ-phụ Abraham, Moses chưa một lần được biết Thiên Chúa. Để tỏ cho ông Moses biết uy quyền của Thiên Chúa, Ngài cho ông chứng kiến một hiện tượng lạ khi ông đang chăn chiên cho bố vợ là Jethro, tư tế Madian. Ông Moses nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi, ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?" Đức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Moses! Moses!" Ông thưa: "Dạ, tôi đây!" Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh."
(2) Ý định của Thiên Chúa: Người mặc khải cho Moses: "Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob… Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật.”
1.2/ Thiên Chúa chọn ông Moses để lãnh đạo con cái Israel: Khi biết Thiên Chúa muốn chọn mình để lãnh đạo con cái Israel ra khỏi Ai-cập, ông Moses nhìn thấy trước hai khó khăn trong sứ vụ Thiên Chúa trao phó: Thứ nhất, vua Pharaoh đang tìm giết ông, làm sao ông dám vào để yêu cầu nhà vua phóng thích con cái Israel. Thứ hai, con cái
(1) Thánh danh của Thiên Chúa: Ông Moses thưa với Thiên Chúa: "Bây giờ, con đến gặp con cái
(2) Mối liên hệ giữa Thiên Chúa với ông Moses: Để củng cố niềm tin và đánh tan sự sợ hãi của Moses, Ngài hứa với ông: “Ta sẽ ở với ngươi” (x/c 12). Lời hứa này được Thiên Chúa thực hiện bắt đầu từ cuộc thương lượng với vua Pharaoh, suốt trong cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cho tới khi đem dân vào Đất Hứa. Ông Moses cũng chịu thử thách bởi Thiên Chúa như dân. Thử thách lớn nhất ông phải chịu là tuy được thấy Đất Hứa từ xa; nhưng không được cùng dân vào Đất Hứa, mà phải chết và an táng trước khi qua sông
2/ Bài đọc II: Chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta.
2.1/ Biến cố Xuất Hành là bài học cho mọi tín hữu: Bối cảnh của trình thuật hôm nay là câu trả lời của Phaolô cho các tín hữu Corintô có nên ăn thịt cúng. Phaolô cho các tín hữu một nguyên tắc: được ăn, nhưng phải có lòng bác ái tôn trọng những người yếu đức tin; hơn nữa, người tín hữu phải biết đề phòng các chước cám dỗ; đừng quá tự tin nơi sức hèn của mình.
Để dẫn chứng một ví dụ cụ thể, Phaolô mời họ nhìn lại gương của con cái Israel khi họ xuất hành khỏi Ai-cập, lang thang suốt 40 năm trời trong sa mạc để được thanh luyện bởi Thiên Chúa, trước khi được vào Đất Hứa. Phaolô viết: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Moses.
Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng (manna), tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc.”
2.2/ Biết học nơi gương người đi trước: Phaolô khuyên các tín hữu: Biến cố Xuất Hành không chỉ là biến cố lịch sử của người Do-thái; nhưng còn là “bài học răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta.”
Được hưởng mọi đặc quyền từ Thiên Chúa không có nghĩa là sẽ được vào Đất Hứa. Giống như con cái Israel trong biến cố Xuất Hành, người tín hữu cũng đã được hưởng mọi đặc quyền từ Đức Kitô: được chịu Phép Rửa trong Phép Rửa của Ngài, được ăn thịt và uống máu trong Bữa Tiệc Ly với Ngài; nhưng những điều này không bảo đảm sẽ được phục sinh vinh hiển với Đức Kitô trong vương quốc của Ngài, nếu người tín hữu không biết dùng ơn thánh Đức Kitô ban để luyện tập nhân đức và vượt qua mọi cám dỗ cuộc đời để giữ vững đức tin vảo Thiên Chúa. Các tín hữu Corintô không thể tự mãn với đức tin của họ; nếu họ không đề phòng và làm cho đức tin vững mạnh, họ cũng có thể sa ngã như những người đi trước.
3/ Phúc Âm: Nếu các ông không ăn năn sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.
3.1/ Phải biết ăn năn sám hối khi còn có cơ hội.
(1) Đừng vội kết tội tha nhân: Truyền thống Do-thái có khuynh hướng đồng nhất đau khổ, bệnh tật, chết chóc với tội lỗi của cá nhân (x/c Sách Job, Jn 9:1). Trong trình thuật hôm nay, “có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người
Đức Giêsu đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Galilee này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người
(2) Hãy học gương người đi trước: Điều Ngài muốn nhấn mạnh là con người phải biết rút ra bài học cho mình khi chứng kiến những gì xảy ra cho người khác. Trong hai ví dụ hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến nhu cầu con người phải ăn năn sám hối khi còn có cơ hội; nếu không họ cũng sẽ chết mà không được hưởng ơn cứu độ.
3.2/ Thiên Chúa kiên nhẫn với con người: Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?”
(1) Con người phải sinh hoa trái cho Thiên Chúa bằng các việc lành: Ai cũng cho cây không sinh trái là cây vô dụng, con người không sinh ích lợi cho Thiên Chúa và tha nhân cũng là người vô dụng. Khi một người hay một vật đã trở nên vô dụng, họ sẽ bị lấy đi để dành cơ hội cho người khác. Khi những thứ vô dụng bị loại ra ngoài, chúng sẽ bị hủy hoại. Sự kiện người làm vườn kiên nhẫn cho cây vả 3 năm để sinh hoa kết trái cho thấy sự kiên nhẫn của ông. Thiên Chúa cũng thế, Ngài kiên nhẫn cho con người rất nhiều cơ hội để sửa mình và sinh hoa kết trái cho Ngài.
(2) Hãy biết năm lấy cơ hội như lần cuối cùng: Nhưng người làm vườn đáp lời ông chủ: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi."
Con người phải khôn ngoan vì họ không biết khi nào là cơ hội cuối cùng. Đừng bao giờ giả định cơ hội sẽ đến mãi: Biết bao nhiêu người chúng ta nhìn thấy năm trước, năm nay không còn nhìn thấy họ nữa; điều này có thể xảy ra cho chúng ta; vì thế, hãy sống như đây là Mùa Chay cuối cùng của cuộc đời; và hãy biết lợi dụng cơ hội Chúa ban để trở về.
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa cho chúng ta sống trong thế gian là để chúng
ta mưu cầu lợi ích cho phần rỗi linh hồn của chúng ta và của tha nhân.- Nếu sau khi Thiên Chúa đã cung cấp mọi cơ hội để chúng ta có thễ lãnh nhận ơn cứu độ mà chúng ta vẫn từ chối, Ngài phải cất đi để chúng ta đừng làm thiệt hại phần hồn cho người khác.
- Hãy biết nắm lấy cơ hội như là cơ hội cuối cùng của cuộc đời, vì chúng ta không biết cơ hội có đến nữa hay không. Đàng khác, tại sao không tận dụng cơ hội để sống hạnh phúc và bình an ngay từ bây giờ để khỏi làm nô lệ cho xác thịt, thế gian và quỉ thần.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên,OP.
Giáo Lý Phúc Âm - CHÚA NHẬT III MÙA CHAY NĂM C - ngày 3.3.2013
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY NĂM C
Sách Xuất Hành
3,1-8a, 13-15; Thư I Thánh Phaolô gửi Côrintô 1Cor.10,1-6.10-12 và Phúc Âm Luca 13, 1-9
I. Giáo Huấn P.Â.:
Tại hoạ và tội
lỗi. Thực tế của đời sống và thực tại của đời người.
Tai hoạ tức thiên tai hay ác xấu xảy ra
không nhằm trừng phạt những ai có tội.
Tai hoạ xảy ra cũng
không là một tán thành luật nhân quả “ác giả, ác báo hay
ở hiền gặp lành ở ác gặp dữ”
Người
có tội và cố tình không sám hối, không cải tà qui chánh
chắc chắn bị luận phạt. Luận phạt có nghĩa là chặt bỏ như cây không sinh
trái, tức giết chết và ném vào lửa hoả ngục.
Ai cũng
có tội. Ai cũng phải sám hối để tránh bị chặt bỏ và bị tiêu
diệt
II. Vấn
nạn P.Â.
Tổng trấn Philatô là ai? Tại sao Ông giết người
Galilê?
Sau
khi Vua Hêrôđê Cả băng hà vào năm thứ 4 sau công nguyên, Hoàng đế Roma
Augustô chia Do Thái thành ba tiểu quốc cho ba con trai của Hêrôđê Cả: Hêrôđê
Antipas làm vua Galilê và vùng tả ngạn sông Giôđan. Hêrôđê Philip cai quản
Golan và Miền Đông Bắc. Hêrôđê Arkêlaus cai trị Giuđêa và miền Idumea. Đế quốc
Roma cai trị các thuộc quốc theo hình thức đặt những tổng trấn để giữ gìn an
ninh trật tự và nhất là để thu thuế cho hoàng đế Roma.
Thời
Chúa Giêsu, Philatô làm tổng trấn Giuđêa từ năm 26-36 sau công nguyên, dưới
thời hoàng đế Tiberius Cêsar. Ông là vị tổng trấn thứ năm kể từ khi Giuđêa mất
chủ quyền. Ông thi hành nhiệm vụ tổng trấn dài đến 10 năm ở Giuđêa. Theo sử gia
Flavius Josephus, tổng trấn Philatô là người không có thực quyền, mà tính khí
lại nông nỗi, bộc trực và nhất là hay dùng quyền lực và sức mạnh quân sự đàn áp
dân chúng, nhất là những phe phái, những phong trào nỗi lên chống La Mã. Ông ta
được nhắc đến nhiều nhờ dính líu đến vụ án Chúa Giêsu.
Trong
Phúc Âm Luca hôm nay, người ta báo cáo với Chúa rằng “những người Galilê
bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu họ đổ ra hoà lẫn với máu tế vật đang dâng”
Tại sao Philatô giết người Galilê? Phúc Âm không đề cập. Sử gia Flavius Joseph,
trong sử ký Do Thái thời cổ thuật lại ít là ba biến cố người Galilê bị Philatô
tàn sát. Người ta đoán là biến cố sau đây có liên quan đến đoạn phúc Âm Luca
tường thuật hôm nay.
Đó
là việc Philatô , có thể do việc âm thầm cấu kết với thượng tế Caipha,
dùng tiền dâng cúng trong đền thờ để dẫn nước ngọt cách đó 35 cây số vào
Giêrusalem, đặc biệt vào dinh tổng trấn của Ông. Hàng ngàn người Do Thái chống
đối, dâng lễ tế kêu cầu danh Yahvê tiêu diệt đế quốc La Mã và nguyễn rũa tổng
trấn. Philatô ngầm cho lính ăn mặc giả dạng giống như người Do Thái, trà trộn
vào đám đông đang chống đối. Đến thời điểm đã ngầm chỉ thị hành động, quân lính
dùng gươm dáo giết những công dân Do Thái vô tội. Khiến máu họ hoà lẫn với lễ
tế đang dâng. Chuyện kể xảy ra ở Giêrusalem, nhưng sao lại nói đến sự tàn sát
người Galilê tức người Miền Bắc? Không có giải thích rõ ràng. Ức đoán rằng, đây
là dịp lễ hội lớn có nhiều người từ Miền Bắc Giêrusalem tế lễ trong đền
thờ.
“Mười
tám người bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết” Tháp Silôa ra sao và chuyện tháp đổ
xảy ra như thế nào?
Theo tường thuật Thánh Kinh thì Tháp Silôa là một tháp cỗ xây dựng ở vùng
Silôa, phía Nam Giêrusalem và vì lâu đời không còn kiên cố đủ nên đã đổ sập đè
chết mười tám người thời Chúa Giêsu.
Có
những nhà chú giải thánh kinh thì cho rằng: Hồ nước Silôa hay hồ
nước Bethsaida được tường thuật trong Gioan chương 5, hay tháp Silôa chỉ là
những cổng ra vào khác nhau của cùng chung một khu vực tên Silôa. Tuy nhiên,
cắt nghĩa nầy không đúng vì công trình khai quật cho thấy Ao nước Bethsaida nằm
phía Bắc chứ không ở phía Nam Giêrusalem chung với tháp Silôa.
Cũng
có người cho rằng: Tháp Silôa là một phần của hệ thống dẫn thuỷ của quân
đội La Mã nhằm dẫn nước từ hồ Silôa. Bản thân hồ Silôa thì nhận nước tử thác
Gihon. Tuy nhiên nhiều nhà chú giải cho rằng tháp Silôa là pháo đài quân đội
được xây nhằm giữ trậr tự an ninh cho thủ đô Giêrusalem. Tuy nhiên giải thích
nầy vẫn không thoả đáp được thắc mắc là: Làm sao một đồn lính có quân đội đang
trấn giữ mà lại có thể sập đổ một cách dễ dàng như vậy?
Chúng ta không tìm ra lý do chắc chắn tại sao Tổng Trấn Philatô giết người
Galilê và tại sao tháp Silôa đổ sập đè chết mười tám người. Vì Phúc Âm Thánh
Luca trong Chúa Nhật III Mùa chay hôm nay không nhằm thoả đáp vấn nạn “tại
sao?” nhưng chỉ muốn dùng hai tai hoạ xảy ra mà ai cũng biết nầy để chuyển đạt
sứ điệp nầy: Ai cũng có tội. Bất cứ ai cũng cần sám hối. Nếu không cũng sẽ chết
tất cả.
Quan
niệm hoạ đâu thì tội đó có đúng không? Có phải Chúa dùng tai hoạ để giáng phạt
người có tội chăng?
Không
đúng!
Chính
Chúa Giêsu không nhìn nhận quan niệm hoạ đâu thì tội đó hay ngược lại tội mang
hoạ. Vì “Các Ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết mọi người Galilê
khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao?” Rồi Chúa nói tiếp “Cũng như mười tám
người kia bị tháp Silôa đổ xuống đè chết, các Ông tưởng họ là những người mắc
tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao?”
Những người bị chết vì tai hoạ nầy không phải họ không
có tội nhưng không phải vì có tội mà họ bị nhận lãnh tai hoạ. Cũng như
người không gặp tai hoạ không phải là những người vô tội.
Chúa
là Cha chúng ta. Không có Cha nào nở lòng trừng phạt con mình,
Thiên Chúa ban phúc cho cả kẻ lành người dữ kia
mà (Matt.5,45) Chúa là người Cha nhân hậu hơn chúng ta, ai trong
chúng ta là Cha mẹ, không lẽ con cái xin bánh lại cho đá? Không lẽ
con cái xin trứng lại cho rắn hay bò cạp? (Luca 11,11) Chúng ta không cầu tai
hoạ bao giờ, chỉ cầu phúc lành. Vậy Chúa là Cha chúng ta không lẽ ban cho chúng
ta tai hoạ?
Nếu
chấp nhận quan niệm “hoạ đâu tội đó!” thì bảy mươi lăm
ngàn nạn nhân chết trong trận động đất ở Haiti hôm ngày 12 tháng giêng năm 2010
vừa qua là những người tội lỗi hơn chúng ta sao? kể cả Đức Tổng Giám Mục Joseph
Serge Miot, vì đất rung chuyển mạnh đánh sập Toà Giám Mục và Ngài té nhào lộn
cổ chết? Rồi mới gần đây, ngày 27.2.2010, động đất xảy ra ở Chí Lợi giết
chết cả ngàn người. Những nạn nhân nầy là những người tội lỗi hơn chúng ta và
đáng chết sao?
Chúng
ta thường yêu cầu Chúa làm những chuyện mà Chúa không làm hay đi ngược với
luật định tự nhiên. Thí dụ chúng ta cầu nguyện cho một chuyến đi xa an
toàn, nhưng chúng ta lái xe 150 cây số giờ thì ai có thể giữ cho chúng ta an
toàn? Nếu chúng ta được an toàn sau chuyến chạy xe quá tốc độ nầy, chúng ta
nghĩ là Chúa phù hộ chúng ta chăng? Còn nếu chúng ta gây tai nạn chết người vì
chạy quá nhanh. Chúng ta bảo là Chúa không thương và không giữ gìn chúng ta
chăng? Đây là kết quả của thứ tôn giáo tình cảm. Tin Chúa và cầu xin Chúa không
vì phần rỗi của chúng ta, nhưng vì tình cảm thiếu trưởng thành và vì những lợi
ích rất trần thế.
Không, Chúa là Cha chúng ta, Chúa
không thể nào dùng tai hoạ để tàn sát con cái Chúa. Những thiên tai
xảy ra hàng ngày trên thế giới, là kết quả tự nhiên của vạn vật vũ trụ. Động
đất thường do núi lửa dưới lòng biển sâu hoạt động, tạo chấn động mạnh, gây
rung động mặt đất và làm mọi thứ sụp đổ. Những vùng đất nào nằm trong tầm ảnh
hưởng núi lửa sẽ bị phá huỷ. Luật tự nhiên!
Có những ác xấu khác do con người gây ra thí dụ như Hai
Toà Tháp Thương Mãi cao ở Nữu Ước đã bị khủng bố đánh sập ngày
11.9.2001 thì thế nào? Chúa xúi khủng bố làm chuyện ác xấu giết người nầy
chăng?
Chúa
là Đấng Thánh và tốt lành tuyệt đối không thể nào làm chuyện ác xấu hay
tạo cơ hội để ác xấu xảy ra. Nhưng tất cả là do dã tâm của con người. Con
người, chịu ảnh hưởng của tà thần, đã dùng tự do và trí thông minh Chúa ban để
mang tai hoạ cho đồng loại.
Một
thí dụ khác: Chúng ta cầu cho gia đình hạnh phúc, đang khi chúng ta chọn
chồng hay vợ một cách xốc nỗi thiếu suy nghĩ, như thành vợ chồng trong chuyến
đi chơi ở Hạ Uy Di hay Las Vegas? Chúa không thề làm ảo thuật để biến một cô
gái đi hoang từ năm 16 tuổi thành một cô vợ hiền hay một bà mẹ đảm đang mang
hạnh phúc cho gia đình được? Thử hỏi những người nầy có bao giờ học cho biết
thế nào là làm vợ và thế nào là bổn phận của cha mẹ trong gia đình chưa? Chúa
không thể ban cho chúng ta cái mà chúng ta không xin và cái mà chúng ta không
bao giờ được chuẩn bị để có.
III. Thực hành P.Â.:
Phải sám hối để đời sống sinh hoa kết
quả.
Sám hối là gì? Theo nghĩa Kinh Thánh và trong tiếng La-Tinh, Sám hối là
penitentia. Sám hối thường phải hội đủ những yếu tố sau:
Nhận
ra những điều sai phạm – Xét mình.
Hối
tiếc và thật lòng xin lỗi Chúa – Ăn năn tội.
Nhận
ơn tha tội – Xưng tội
Quyết
tâm thay đổi từ suy nghĩ và hành động sao cho đúng với thánh ý Thiên Chúa
và mang ích lợi thiêng liêng. Yếu tố cuối cùng nầy tiếng Việt gọi là dốc lòng
chừa, đoan hứa là không phạm tội nữa.
Lịch sử dânThiên Chúa là những
chuỗi ngày lập đi lập lại những yếu tố trên: Gặp thử thách – Phạm tội – nhận
biết tội – hối hận xin lỗi Chúa – Nhận ơn tha tội rồi sau đó …lại phạm tội…..
Chúng ta có thể thấy những hành động phạm tội, sám hối và nhận ơn tha thứ trong
Sáng thế Ký 4,7; Sách Lê-vi 4, 5; Sách Đệ Nhị Luật 4:30, 30:2; Sách Các Vua
quyển I
8:33, 48; Tiên Tri Hôsêa 14:2; Tiên Tri Giêrêmia 3:12, 31:18, 36:3; Tiên Tri
Ezêkien 18:30-32; Tiên tri Isaia 54:22, 55:6-10; Tiên tri Gioên 2:12; và Tiên
Tri Giona 2:10.
Điều nầy không xa lạ gì với cá nhân
mỗi người chúng ta: Phạm tội – Sám hối – Xưng tội – Dốc lòng chừa tội rồi lại
phạm tội…. và cứ diễn đi diễn lại cho đến giờ chết. Nên Bí tích giài tội Chúa
lập thật cần thiết cho con người yếu đuối của chúng ta. Bí tích giải tội được
Chúa lập để tha các tội chúng ta phạm sau khi rửa tội. Trên thực tế ai cũng
phạm tội sau khi rửa tội. Nên tất cả đều cần sám hối và cần đi xưng tội.
Có nhiều người ngại đi xưng
tội, vì không muốn nói tội mình ra cho người khác. Thứ đến “xưng chi cho
mất công, vì cứ phạm đi phạm lại hoài!” Người khác mà chúng ta nói tội mình ra
là linh mục. Linh mục khi ban bí tích thì hành động in personna Christi
capitis, hành xử trong con người Chúa Kitô là thủ lãnh. Nên đó là Chúa Kitô qua
hình ảnh linh mục, cũng là tội nhân như chúng ta. Thứ đến, biết rằng chúng ta
sẽ sa đi ngã lại trong một thứ tội. Nên chúng ta được khuyến khích xưng tội bất
cứ khi nào có tội. Còn thừa tác viên của bí tích giải tội thì là Giám Mục, linh
mục bình thường hay cả những linh mục đã hoàn tục đáp ứng cho những hối nhân
trong trường hợp nguy tử (Giáo luật 986 §2)
Không
có “BÁC và ÁI” nhưng chỉ có “BÁC-ÁI”.
Theo nguyên ngữ tiếng Việt: “BÁC” có
nghĩa là bao la, rộng rãi. Nên Bác sĩ là người uyên bác, học rộng, hiểu nhiều. “ÁI” là
yêu thương. Người có bác ái là người có tình yêu thương bao la, rộng lớn với
những người trong cảnh cùng khổ hay những ai cần giúp đỡ.
Người
Việt Nam nói chung, đặc biệt
người Công Giáo Việt Nam
thực hiện chữ “ÁI” thật tốt. Nhưng dường như thiếu “BÁC” hay nói
khác đi thiếu chiều kích phổ quát, rộng rãi hay phi biên giới. Năm nào thiên
tai bão lụt cũng xảy ra bên Việt Nam ,
nhất là Miền Trung Việt Nam .
Thì dụ Bão Ketsana số 9, năm 2009 và trước đó Bão Lekima năm 2007. Người Việt Nam , bất kể lương giáo trên khắp các Châu Lục
đều tích cực quyên góp cứu trợ nạn nân bão lụt Việt Nam . Chúng ta quen gọi là bà con
ruột thịt thân thương. Nhiều người E-mail và nhắc nhỡ tôi ra thông báo kêu gọi
cứu trợ bão lụt Việt Nam .
Số tiền quyên góp và gửi về Việt Nam không nhỏ chút nào. Nguyên chỉ
gần 20 cộng đoàn công giáo Việt Nam ở Canada quyên góp cứu trợ bão lụt Ketsana
số 9 lên đến 150 ngàn Gia kim. Ở Vancouver và Surrey đã có gần 100 ngàn. Rất đáng khâm phục và khích
lệ! Felix Viet Nam !
Ôi, Việt Nam
hồng phúc!
Tuy
nhiên, nhiều khi “ÁI” theo kiểu Việt Nam
mình bị hạn hẹp và giới hạn trong nước Việt Nam
và cho bà con ruột thịt Việt Nam
mình thôi. Không có tội lỗi gì cả trong chuyện nầy, nhưng chúng ta thật sự
thiếu “BÁC” và nếu căn cứ vào Lời Chúa nói thì “nào có ích chi, nều chỉ yêu
thương người yêu mình hay chỉ yêu thương bà con ruột thịt của mình?” (Luca
6,27-36). Mới gần đây thôi, ngày 12 thang 1, 2010, động đất xảy ra ở Haiti giết chết
bảy mươi lăm ngàn người và gây tan thương, không nhà cửa, không lương thực cho
một triệu người khác. Bão lụt Ketsana số 9 có là gì so với trận động đất khủng
khiếp ở Haiti .
Nhưng thử hỏi, chúng ta, người Công Giáo Việt Nam có giúp đỡ những nạn nhân
“không ruột thịt” nầy tới mức nào? Có được 1/10 so với số tiền giúp bão lụt
Ketsana số 9 ở Việt Nam
không? Có nhiều người diện dẫn cho chuyện thiếu “BÁC” của mình bằng việc đổ
thừa cho Hội Đồng Giám MJục Canada “sao không nghe các Đức Cha Canada nói gì
cả!” Thật sự Hội Đồng Giám Mục Canada
đã ra thông báo khẩn cấp kêu gọi giúp Haiti hai ngày sau, tức ngày
14.1.2010.
Có chủng viện ở một giáo phận
Canada năm nào cũng cho chủng sinh và đôi khi chính ban tổ chức tiếp xúc với
tất cả giáo xứ trong địa phận, trong đó có giáo xứ Việt Nam để được phép đến
giáo xứ cổ động ơn thiên triệu cũng như vận động tài chánh cho chương trình đào
tạo linh mục. Chủng viện và chủng sinh, liên tiếp ba năm, ba lần liên lạc điều
bị Cha xứ Việt Nam
từ chối. Lý do: Giáo Xứ Việt Nam
trong giáo phận Canada ,
nhưng có chương trình vận động ơn thiên triệu riêng cho dòng tu Việt Nam . Ai cũng
công nhận Cha xứ có một vận động rất hay và rất kết quả cho ơn thiên triệu dòng
tu Việt Nam .
Không ai có thể chối bỏ việc thể hiện “ÁI” nơi Cha và giáo dân Việt Nam
mình. Nhưng xem chừng thiếu “BÁC”, chúng ta chỉ biết yêu thương người trong nhà
mà thiều một tình yêu phổ quát và rộng rãi như từ BÁC ÁI mà chúng ta được kêu
gọi thể hiện đúng như tinh thần bác ái Kitô giáo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét