Trang

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

03-03-2013 : (Phần I) CHÚA NHẬT III MÙA CHAY năm C


CHÚA NHẬT 03/03/2013
Chúa Nhật III Mùa Chay Năm C
(Phần I)


 Bài Ðọc I: Xh 3, 1-8a. 13-15
"Ðấng hiện hữu sai tôi đến với anh em".

Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê chăn chiên cho ông nhạc là Giêtrô, tư tế xứ Mađian. Ông lùa đoàn chiên qua sa mạc, đến núi Horeb là núi của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện ra với ông trong ngọn lửa cháy từ giữa bụi gai. Ông nhìn thấy bụi gai bốc lửa, nhưng không bị thiêu rụi. Môsê nói: "Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này, vì sao bụi gai không bị thiêu rụi".
Thiên Chúa thấy ông lại xem, từ giữa bụi gai Người gọi ông: "Môsê! Môsê!" Ông thưa: "Dạ con đây!" Chúa nói: "Ngươi đừng đến gần đây. Hãy cởi dép ở chân ra, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh". Chúa lại nói: "Ta là Thiên Chúa của Tổ phụ ngươi. Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp". Môsê che mặt, vì không dám nhìn Thiên Chúa. Chúa nói: "Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than kẻ đốc công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng, nên Ta xuống cứu chúng thoát khỏi tay người Ai-cập và đưa ra khỏi đất ấy đến miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và mật".
Môsê thưa với Thiên Chúa rằng: "Này con sẽ đến với con cái Israel và bảo họ: Thiên Chúa của tổ phụ anh em đã sai tôi đến với anh em. Nếu họ hỏi con: "Tên Người là gì?", con sẽ nói sao với họ?" Thiên Chúa nói với Môsê: "Ta là Ðấng Tự Hữu". Chúa nói: "Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: "Ðấng Tự Hữu sai tôi đến với anh em".
Thiên Chúa lại nói với Môsê: "Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: "Thiên Chúa của tổ phụ anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp sai tôi đến với anh em". Ðó là danh Ta cho đến muôn đời, đó là danh Ta phải ghi nhớ qua mọi thế hệ".
Ðó là lời Chúa.

 Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 6-7. 8 và 11

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.
2) Người đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.
3) Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel. - Ðáp.
4) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. - Ðáp.

 Bài Ðọc II: 1 Cr 10, 1-6. 10-12
"Ðời sống dân chúng đối với Môsê trong hoang địa được viết ra để răn bảo chúng ta".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết điều này, là tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây, đi ngang qua biển và tất cả nhờ Môsê mà được thanh tẩy, dưới áng mây và trong lòng biển; tất cả đã ăn cùng một thức ăn thiêng liêng, và uống cùng một thức uống thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng đi theo họ: tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Tuy nhiên, không phải phần đông trong họ đã sống đẹp lòng Chúa, vì họ đã bị gục ngã trong hoang địa.
Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như những người đó đã chiều theo. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đã làm, và đã vong mạng bởi tay một sứ thần huỷ diệt. Những việc đó đã xảy đến cho họ để làm gương, và đã được ghi chép để răn bảo chúng ta là những người đang sống trong thời đại cuối cùng. Thế nên, ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã.
Ðó là lời Chúa.

 Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2

Này là lúc thuận tiện, này là ngày cứu độ.

 Phúc Âm: Lc 13, 1-9
"Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Ngài nói với họ dụ ngôn này: "Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: "Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!" Nhưng anh ta đáp rằng: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi".
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm : Chúa Kêu Gọi Thống Hối

Với Chúa nhật hôm nay, chúng ta đã đi vào giữa Mùa Chay. Phụng vụ hối thúc chúng ta phải làm công việc quan trọng nhất trong mùa này, là thống hối ăn năn tội lỗi và trở về với Chúa. Những tư tưởng này được trình bày rõ rệt trong bài Tin Mừng và bài Thánh Thư. Nhưng chúng ta cần xem bài Cựu Ước trước, để thấy Chúa thương xót những người khổ sở như thế nào và Người sẵn sàng giải thoát họ. Ðược niềm tin như vậy, chúng ta sẽ sung sướng đón nhận Lời Chúa kêu gọi ăn năn thống hối để được cuộc hành trình mùa Chay nói riêng và đời sống nói chung của chúng ta sẽ tốt đẹp hơn cuộc hành trình của con cái Israen nơi sa mạc mà bài Thánh thư hôm nay còn gợi lại. Chúng ta hãy bắt đầu với bài Cựu Ước.


1. Chúa Muốn Cứu Dân

Bài sách Xuất Hành hôm nay thuật chuyện Chúa gọi Môsê đi cứu dân. Chính ông đã được cứu ra khỏi nước khi mới sinh được ít tháng. Hoàng đế Ai Cập bấy giờ ra lệnh giết hết con trai mới sinh của người Do Thái. Mẹ của Môsê thương con, dấu diếm trong nhà cho đến ngày không dấu được nữa. Bà bỏ con vào thúng đã trét hắc ín và đem đặt bên bờ sông, nhằm lúc Công chúa của Pharaôn đến tắm. Nàng thấy đứa bé xinh, cho tìm vú nuôi và sau đem vào hoàng cung giáo dục. Khi đã thành nhân, một hôm ra khỏi đền vua, Môsê thấy cảnh nô lệ man rợ của đồng bào mình. Ông đã giết một tên Ai Cập để bênh vực một người đồng hương; và sau đó sợ lộ chuyện, ông phải trốn đi và trở thành mục tử chăn dê cừu cho nhạc phụ là Jếthro ở đất Mađian.
Hôm nay Môsê lùa đàn vật đi ăn, ngang qua sa mạc và đến núi của Thiên Chúa. Người Do Thái miền Bắc gọi núi này là Horeb; còn người miền Nam gọi nó là Sinai. Và dân của cả hai miền đều coi nó là núi thánh và là núi của Thiên Chúa. Vì nó vẫn là nơi có điện thờ và có sự hiện diện của Chúa một cách đặc biệt, hay nó chỉ mới trở nên thánh địa kể từ ngày có câu chuyện Chúa hiện ra hôm nay với Môsê? Béthel (Kn 28,11) cũng là một nơi giống như vậy. Israen đến đó và mơ thấy có một bậc thang bắc từ đất đến trời. Ông bừng dậy và nhận ra nơi này là thánh địa. Nơi ấy xưa nay vẫn thánh, hay mới chỉ thánh từ khi Israen được Chúa hiện ra trong chiêm bao ở trên đất này? Dù sao việc Chúa hiện ra cũng đã làm cho những nơi kia trở nên thánh địa một cách khác thường. Và mỗi khi Người hiện ra, các tác giả Thánh Kinh đều nói rằng "thần sứ" của Người hiện ra chứ không dám nói rằng chính Người xuất hiện. Và từ ngữ "thần sứ Giavê" đã trở thành công thức nói về "Thiên Chúa hiện ra".

Vậy hôm nay thần sứ Giavê đã hiện đến với Môsê trong ngọn lửa giữa bụi gai. Thoạt đầu Môsê đâu có biết. Ông chỉ thấy một ngọn lửa cháy giữa bụi gai mà gai không bị thiêu hủy. Thấy lạ, Môsê muốn mon men lại gần để quan sát. Nhưng từ trong lửa giữa bụi gai có tiếng gọi: "Môsê, Môsê"; rồi bảo ông chớ lại gần vì đây là nơi thánh địa.
Ðối với chúng ta, một hình thức Chúa hiện ra như vậy tỏ ra thế nào ấy! Nhưng đối với người xưa đó là hình thức quá tự nhiên để họ khỏi khiếp đảm. Họ vẫn quan niệm thần linh ở trong lửa, trong khói. Có ngọn lửa lạ lùng giữa một bụi gai như vậy là dấu chắc chắn có thần linh muốn hiện ra với người ta. Trong tiếng Do Thái, chữ bụi gai cũng na ná như chữ Sinai. Và vì thế lửa cháy giữa bụi gai hôm nay, như báo trước một ngày nào đó lửa cũng sẽ nghi ngút trên đỉnh Sinai khi Chúa muốn ký kết giao ước với đoàn dân mà Môsê vừa dẫn ra khỏi Ai Cập. Chúa giữa bụi gai cũng là Chúa ở núi Sinai, Người đã hiện diện đến với Môsê ban cho ông những mạc khải vô cùng quan trọng.
Người tự xưng là Chúa của Abraham, Isaac và Giacob, những tổ phụ xa xôi của con cái Israen. Người đã thấy những nỗi thống khổ của họ bên Ai Cập. Người đã nghe tiếng roi của các đốc công người Ai Cập quất trên họ. Người nghe hết những tiếng kêu đau khổ của con cái Israen. Người sẽ ra tay cứu họ ra khỏi Ai Cập, và đưa họ vào Ðất Hứa chảy sữa và mật. Thế nên Người bảo Môsê: "Vậy bây giờ ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô; ngươi hãy đem dân của Ta, con cái Israen ra khỏi Ai Cập".
Lệnh truyền đầy cương quyết và thật an ủi. Nó nói lên lòng thương đầy thông cảm và hiểu biết của Chúa. Nó cho thấy Chúa quan tâm săn sóc những người khổ sở. Họ là "phần riêng" của Người. Họ sẽ trở thành "sở hữu" của Người. Chúng ta muốn nhận được tình thương của Chúa, hãy đứng vào hàng ngũ những thành phần khó nghèo và khổ sở. Nhất định chúng ta sẽ nhận được nhiều tình thương cứu độ, nếu chưa dám nói là nhận được tất cả lòng thương xót của Chúa...
Mà chúng ta đâu có cần đứng vào hàng ngũ những thành phần đáng thương ấy. Bản chất chúng ta là tội nhân đầy những yếu đuối và rồi đây sẽ phải chết. Không ai khổ sở và đáng thương hơn chúng ta; chỉ có điều chúng ta dễ quên và muốn quên thân phận của mình. Chúng ta tự ái muốn che dấu tội lỗi của chúng ta. Chúng ta muốn bám vào những lớp sơn có thể che dấu được con người thật của mình. Chúng ta che thân bằng quần áo thì cũng muốn che tâm hồn và đời sống hèn hạ dưới những cái "mã" tưởng là dễ coi. Chính sự bỏ quên cũng là một bình phong và là một tấm màn phủ lên con người xấu xa của chúng ta...
Nhưng vô ích, lương tâm như một con sâu luôn rúc rỉa tâm hồn. Bài Kinh Thánh hôm nay, những Lời Chúa vừa tuyên bố, mùa Chay đang cử hành, tất cả kêu gọi chúng ta hãy giác ngộ, thú nhận tội lỗi và cầu xin ơn tha thứ. Thiên Chúa đang đến. Người đầy lòng xót thương. Người muốn cứu kẻ lầm than khổ sở. Người sai một Môsê Mới đi cứu những ai thú nhận mình yếu đuối. Ðó là Ðức Giêsu Kitô. Nhưng để hiểu biết Người, chúng ta hãy tiếp tục xem Môsê cũ.
Nghe Chúa muốn sai mình đi cứu dân. Ông xin được muốn đích danh của Người để khi con cái Israen hỏi ông biết đàng mà thưa. Nhưng không lẽ ông chưa biết danh Giavê! Và chắc chắn ông cũng đã biết con cái Israen vẫn dùng danh Giavê mà xưng tụng Chúa. Có lẽ ở đây tác giả viết như vậy là vì muốn giải thích danh Giavê và muốn cho lời giải thích này khởi sự từ Môsê và từ miệng Chúa. Người trả lời cho Môsê: Ta là Ðấng "Ta có".
Vẫn biết lời của Chúa nói ở đây khó dịch ra tiếng Việt Nam. Nhưng trong mọi thứ tiếng và ngay trong tiếng Do Thái, ý nghĩa của câu Chúa trả lời để mạc khải Danh của Người cũng thật khó hiểu. Nó khó hiểu đến nỗi có thể nói được rằng nghe rồi người ta cũng chẳng hiểu gì hơn. Và điều này chứng tỏ không từ ngữ và quan niệm nào có thể diễn tả được Thiên Chúa. Người là Ðấng Vô Danh theo nghĩa của Lão Tử, tức là theo nghĩa không thể nào gọi tên được. Mọi danh xưng đều bất lực nói về bản tính Thiên Chúa.
Nhưng khi nói Giavê Ðấng đang có, người ta cũng có thể nghĩ đến sự trường tồn của Người, đang khi hết thảy là phù vân không có nền tảng hiện hữu. Nhất là tựa vào ý nghĩa ấy, người ta có thể nghĩ rằng Giavê là Ðấng luôn hiện diện với Môsê và với dân Người để ở với họ, hướng dẫn họ, giúp đỡ họ thi hành kế hoạch của Người. Và điều này sẽ được triển khai khi cũng tác giả Xuất Hành viết: Giavê là Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung, đầy nhân nghĩa và tín thành (34,6). Mà quả thật mọi trang Kinh Thánh mạc khải đều nói lên lòng từ nhân của Thiên Chúa Giavê. Người không ở xa con cái loài người, nhưng hằng quan tâm độ trì họ.
Ðặc biệt trong bài sách Xuất Hành hôm nay Người tỏ ra thông cảm, lo lắng cho số phận con cái Israen. Người hiện ra với Môsê với tâm trạng ấy, thì khi Người giải thích danh xưng Giavê của Người, chúng ta có thể và có lẽ phải hiểu theo ý nghĩa từ nhân này. Và phụng vụ hôm nay cũng muốn chúng ta biết Thiên Chúa là Ðấng đầy lòng thương xót đang muốn cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy nghe thêm lời Con của Người nói trong bài Tin Mừng để hiểu Người hơn và mến Người hơn nữa.

 2. Chúa Kêu Gọi Thống Hối

Thánh Luca kể, hôm ấy người ta đưa tin cho Ðức Giêsu biết: Pilatô mới giết một số người Galilê, khi họ dâng lễ. Vụ này ai cũng biết nên tác giả không cần nói rõ thêm. Ðàng khác Pilatô đã làm nhiều vụ như vậy mà sử sách còn kể lại. Phản ứng của Ðức Giêsu không chính trị tí nào, mà chỉ hoàn toàn đạo đức. Người đáp: các ngươi tưởng đó là những người tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Không đâu, nếu không hối cải, các ngươi hết thảy cũng sẽ bị tiêu diệt như thế.
Người còn nói thêm về vụ 18 người bị tháp Silôam đổ xuống đè chết. Vụ này chắc cũng phải thời danh lắm. Ai nghe nói cũng hiểu tức thời. Nhưng 18 người kia có phải là hạng tội lỗi hơn mọi kẻ cư ngụ ở Giêrusalem không? Không đâu, Người nói: "Nếu các ngươi không hối cải, các ngươi cũng sẽ bị tiêu diệt in như thế".
Trong phản ứng của Người, chúng ta có thể nhận ra một số quan niệm Người không coi những kẻ bị tai họa bên ngoài tất nhiên phải là hạng tội lỗi hơn mọi người khác. Cũng như trong sách của Gioan, Người không coi một kẻ mù từ khi mới sinh là vì tội của nó, hay của cha mẹ nó. Ðối với Người ai cũng có tội hết, cả những người ở Galilê và cả những người ở Giêrusalem. Tất cả những người đang ở trước mặt Người và nghe Người nói đều có tội. Họ hãy thống hối và cải thiện; nếu không họ cũng sẽ bị tiêu diệt, dĩ nhiên không phải hết thảy sẽ bị giết hay tháp đè. Nhưng tất cả đều sẽ chết và chết đời đời.
Và để thúc đẩy người ta nhận thấy tình cảnh đã khẩn trương, Ðức Giêsu kể tiếp dụ ngôn về cây vả. Chủ vườn muốn chặt nó tức khắc, vì đã ba năm rồi, ông đến tìm quả mà không thấy một trái nào. Nếu bài dụ ngôn đã dừng lại ở đây, thì chúng ta chỉ thấy tính cách khẩn trương của vấn đề hối cải. Và chúng ta có thể nghĩ rằng Ðức Giêsu đã nói dụ ngôn này vào khoảng cuối đời truyền giáo, sau ba năm hoạt động nơi người Do Thái, như Mátthêu và Máccô đã kể chuyện về một cây vả tương tự vào hai, ba ngày trước khi Chúa Giêsu bị bắt nộp.

Nhưng Luca tác giả của lòng thương xót, đã không dừng lại ở lời ngăm đe tức thời như vậy. Ông cho người làm vườn đến trước mặt chủ và xin để cây vả lại một năm nữa, chờ cuốc xới và bón phân thêm xem thế nào, không chừng nó sẽ sinh quả; bằng không sẽ chặt nó đi.
Người làm vườn nào mà lạ lùng như vậy? Xét theo chuyên canh, lời ông chủ thật có lý. Ðể cây vả lại trong tình trạng ấy chỉ làm hại đất. Nhưng chính vì lạ lùng, người làm vườn kia khiến chúng ta nghĩ đến một câu trong sách của Gioan: "Cha Ta là người trồng nho". Quả thật câu nói của người làm vườn ở đây đầy lòng nhân từ. Lời người ấy buộc chúng ta phải nghĩ đến lòng thương xót kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người muốn cuốc xới và bón phân, tức là săn sóc chăm nom để tội nhân trở lại sinh quả tốt. Kinh Thánh không thường ví dân Chúa như một thân nho sao?
Và như vậy, khi cho người làm vườn xuất hiện nài xin ông chủ vườn để cây vả lại, tác giả Luca muốn cho chúng ta thấy lòng thương xót lạ lùng của Thiên Chúa đã tỏ hiện đối với tội nhân. Và cụ thể người muốn nói đến Ðức Kitô Giêsu, Ðấng mà Chúa Cha đã sai đến để kêu gọi người tội lỗi. Ngài đang lao nhọc vất vả giảng dạy và khuyên bảo người ta. Người đang cuốc xới và bón phân. Ngài ban cho người ta một hạn chót để trở lại: một năm nữa thôi. Phải chăng Ngài đang ở trong năm thứ hai của cuộc đời truyền giáo? Ðúng hơn đó chỉ là kiểu nói ám chỉ hạn chót.
Do đó tính cách khẩn trương của lời kêu gọi hối cải vẫn còn y nguyên. Nó được trình bày kèm với quan niệm về lòng thương xót kiên nhẫn của Thiên Chúa. Và như vậy luôn luôn nó sẽ có tính cách tức thời; khiến hôm nay đọc bài Tin Mừng này, chúng ta vẫn thấy đang được thôi thúc phải ăn năn hối cải và sinh quả công chính.
Hơn nữa, có thể nói được rằng lời hối thúc lại càng khẩn trương khi nó lại là tiếng nói của một tấm lòng đầy nhân nghĩa, nó làm chúng ta lại nhớ tới Lời Chúa thổ lộ với Môsê trước khi sai ông đi cứu dân. bao giờ Chúa cũng từ nhân và muốn cứu độ; chúng ta có thể làm ngơ trước kêu gọi tha thiết như vậy không? Thánh Phaolô bảo chúng ta phải coi chừng. Chúng ta hãy đọc thư Người.

 3. Chúa Ðã Chẳng Hài Lòng

Thánh Tông đồ không viết cho dân thời Môsê, cũng chẳng gởi cho người Do Thái thời Chúa Giêsu, mà là cho các Kitô hữu, những người đã được lãnh nhận Thánh tẩy và thường cử hành thánh lễ tạ ơn. Họ được ưu đãi như thế, nhưng cũng phải coi chừng, vì dân Cựu Ước cũng đã được những ơn tương tự, nhưng đã chết nơi sa mạc và không được vào Hứa Ðịa. Họ cũng đã thanh tẩy khi tin vào Môsê mà đi qua nước Biển. Họ đã được ăn Manna, cũng là một thứ lương thực thiêng liêng. Họ đã uống được ở Tảng Ðá giữa sa mạc chảy ra và như vậy nước ấy cũng linh thiêng vì vọt ra từ một tảng đá lạ lùng (Ds 20,8) mà truyền thống Do Thái nói rằng nó đi theo con cái Israen suốt trong thời gian nơi sa mạc. Nếu có một sự kiện như thế, thì theo Phaolô, tảng đá ấy phải là hình ảnh về Ðức Giêsu Kitô cứu thế, vì nó có sức độ trì dân khát nước như vậy. Do đó dân Cựu Ước đã có tất cả những sự thánh thiện tương tự của Tân Ước là "Thánh tẩy và Thánh thể"... nhưng họ đã chết vì đam mê (Ds 11,4-6); vì thờ quấy (Xh 32,6); vì dâm dật (Ds 25,1-5); vì thử thách Chúa (Ds 21,4-6); và vì kêu ca Người (Ds 13,25...). Tất cả những việc ấy đã xảy ra để làm gương cho chúng ta. Ðừng ai tưởng mình đã đứng vững trong sự thánh thiện. Hãy coi chừng kẻo ngã. Hãy khiêm nhường thú nhận tội lỗi để được hưởng nhờ lòng Chúa xót thương.

Trong cả ba bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta đã thấy lòng từ bi của Chúa khẩn thiết kêu gọi chúng ta thống hối ăn năn. Chúa Giêsu trong mầu nhiệm bàn thờ mà chúng ta cử hành bây giờ càng mong muốn chúng ta trở lại hơn nữa. Người đến không những để tha thứ mà còn để hoán cải. Chúng ta hãy dự lễ để thêm ơn Phục sinh; để cải tạo đời sống, để làm cho mùa Chay thành mùa đổi mới con người và xã hội, đáp lại lòng Chúa luôn xót thương muốn cứu độ mọi người.

 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật III Mùa Chay, Năm C
Bài đọc: Exo 3:1-8a, 13-15; I Cor 10:1-6, 10-12; Lk 13:1-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Hãy biết dùng cơ hội Thiên Chúa ban để sám hối và sinh hoa kết trái.
 Không ai trong chúng ta muốn giữ những thứ vô dụng, vừa choán chỗ vừa không dùng được: chiếc áo đã rách, đôi giày đã thủng lỗ, cái dù đã bị bung; nếu đã cố gắng sửa mà vẫn không dùng được, chúng ta sẽ vất nó vào sọt rác để mua sắm cái khác. Con người trước mặt Thiên Chúa cũng thế, Ngài sẽ làm mọi cách để sửa dạy và giúp con người thăng tiến như: răn dạy, cảnh cáo, và dùng hình phạt; nhưng nếu đã cố gắng mọi cách mà không sửa đổi được, Ngài sẽ phải cất đi để khỏi tốn công và tránh thiệt hại cho người khác.
Các Bài Đọc của Chủ Nhật III Mùa Chay tập trung trong việc con người phải biết nắm lấy cơ hội Thiên Chúa ban để ăn năn sám hối và thăng tiến không ngừng. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa động lòng thương xót dân của Ngài khi thấy họ bị đối xử tàn nhẫn như những nô lệ bên Ai-cập; Ngài hiện ra với ông Moses để tỏ ý định của Ngài và sai ông đến với con cái Israel để chuẩn bị đưa họ ra khỏi đất nô lệ để vào Đất Hứa. Trong Bài Đọc II, Phaolô muốn các tín hữu nhìn lại biến cố Xuất Hành để rút ra bài học cụ thể cho các tín hữu Corintô: cho dù con cái Israel đã được Thiên Chúa yêu thương và ban cơ hội để giải thoát; nhưng nhiều người trong họ đã không biết dùng cơ hội, vẫn càm ràm, than trách, và sau cùng phải chết trước khi vào Đất Hứa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho dân chúng phải biết nhìn các biến cố xảy ra trong cuộc đời và học hỏi những điều quan trọng cho bản thân: khi thấy người khác chết, đừng nghĩ là họ tội lỗi hơn mình, nhưng hãy biết sự chết cũng sẽ xảy ra cho mình; điều quan trọng là phải biết ăn năn sám hối và sinh hoa kết trái cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
 1/ Bài đọc I: Ta xuống để giải thoát chúng khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập.
 1.1/ Thiên Chúa thương xót và muốn giải cứu con cái Israel khỏi cảnh làm nô lệ.
(1) Cuộc thần hiện của Thiên Chúa cho ông Moses: Moses tuy là người Do-thái; nhưng lớn lên trong hoàng gia như là con của công chúa Ai-cập. Sở dĩ ông phải bỏ hoàng gia để trốn qua đất Madian là vì ông đã giết một người Ai-cập khi người này đối xử dã man với một người Do-thái; tin này được loan truyền tới tai vua Pharaoh và nhà vua đang tìm cách bắt ông. Giống như tổ-phụ Abraham, Moses chưa một lần được biết Thiên Chúa. Để tỏ cho ông Moses biết uy quyền của Thiên Chúa, Ngài cho ông chứng kiến một hiện tượng lạ khi ông đang chăn chiên cho bố vợ là Jethro, tư tế Madian. Ông Moses nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi, ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?" Đức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Moses! Moses!" Ông thưa: "Dạ, tôi đây!" Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh."
(2) Ý định của Thiên Chúa: Người mặc khải cho Moses: "Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob… Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật.”
 1.2/ Thiên Chúa chọn ông Moses để lãnh đạo con cái Israel: Khi biết Thiên Chúa muốn chọn mình để lãnh đạo con cái Israel ra khỏi Ai-cập, ông Moses nhìn thấy trước hai khó khăn trong sứ vụ Thiên Chúa trao phó: Thứ nhất, vua Pharaoh đang tìm giết ông, làm sao ông dám vào để yêu cầu nhà vua phóng thích con cái Israel. Thứ hai, con cái Israel sẽ không tin ông, một người họ không biết và chẳng có trong tay một sức mạnh nào cả.
(1) Thánh danh của Thiên Chúa: Ông Moses thưa với Thiên Chúa: "Bây giờ, con đến gặp con cái Israel và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?" Thiên Chúa phán với ông Moses: "Ta là Đấng Hằng Hữu." Người phán: "Ngươi nói với con cái Israel thế này: "Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em."” Đấng Hằng Hữu nghĩa là Đấng luôn có. Đây là thánh danh mới của Thiên Chúa mặc khải cho con người. Để cho Moses và con cái Israel khỏi nhầm lẫn với một thần mới, Thiên Chúa dùng hai lần câu: “Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob.” Nói cách khác, Ngài vẫn là Thiên Chúa mà tổ phụ của họ đã biết và chính họ đang kêu cầu. Truyền thống Do-thái sau này rất sợ dùng thánh danh “Yahveh,” họ thay thế bằng các danh từ: Đức Chúa (Elohim), Thiên Chúa của con (Adonai), Thiên Chúa các đạo binh (El Sabaoth), Thiên Chúa uy quyền (El Shaddai)…
(2) Mối liên hệ giữa Thiên Chúa với ông Moses: Để củng cố niềm tin và đánh tan sự sợ hãi của Moses, Ngài hứa với ông: “Ta sẽ ở với ngươi” (x/c 12). Lời hứa này được Thiên Chúa thực hiện bắt đầu từ cuộc thương lượng với vua Pharaoh, suốt trong cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cho tới khi đem dân vào Đất Hứa. Ông Moses cũng chịu thử thách bởi Thiên Chúa như dân. Thử thách lớn nhất ông phải chịu là tuy được thấy Đất Hứa từ xa; nhưng không được cùng dân vào Đất Hứa, mà phải chết và an táng trước khi qua sông Jordan.
 2/ Bài đọc II: Chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta.
 2.1/ Biến cố Xuất Hành là bài học cho mọi tín hữu: Bối cảnh của trình thuật hôm nay là câu trả lời của Phaolô cho các tín hữu Corintô có nên ăn thịt cúng. Phaolô cho các tín hữu một nguyên tắc: được ăn, nhưng phải có lòng bác ái tôn trọng những người yếu đức tin; hơn nữa, người tín hữu phải biết đề phòng các chước cám dỗ; đừng quá tự tin nơi sức hèn của mình.
Để dẫn chứng một ví dụ cụ thể, Phaolô mời họ nhìn lại gương của con cái Israel khi họ xuất hành khỏi Ai-cập, lang thang suốt 40 năm trời trong sa mạc để được thanh luyện bởi Thiên Chúa, trước khi được vào Đất Hứa. Phaolô viết: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Moses.
Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng (manna), tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc.”
 2.2/ Biết học nơi gương người đi trước: Phaolô khuyên các tín hữu: Biến cố Xuất Hành không chỉ là biến cố lịch sử của người Do-thái; nhưng còn là “bài học răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta.”
Được hưởng mọi đặc quyền từ Thiên Chúa không có nghĩa là sẽ được vào Đất Hứa. Giống như con cái Israel trong biến cố Xuất Hành, người tín hữu cũng đã được hưởng mọi đặc quyền từ Đức Kitô: được chịu Phép Rửa trong Phép Rửa của Ngài, được ăn thịt và uống máu trong Bữa Tiệc Ly với Ngài; nhưng những điều này không bảo đảm sẽ được phục sinh vinh hiển với Đức Kitô trong vương quốc của Ngài, nếu người tín hữu không biết dùng ơn thánh Đức Kitô ban để luyện tập nhân đức và vượt qua mọi cám dỗ cuộc đời để giữ vững đức tin vảo Thiên Chúa. Các tín hữu Corintô không thể tự mãn với đức tin của họ; nếu họ không đề phòng và làm cho đức tin vững mạnh, họ cũng có thể sa ngã như những người đi trước.
3/ Phúc Âm: Nếu các ông không ăn năn sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.
 3.1/ Phải biết ăn năn sám hối khi còn có cơ hội.
(1) Đừng vội kết tội tha nhân: Truyền thống Do-thái có khuynh hướng đồng nhất đau khổ, bệnh tật, chết chóc với tội lỗi của cá nhân (x/c Sách Job, Jn 9:1). Trong trình thuật hôm nay, “có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilee bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.”
Đức Giêsu đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Galilee này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilee khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.” Như câu trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ trong John 9, Chúa Giêsu từ chối làm một sự nối liền giữa đau khổ và tội lỗi.
(2) Hãy học gương người đi trước: Điều Ngài muốn nhấn mạnh là con người phải biết rút ra bài học cho mình khi chứng kiến những gì xảy ra cho người khác. Trong hai ví dụ hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến nhu cầu con người phải ăn năn sám hối khi còn có cơ hội; nếu không họ cũng sẽ chết mà không được hưởng ơn cứu độ.
 3.2/ Thiên Chúa kiên nhẫn với con người: Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?”
(1) Con người phải sinh hoa trái cho Thiên Chúa bằng các việc lành: Ai cũng cho cây không sinh trái là cây vô dụng, con người không sinh ích lợi cho Thiên Chúa và tha nhân cũng là người vô dụng. Khi một người hay một vật đã trở nên vô dụng, họ sẽ bị lấy đi để dành cơ hội cho người khác. Khi những thứ vô dụng bị loại ra ngoài, chúng sẽ bị hủy hoại. Sự kiện người làm vườn kiên nhẫn cho cây vả 3 năm để sinh hoa kết trái cho thấy sự kiên nhẫn của ông. Thiên Chúa cũng thế, Ngài kiên nhẫn cho con người rất nhiều cơ hội để sửa mình và sinh hoa kết trái cho Ngài.
(2) Hãy biết năm lấy cơ hội như lần cuối cùng: Nhưng người làm vườn đáp lời ông chủ: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi."
Con người phải khôn ngoan vì họ không biết khi nào là cơ hội cuối cùng. Đừng bao giờ giả định cơ hội sẽ đến mãi: Biết bao nhiêu người chúng ta nhìn thấy năm trước, năm nay không còn nhìn thấy họ nữa; điều này có thể xảy ra cho chúng ta; vì thế, hãy sống như đây là Mùa Chay cuối cùng của cuộc đời; và hãy biết lợi dụng cơ hội Chúa ban để trở về.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
 - Thiên Chúa cho chúng ta sống trong thế gian là để chúng ta mưu cầu lợi ích cho phần rỗi linh hồn của chúng ta và của tha nhân.
- Nếu sau khi Thiên Chúa đã cung cấp mọi cơ hội để chúng ta có thễ lãnh nhận ơn cứu độ mà chúng ta vẫn từ chối, Ngài phải cất đi để chúng ta đừng làm thiệt hại phần hồn cho người khác.
- Hãy biết nắm lấy cơ hội như là cơ hội cuối cùng của cuộc đời, vì chúng ta không biết cơ hội có đến nữa hay không. Đàng khác, tại sao không tận dụng cơ hội để sống hạnh phúc và bình an ngay từ bây giờ để khỏi làm nô lệ cho xác thịt, thế gian và quỉ thần.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên,OP.

Giáo Lý Phúc Âm - CHÚA NHẬT  III MÙA CHAY NĂM C - ngày 3.3.2013
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY NĂM C
Sách Xuất Hành 3,1-8a, 13-15; Thư I Thánh Phaolô gửi Côrintô 1Cor.10,1-6.10-12 và Phúc  Âm Luca 13, 1-9
 I. Giáo Huấn P.Â.:
    Tại hoạ và tội lỗi. Thực tế của đời sống và thực tại của đời người.
    Tai hoạ tức thiên tai hay ác xấu xảy ra không nhằm trừng phạt những ai có tội.
     Tai hoạ xảy ra cũng không là một tán thành luật nhân quả “ác giả, ác báo hay ở hiền gặp lành ở ác gặp dữ”
      Người có tội và cố tình không sám hối, không cải tà qui chánh chắc chắn bị luận phạt.  Luận phạt có nghĩa là chặt bỏ như cây không sinh trái, tức giết chết và ném vào lửa hoả ngục.
      Ai cũng có tội. Ai cũng phải sám hối để tránh bị  chặt bỏ và bị tiêu diệt 
II. Vấn nạn P.Â.    
            Tổng trấn Philatô là ai? Tại sao Ông giết người Galilê? 
           Sau khi Vua Hêrôđê Cả băng hà vào năm thứ 4 sau công nguyên, Hoàng đế Roma Augustô chia Do Thái thành ba tiểu quốc cho ba con trai của Hêrôđê Cả: Hêrôđê Antipas làm vua Galilê và vùng tả ngạn sông Giôđan. Hêrôđê Philip cai quản Golan và Miền Đông Bắc. Hêrôđê Arkêlaus cai trị Giuđêa và miền Idumea. Đế quốc Roma cai trị các thuộc quốc theo hình thức đặt những tổng trấn để giữ gìn an ninh trật tự và nhất là để thu thuế cho hoàng đế Roma. 
      Thời Chúa Giêsu, Philatô làm tổng trấn Giuđêa từ năm 26-36 sau công nguyên, dưới thời hoàng đế Tiberius Cêsar. Ông là vị tổng trấn thứ năm kể từ khi Giuđêa mất chủ quyền. Ông thi hành nhiệm vụ tổng trấn dài đến 10 năm ở Giuđêa. Theo sử gia Flavius Josephus, tổng trấn Philatô là người không có thực quyền, mà tính khí lại nông nỗi, bộc trực và nhất là hay dùng quyền lực và sức mạnh quân sự đàn áp dân chúng, nhất là những phe phái, những phong trào nỗi lên chống La Mã. Ông ta được nhắc đến nhiều nhờ dính líu đến vụ án Chúa Giêsu. 
      Trong Phúc Âm Luca hôm nay, người ta báo cáo với Chúa rằng “những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu họ đổ ra hoà lẫn với máu tế vật đang dâng” Tại sao Philatô giết người Galilê? Phúc Âm không đề cập. Sử gia Flavius Joseph, trong sử ký Do Thái thời cổ thuật lại ít là ba biến cố người Galilê bị Philatô tàn sát. Người ta đoán là biến cố sau đây có liên quan đến đoạn phúc Âm Luca tường thuật hôm nay.
       Đó là việc Philatô , có thể do việc âm thầm cấu kết với thượng tế Caipha, dùng tiền dâng cúng trong đền thờ để dẫn nước ngọt cách đó 35 cây số vào Giêrusalem, đặc biệt vào dinh tổng trấn của Ông. Hàng ngàn người Do Thái chống đối, dâng lễ tế kêu cầu danh Yahvê tiêu diệt đế quốc La Mã và nguyễn rũa tổng trấn. Philatô ngầm cho lính ăn mặc giả dạng giống như người Do Thái, trà trộn vào đám đông đang chống đối. Đến thời điểm đã ngầm chỉ thị hành động, quân lính dùng gươm dáo giết những công dân Do Thái vô tội. Khiến máu họ hoà lẫn với lễ tế đang dâng. Chuyện kể xảy ra ở Giêrusalem, nhưng sao lại nói đến sự tàn sát người Galilê tức người Miền Bắc? Không có giải thích rõ ràng. Ức đoán rằng, đây là dịp lễ hội lớn có nhiều người từ Miền Bắc Giêrusalem tế lễ trong đền thờ. 
     “Mười tám người bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết” Tháp Silôa ra sao và chuyện tháp đổ xảy ra như thế nào? 
       Theo tường thuật Thánh Kinh thì Tháp Silôa là một tháp cỗ xây dựng ở vùng Silôa, phía Nam Giêrusalem và vì lâu đời không còn kiên cố đủ nên đã đổ sập đè chết mười tám người thời Chúa Giêsu.
      Có  những nhà chú giải thánh kinh thì cho rằng: Hồ nước Silôa hay hồ nước Bethsaida được tường thuật trong Gioan chương 5, hay tháp Silôa chỉ là những cổng ra vào khác nhau của cùng chung một khu vực tên Silôa. Tuy nhiên, cắt nghĩa nầy không đúng vì công trình khai quật cho thấy Ao nước Bethsaida nằm phía Bắc chứ không ở phía Nam Giêrusalem chung với tháp Silôa.
      Cũng có người cho rằng: Tháp Silôa là một phần của hệ thống dẫn thuỷ của quân đội La Mã nhằm dẫn nước từ hồ Silôa. Bản thân hồ Silôa thì nhận nước tử thác Gihon. Tuy nhiên nhiều nhà chú giải cho rằng tháp Silôa là pháo đài quân đội được xây nhằm giữ trậr tự an ninh cho thủ đô Giêrusalem. Tuy nhiên giải thích nầy vẫn không thoả đáp được thắc mắc là: Làm sao một đồn lính có quân đội đang trấn giữ mà lại có thể sập đổ một cách dễ dàng như vậy?
            Chúng ta không tìm ra lý do chắc chắn tại sao Tổng Trấn Philatô giết người Galilê và tại sao tháp Silôa đổ sập đè chết mười tám người. Vì Phúc Âm Thánh Luca trong Chúa Nhật III Mùa chay hôm nay không nhằm thoả đáp vấn nạn “tại sao?” nhưng chỉ muốn dùng hai tai hoạ xảy ra mà ai cũng biết nầy để chuyển đạt sứ điệp nầy: Ai cũng có tội. Bất cứ ai cũng cần sám hối. Nếu không cũng sẽ chết tất cả.
      Quan niệm hoạ đâu thì tội đó có đúng không? Có phải Chúa dùng tai hoạ để giáng phạt người có tội chăng? 
       Không đúng!
       Chính Chúa Giêsu không nhìn nhận quan niệm hoạ đâu thì tội đó hay ngược lại tội mang hoạ. Vì “Các Ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết mọi người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao?” Rồi Chúa nói tiếp “Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôa đổ xuống đè chết, các Ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao?” 
      Những người bị chết vì tai hoạ nầy không phải họ không có tội nhưng không phải vì có tội mà họ bị nhận lãnh tai hoạ. Cũng như người không gặp tai hoạ không phải là những người vô tội.
     Chúa là Cha chúng ta. Không có Cha nào nở lòng trừng phạt con mình, Thiên Chúa ban phúc cho cả kẻ lành người dữ kia mà (Matt.5,45)  Chúa là người Cha nhân hậu hơn chúng ta, ai trong chúng ta là Cha mẹ, không lẽ  con cái xin bánh lại cho đá? Không lẽ con cái xin trứng lại cho rắn hay bò cạp? (Luca 11,11) Chúng ta không cầu tai hoạ bao giờ, chỉ cầu phúc lành. Vậy Chúa là Cha chúng ta không lẽ ban cho chúng ta tai hoạ? 
      Nếu chấp nhận quan niệm “hoạ đâu tội đó!”  thì bảy mươi lăm ngàn nạn nhân chết trong trận động đất ở Haiti hôm ngày 12 tháng giêng năm 2010 vừa qua là những người tội lỗi hơn chúng ta sao? kể cả Đức Tổng Giám Mục Joseph Serge Miot, vì đất rung chuyển mạnh đánh sập Toà Giám Mục và Ngài té nhào lộn cổ chết?  Rồi mới gần đây, ngày 27.2.2010, động đất xảy ra ở Chí Lợi giết chết cả ngàn người. Những nạn nhân nầy là những người tội lỗi hơn chúng ta và đáng chết sao?
        Chúng ta thường yêu cầu Chúa làm những chuyện mà Chúa không làm hay đi ngược với luật định tự nhiên. Thí dụ chúng ta cầu nguyện cho một chuyến đi xa an toàn, nhưng chúng ta lái xe 150 cây số giờ thì ai có thể giữ cho chúng ta an toàn? Nếu chúng ta được an toàn sau chuyến chạy xe quá tốc độ nầy, chúng ta nghĩ là Chúa phù hộ chúng ta chăng? Còn nếu chúng ta gây tai nạn chết người vì chạy quá nhanh. Chúng ta bảo là Chúa không thương và không giữ gìn chúng ta chăng? Đây là kết quả của thứ tôn giáo tình cảm. Tin Chúa và cầu xin Chúa không vì phần rỗi của chúng ta, nhưng vì tình cảm thiếu trưởng thành và vì những lợi ích rất trần thế.
       Không, Chúa là Cha chúng ta, Chúa không thể nào dùng tai hoạ để tàn sát con cái Chúa. Những thiên tai xảy ra hàng ngày trên thế giới, là kết quả tự nhiên của vạn vật vũ trụ. Động đất thường do núi lửa dưới lòng biển sâu hoạt động, tạo chấn động mạnh, gây rung động mặt đất và làm mọi thứ sụp đổ. Những vùng đất nào nằm trong tầm ảnh hưởng núi lửa sẽ bị phá huỷ. Luật tự nhiên!
       Có  những ác xấu khác do con người gây ra thí dụ  như Hai Toà Tháp Thương Mãi cao ở Nữu Ước đã bị khủng bố đánh sập ngày 11.9.2001 thì thế nào? Chúa xúi khủng bố làm chuyện ác xấu giết người nầy chăng?
       Chúa là Đấng Thánh và tốt lành tuyệt đối không thể nào làm chuyện ác xấu hay tạo cơ hội để ác xấu xảy ra. Nhưng tất cả là do dã tâm của con người. Con người, chịu ảnh hưởng của tà thần, đã dùng tự do và trí thông minh Chúa ban để mang tai hoạ cho đồng loại.
      Một thí dụ khác: Chúng ta cầu cho gia đình hạnh phúc, đang khi chúng ta chọn chồng hay vợ một cách xốc nỗi thiếu suy nghĩ, như thành vợ chồng trong chuyến đi chơi ở Hạ Uy Di hay Las Vegas? Chúa không thề làm ảo thuật để biến một cô gái đi hoang từ năm 16 tuổi thành một cô vợ hiền hay một bà mẹ đảm đang mang hạnh phúc cho gia đình được? Thử hỏi những người nầy có bao giờ học cho biết thế nào là làm vợ và thế nào là bổn phận của cha mẹ trong gia đình chưa? Chúa không thể ban cho chúng ta cái mà chúng ta không xin và cái mà chúng ta không bao giờ được chuẩn bị để có.
III. Thực hành P.Â.:
       Phải sám hối để đời sống sinh hoa kết quả. 
      Sám hối là gì? Theo nghĩa Kinh Thánh và trong tiếng La-Tinh, Sám hối là penitentia.  Sám hối thường phải hội đủ những yếu tố sau: 
       Nhận ra những điều sai phạm – Xét mình.
       Hối tiếc và thật lòng xin lỗi Chúa – Ăn năn tội.
       Nhận ơn tha tội – Xưng tội
       Quyết tâm thay đổi từ suy nghĩ và hành động sao cho đúng với thánh ý Thiên Chúa và mang ích lợi thiêng liêng. Yếu tố cuối cùng nầy tiếng Việt gọi là dốc lòng chừa, đoan hứa là không phạm tội nữa.
       Lịch sử dânThiên Chúa là những chuỗi ngày lập đi lập lại những yếu tố trên: Gặp thử thách – Phạm tội – nhận biết tội – hối hận xin lỗi Chúa – Nhận ơn tha tội rồi sau đó …lại phạm tội….. Chúng ta có thể thấy những hành động phạm tội, sám hối và nhận ơn tha thứ trong Sáng thế Ký 4,7; Sách Lê-vi 4, 5; Sách Đệ Nhị Luật 4:30, 30:2; Sách Các Vua quyển I 8:33, 48; Tiên Tri Hôsêa 14:2; Tiên Tri Giêrêmia 3:12, 31:18, 36:3; Tiên Tri Ezêkien 18:30-32; Tiên tri Isaia 54:22, 55:6-10; Tiên tri Gioên 2:12; và Tiên Tri Giona 2:10. 
      Điều nầy không xa lạ gì với cá nhân mỗi người chúng ta: Phạm tội – Sám hối – Xưng tội – Dốc lòng chừa tội rồi lại phạm tội…. và cứ diễn đi diễn lại cho đến giờ chết. Nên Bí tích giài tội Chúa lập thật cần thiết cho con người yếu đuối của chúng ta. Bí tích giải tội được Chúa lập để tha các tội chúng ta phạm sau khi rửa tội. Trên thực tế ai cũng phạm tội sau khi rửa tội. Nên tất cả đều cần sám hối và cần đi xưng tội. 
      Có  nhiều người ngại đi xưng tội, vì không muốn nói tội mình ra cho người khác. Thứ đến “xưng chi cho mất công, vì cứ phạm đi phạm lại hoài!” Người khác mà chúng ta nói tội mình ra là linh mục. Linh mục khi ban bí tích thì hành động in personna Christi capitis, hành xử trong con người Chúa Kitô là thủ lãnh. Nên đó là Chúa Kitô qua hình ảnh linh mục, cũng là tội nhân như chúng ta. Thứ đến, biết rằng chúng ta sẽ sa đi ngã lại trong một thứ tội. Nên chúng ta được khuyến khích xưng tội bất cứ khi nào có tội. Còn thừa tác viên của bí tích giải tội thì là Giám Mục, linh mục bình thường hay cả những linh mục đã hoàn tục đáp ứng cho những hối nhân trong trường hợp nguy tử (Giáo luật 986 §2) 
               Không có  “BÁC và ÁI” nhưng chỉ có “BÁC-ÁI”.
      Theo nguyên ngữ tiếng Việt: “BÁC” có nghĩa là bao la, rộng rãi. Nên Bác sĩ là người uyên bác, học rộng, hiểu nhiều. “ÁI” là yêu thương. Người có bác ái là người có tình yêu thương bao la, rộng lớn với những người trong cảnh cùng khổ hay những ai cần giúp đỡ. 
        Người Việt Nam nói chung, đặc biệt người Công Giáo Việt Nam thực hiện chữ “ÁI” thật tốt.  Nhưng dường như thiếu “BÁC” hay nói khác đi thiếu chiều kích phổ quát, rộng rãi hay phi biên giới. Năm nào thiên tai bão lụt cũng xảy ra bên Việt Nam, nhất là Miền Trung Việt Nam. Thì dụ Bão Ketsana số 9, năm 2009 và trước đó Bão Lekima năm 2007. Người Việt Nam, bất kể lương giáo trên khắp các Châu Lục đều tích cực quyên góp cứu trợ nạn nân bão lụt Việt Nam. Chúng ta quen gọi là bà con ruột thịt thân thương. Nhiều người E-mail và nhắc nhỡ tôi ra thông báo kêu gọi cứu trợ bão lụt Việt Nam. Số tiền quyên góp và gửi về Việt Nam không nhỏ chút nào. Nguyên chỉ gần 20 cộng đoàn công giáo Việt Nam ở Canada quyên góp cứu trợ bão lụt Ketsana số 9 lên đến 150 ngàn Gia kim. Ở VancouverSurrey đã có gần 100 ngàn. Rất đáng khâm phục và khích lệ! Felix Viet Nam! Ôi, Việt Nam hồng phúc! 
      Tuy nhiên, nhiều khi “ÁI” theo kiểu Việt Nam mình bị hạn hẹp và giới hạn trong nước Việt Nam và cho bà con ruột thịt Việt Nam mình thôi. Không có tội lỗi gì cả trong chuyện nầy, nhưng chúng ta thật sự thiếu “BÁC” và nếu căn cứ vào Lời Chúa nói thì “nào có ích chi, nều chỉ yêu thương người yêu mình hay chỉ yêu thương bà con ruột thịt của mình?” (Luca 6,27-36). Mới gần đây thôi, ngày 12 thang 1, 2010, động đất xảy ra ở Haiti giết chết bảy mươi lăm ngàn người và gây tan thương, không nhà cửa, không lương thực cho một triệu người khác. Bão lụt Ketsana số 9 có là gì so với trận động đất khủng khiếp ở Haiti. Nhưng thử hỏi, chúng ta, người Công Giáo Việt Nam có giúp đỡ những nạn nhân “không ruột thịt” nầy tới mức nào? Có được 1/10 so với số tiền giúp bão lụt Ketsana số 9 ở Việt Nam không? Có nhiều người diện dẫn cho chuyện thiếu “BÁC” của mình bằng việc đổ thừa cho Hội Đồng Giám MJục Canada “sao không nghe các Đức Cha Canada nói gì cả!” Thật sự Hội Đồng Giám Mục Canada đã ra thông báo khẩn cấp kêu gọi giúp Haiti hai ngày sau, tức ngày 14.1.2010. 
     Có chủng viện ở một giáo phận Canada năm nào cũng cho chủng sinh và đôi khi chính ban tổ chức tiếp xúc với tất cả giáo xứ trong địa phận, trong đó có giáo xứ Việt Nam để được phép đến giáo xứ cổ động ơn thiên triệu cũng như vận động tài chánh cho chương trình đào tạo linh mục. Chủng viện và chủng sinh, liên tiếp ba năm, ba lần liên lạc điều bị Cha xứ Việt Nam từ chối. Lý do: Giáo Xứ Việt Nam trong giáo phận Canada, nhưng có chương trình vận động ơn thiên triệu riêng cho dòng tu Việt Nam. Ai cũng công nhận Cha xứ có một vận động rất hay và rất kết quả cho ơn thiên triệu dòng tu Việt Nam. Không ai có thể chối bỏ việc thể hiện “ÁI” nơi Cha và giáo dân Việt Nam mình. Nhưng xem chừng thiếu “BÁC”, chúng ta chỉ biết yêu thương người trong nhà mà thiều một tình yêu phổ quát và rộng rãi như từ BÁC ÁI mà chúng ta được kêu gọi thể hiện đúng như tinh thần bác ái Kitô giáo.  

  



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét