CHÚA
NHẬT 03/03/2013
Chúa Nhật III Mùa Chay
Năm C
(Phần II)
SUY NIỆM : Thay đổi bộ mặt thế giới
Đời sống con người là một cuộc chiến đấu liên
lỉ không ngừng. Không tìm đâu ra nơi nào mà không khỏi chiến đấu.
Một phần lớn dân Chúa đã phải bị chết trong sa
mạc và không được vào đất Chúa hứa vì không chiến đấu. Qua tấm gương đó, thánh
Phaolô nhắc nhở tín hữu thành Côrintô: bao nhiêu hồng ân của Thiên Chúa đừng đổ
vào vết xe cũ, đừng tụ phụ mà quên chiến đấu. Vì ai tưởng mình đứng vững hãy
coi chừng kẻo ngã. Sứ điệp của thánh Phaolô trong đoạn thánh thư trên đây thật
rõ ràng. Các tín hữu Kitô cần phải thận trọng và đừng coi việc lãnh nhận phép
Rửa tội và những việc đạo đức như một bảo hiểm chắc chắn sẽ được cứu rỗi, để
rồi trở nên bất cẩn và quên chiến đấu với những yếu đuối, những cám dỗ của ma
quỉ và những đam mê dục vọng của mình. trong bối cảnh của Mùa Chay, đoạn thư
thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô cũng là một lời mời gọi các tín hữu Kitô tiến
lên mừng lễ Phục sinh trong tinh thần khiêm tốn, với ý thức mình là người tội
lỗi và luôn tỉnh thức để chiến đấu, bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới
của Chúa Kitô Phục sinh.
Với Chúa nhật hôm nay, chúng ta đã tiến vào
tuần III của Mùa Chay, chúng ta đã làm gì để đáp lại lời Giáo Hội kêu mời: Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng.
Là những người tự xưng là tín hữu Kitô, là
những người tin, những người sống niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô, nhưng
thành thật với lòng, chúng ta phải thú nhận đức tin của chúng ta vẫn còn yếu
kém, cuộc sống đức tin của chúng ta chưa nở hoa kết quả bằng những việc cụ thể
để nối dài đời sống của Đức Giêsu như Ngài chờ đợi, như hình ảnh cây vả trong
vườn nho được đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Vì thế một trong những
phương pháp để củng cố đức tin, một đức tin có việc làm đi kèm là nhìn ngắm và
dõi theo mẫu gương của những kẻ có đức tin vững mạnh.
Bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe đọc nhắc
lại mẫu gương đức tin của ông Môisê. Khởi đầu cuộc hành ttrình đức tin của ngài
có thể gom lược vào những diễn tiến sau đây: Trong lúc chăn dê trên núi, Môisê
thấy dấu lạ, ngài đi để nhìn xem việc gì xảy ra, và đang lúc đi xem, ngài nghe
tiếng Thiên Chúa gọi dẫn dắt dân tộc Do Thái qua khỏi cảnh nô lệ lầm than bên
Ai Cập. Thấy bụi gai bốc lửa cháy mà không bị thiêu hủy, đi đến gần để nhìn cho
rõ và nghe tiếng Chúa gọi. Đó là ba bước tiến xem ra đơn sơ nhưng diễn tả những
giai đoạn xác thực của lịch sử ơn gọi của nhiều người có đức tin vững mạnh.
Những người như ông Môisê trước đó có tổ phụ
Abraham và gần đây có những nhân vật lừng danh như mục sư Martin, như Đức Gioan
XXIII, hay Mẹ Têrêxa Calcutta. Mỗi người trong họ đều khám phá giữa môi trường
họ đang sống, có một cái gì đó lẽ ra không nên xảy ra: một dấu lạ, một câu hỏi
khó giải quyết, một vấn đề nóng bỏng.
Abraham
gặp vấn đề không có đồng cỏ cho đàn gia súc ngày một sanh sôi, và ngược lại
không có con để nối dòng.
Môisê chạm trán với
vấn đề bất công, bóc lột và đàn áp mà dân Do Thái phải gánh chịu trong cảnh
sống ăn nhờ ở trên đất Ai Cập.
Đối với mục sư Martin, bụi gai cháy với một
giọt nước cuối cùng đã nhỏ giọt trên cái ly đầy nước, làm phát động phong trào
đấu tranh cho sự bình đẳng của người da đen trong xã hội Mỹ, là cảnh một phụ nữ
da đen bị bắt giam khi trên một chuyến xe bus vì tự trọng, bà đã không đứng dậy
để nhường chỗ cho một hành khách da trắng.
Còn Đức Gioan XXIII thấy Giáo Hội này có bổn
phận dẫn dắt, cần phải được canh tân, một đàng để trở về nguồn Phúc Âm và đàng
khác để đáp ứng với những vấn đề và những hoàn cảnh của cuộc sống tiên tiến của
những thập niên của thế kỷ XX.
Trong khi đó thì Mẹ Têrêxa Calcutta khi đã
thấy, Mẹ cảm nghiệm được tiếng gọi Mẹ phải làm một cái gì đó cho những người
nghèo đói, bệnh tật kiệt sức đến đổi chỉ còn biết nằm chờ chết ở các vỉa hè của
thành phố Calcutta, những người mà Mẹ Têrêxa thông cảm sâu xa, vì trong suốt
cuộc đời họ chưa bao giờ kinh nghiệm được một nụ cười yêu thương, hay một tia
hy vọng.
Tất cả những nhân vật kể trên và nhiều người
khác nữa không chạy trốn khỏi những kẻ thương tâm, những vấn đề nóng bỏng.
Ngược lại họ đã nhìn thẳng vào những vấn đề ấy, cố gắng tìm những biện pháp để
giải quyết.
Như ông Môisê họ đã tự nói với mình: "Ta
hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này" Để rồi sau đó, họ càng xác tín là những
hoàn cảnh thương tâm ấy cần phải thay đổi tận gốc rễ. Trong những tiếng kêu gào
đòi phải có những biện pháp để thay đổi, họ nghe được tiếng nói của Thiên Chúa.
Họ cảm nghiệm được mệnh lệnh không thể cưỡng lại được, một mệnh lệnh không cho
phép họ chạy trốn trách nhiệm. họ cảm thấy như một con đường đã được vạch ra
giữa những hoàn cảnh khó khăn, kêu gọi họ phải theo đó mà hành động. Abraham đã
bỏ quê cha đất tổ để lên đường đi tìm một quê hương Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông.
Môisê đã tìm Pharaôn để tranh đấu cho cuộc xuất hành khỏi ách nô lệ lầm than
của dân Do Thái. Martin đã đi phát động phong trào giải phóng người da màu ở
Hoa Kỳ. Đức Gioan XXIII triệu tập Công đồng chung Vatican II và nữ tu Têrêxa đã
trở thành bà Mẹ của những người nghèo.
Lắng tai nghe tiếng gọi vang lên từ những hoàn
cảnh, chạm trán với cuộc sống hằng ngày, những nhân vật trên đây và nhiều người
khác đã cảm thấy họ có trách nhiệm để sửa đổi. Vâng lời, cậy trông và nhất là
đầy lòng tin và can đảm, họ đã lên đường khởi đầu một cuộc hành trình, một cuộc
hành trình không thiếu những khó khăn vất vả, và nguy hiểm. Nhưng càng tiến
bước họ càng nghe rõ tiếng gọi của Chúa. Họ càng khám phá Thiên Chúa không phải
là Đấng ngự trên chín từng trời cao thẳm, nhưng Thiên Chúa là Đấng luôn quan
tâm và thiết tha đến vận mạng của nhân loại và của từng cá nhân.
Thiên Chúa là Đấng tuyên bố với ông Môisê:
"Ta đã thấy dân chịu cơ cực ở Ai Cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than bởi
kẻ bất công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng". Và Thiên Chúa là Đấng
đã quyết định giáng tai họa xuống trên người Ai Cập để cứu dân Do Thái và đưa
chúng ra khỏi đất ấy, đến miền đất tốt tươi, đất tràn trề sữa và mật ong.
Ngay trong những hoàn cảnh xã hội chúng ta
đang sống, chúng ta có thể khám phá ra những điều khác lạ với điều bị lửa cháy
mà không thiêu hủy. Những vấn đề nóng bỏng chưa được giải quyết, những trạng
huống kêu gào sự sửa đổi, những hoàn cảnh thương tâm kêu gọi những bàn tay băng
bó những vết thương, những vấn đề khó khăn xảy ra cả trong chính gia đình hay
ngoài thôn xóm.
Để sống niềm tin Kitô của chúng ta, chúng ta
không thể bưng tai giả điếc, ngoảnh mặt làm ngơ. Chúng ta càng không có quyền
chạy trốn thực tại, nhưng chúng ta hãy noi gương ông Môisê và những người có
đức tin vững mạnh khác để đến gần xem cho rõ và nghe tiếng Chúa kêu gọi, hầu
chung tay sửa đổi, chung sức tìm cách giải quyết những vấn đề nóng bỏng hay tỏ
tình liên đới và rộng tay chia sẻ những gì mình có cho những kẻ không có gì. Và
ít ra là trao tặng cho những người đang gặp những hoàn cảnh thương tâm một câu
nói khích lệ, một nụ cười thông cảm. Đây có thể là tiếng Thiên Chúa gọi chúng
ta. Để đặc biệt làm trong Mùa Chay, chúng ta tham gia vào quá trình thay đổi
mới bộ mặt xã hội chúng ta đang sống. Nhưng thiết nghĩ, trong bầu khí ăn năn
thống hối và trong trung tâm cuộc sống của Mùa Chay, chúng ta không nên quên
câu châm ngôn: "Hãy thay đổi bộ mặt thế giới, nhưng hãy bắt
đầu bằng cuộc sống thay đổi chính mình".
(Trích
trong ‘Suy niệm Lời Chúa’– Radio Veritas Asia)
03/03/13 CHÚA NHẬT TUẦN 3 MC – C
Lc 13,1-9
Lc 13,1-9
NẾU KHÔNG SÁM HỐI . . . !
“Các
ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn những
người Ga-li-lê khác sao ? . . . Không phải thế đâu : nhưng nếu các ông không
sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.” (Lc 13,2-3)
Suy niệm:
Tội lỗi gây ra đau khổ và sự chết. Đó là giáo huấn mạc khải ngay từ những trang
đầu Thánh Kinh. Nhưng xem ra ta không có cơ sở nào để qui gán hết mọi sự dữ cho
tội lỗi của con người. Chiến tranh, dịch AIDS, ô nhiễm... là do con người;
nhưng còn sóng thần ở Thái năm 2004, động đất ở Nhật năm 2011, nổ thiên thạch ở
Nga mới đây làm chết hàng ngàn người, vùi dập hàng ngàn ngôi nhà... thật khó mà
nói do con người! Cũng vậy, không phải bất cứ ai gặp bất hạnh cũng đều vì họ
tội lỗi. Cần hết sức dè dặt để đừng bao giờ chụp lên đầu ai hai tiếng “quả
báo!”
Nếu
có sứ điệp nào cho tôi
nơi những bất hạnh của người khác, nhất là của chính tôi, thì đó là sứ
điệp kêu mời tôi sám hối. Tôi cần nhìn ra tội lỗi của mình nơi những
bất hạnh của anh chị em xung quanh. Cây vả trong dụ ngôn được gia hạn một năm
nữa. Còn tôi?
Mời Bạn nhớ lại những lần sám hối bạn quyết tâm rất ‘dứt khoát’, nhưng
sau lại tái phạm quá dễ dàng sau đó – để thấy lòng nhẫn nại đợi chờ diệu kỳ của
Thiên Chúa. Phải chăng bạn sẽ tiếp tục thách thức lòng nhẫn nại của Chúa bằng
sự ngoan cố lì lợm của bạn?
Sống Lời Chúa: Bạn có biết ai đang gặp nỗi khổ lớn? Bạn hãy sống ngày hôm nay
với một cố gắng đặc biệt đổi đời – để chia sẻ liên đới với người ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà
xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Tội lỗi con, xin Ngài thanh
tẩy. Amen. (Tv.
50)
Chân Phước Mary Angela Truszkowska
(1825-1899)
S
|
Không bao lâu cô được người bà con là Clothilde cũng như các bạn khác tiếp tay. Họ gia nhập dòng Ba Phanxicô dưới sự hướng dẫn của các linh mục Capuchin và được mặc áo dòng. Năm 1855, Sophia, bây giờ là Mẹ Angela, thành lập một cộng đoàn Phanxicô mới, lấy tên Các Nữ Tu Thánh Felicia.
Khi công việc chăm sóc người vô gia cư của các nữ tu Thánh Felicia phát triển mạnh thì số người gia nhập cộng đoàn cũng gia tăng. Thật không dễ cho một người sáng lập như Mẹ Angela, vì ngài phải vạch ra một hướng đi rõ ràng cho cộng đoàn mà một số nữ tu khác lại muốn theo đuổi đời sống chiêm niệm. Nhưng Mẹ Angela có cái nhìn khác biệt, ngài thấy đây là một cộng đoàn nữ tu được Thiên Chúa mời gọi để cầu nguyện và làm việc ở ngoài khuôn khổ của tu viện. Bởi đó, các Nữ Tu Thánh Felicia chăm sóc bệnh nhân ngay trong nhà của họ cũng như phục vụ các người tàn tật, người già yếu, trẻ mồ côi và các người vô gia cư. Các nữ tu cũng xây cất các nhà dành riêng cho những người mắc bệnh hay lây ở làng mạc Ba Lan.
Vào năm 1863, khi người Ba Lan vùng lên chống lại sự đô hộ của người Nga, các nữ tu Thánh Felicia tiếp tục chăm sóc bệnh nhân bất kể quốc tịch nào. Lúc đó, Mẹ Angela ra lệnh cho các nữ tu "không được loại trừ ai" và hãy nhớ rằng "mọi người đều là người thân cận của mình."
Trong năm kế đó, vào tháng Mười Hai năm 1864, các nữ tu Thánh Felicia bị chính quyền Nga giải tán. Trong khi một số các nữ tu khác tập hợp lại thành cộng đoàn Nữ Tu Ba Lan, nhà cầm quyền Áo cho phép các nữ tu Thánh Felicia tái lập cộng đoàn trong phần đất của Áo ở Ba Lan. Mười năm sau các nữ tu Thánh Felicia đến
Vào năm 1869, Mẹ Angela từ chức bề trên vì sức khoẻ yếu kém. Trong những năm cuối đời, ngài dành nhiều thời giờ để cầu nguyện và làm việc lao động. Ngài cũng được nhìn thấy cộng đoàn của ngài sáng lập đã được Tòa Thánh chuẩn nhận.
Lời Bàn
Sau khi Mẹ Angela chết không lâu, một trong các nữ tu đã nói về ngài như "một hiện thân của tình yêu tha nhân. Ðối với ngài, chỉ những gì không thể thiếu, thật cần thiết -- ngoài ra mọi sự là cho tha nhân, và đó là phương châm của ngài... không chỉ để phô trương, nhưng được thể hiện qua các công việc hàng ngày trong nhiều năm trường... Sự đau khổ, sự lo âu của người khác luôn âm vang trong tâm hồn ngài, nhưng đó không phải là một âm vang vô hiệu quả. Với một tiềm năng đáng khâm phục, dù sức khỏe mong manh, ngài đã đi tìm phương thuốc chữa trị và luôn luôn tìm thấy. Ngài thi hành viêïc ấy rất tự nhiên, như thể đó là một bổn phận của ngài."Lời Trích
Mẹ Angela có lần khuyên các nữ tu, "Một kinh 'Sáng Danh' được cất lên khi gặp nghịch cảnh thì có giá trị gấp ngàn lần lời tạ ơn khi thành công."
Lectio: Chúa Nhật III Mùa Chay (C)
Chúa
Nhật, 3 Tháng 3, 2013
Chúa Giêsu nhận xét về các sự kiện trong
ngày
Phương cách để giải thích các dấu chỉ
thời đại
Lc 13:1-9
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc
Kinh Thánh với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.
Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã
giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn
về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết
thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn gốc của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo sự
thinh lặng trong chúng con để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự
Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong
những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện
xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con
cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người
khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn gốc của tình anh em,
công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức
Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã gửi Chúa Thánh Thần đến
với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Đoạn Tin Mừng của
Chúa Nhật thứ ba Mùa Chay đặt trước chúng ta hai sự kiện riêng rẽ nhưng có liên
quan đến nhau: Chúa Giêsu nhận xét về
các sự kiện trong ngày và Người kể một dụ ngôn.
Lc 13:1-5: Theo lời yêu cầu của
dân chúng, Chúa Giêsu nhận xét về các sự kiện trong ngày: việc tàn sát những người hành hương bởi quan
Philatô và việc chết thảm của mười tám người tại tháp Silôê. Lc 13:6-9:
Chúa Giêsu kể dụ ngôn về cây vả không sinh trái.
Trong lúc đọc, bạn
cần lưu ý hai điều: (i) Quan sát cách
thức Chúa Giêsu phủ nhận việc diễn giải thông thường về những gì đang xảy ra;
(ii) Tìm xem liệu có mối liên quan nào giữa bài dụ ngôn và lời nhận xét về
những sự kiện trong ngày.
b) Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài
đọc:
Lc 13:281:
Người
ta thuật lại cho Chúa Giêsu về việc thảm sát mấy người Galilê
Lc 13:2-3:
Chúa
Giêsu nhận xét về việc thảm sát và từ đó rút ra một bài học cho người ta
Lc 13:4-5:
Để
chứng minh cho ý nghĩ của mình, Chúa Giêsu nhận xét về một sự kiện khác
Lc 13:6-9:
Dụ
ngôn cây vả không sinh hoa trái
c) Tin Mừng:
1 Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc
quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ
tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: 2 "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị
ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ
Galilê ư? 3 Ta
bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì
tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. 4 Cũng như mười tám người bị tháp Silôê đổ xuống đè
chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? 5
Ta bảo các ngươi: không phải
thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ
diệt như vậy".
6 Ngài nói với họ dụ ngôn này: "Có người trồng một
cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, 7 ông liền bảo người làm vườn rằng: 'Kìa, ba năm nay ta
đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất
làm gì!' 8 Nhưng anh ta đáp rằng:
'Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón
phân; 9 may ra nó có quả
chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi'".
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa
có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý:
Để
giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.
a) Điểm nào trong bài Tin Mừng này đã đánh động
hoặc đã làm bạn hài lòng nhất? Tại sao?
b) Lời giải thích thông thường về hai sự kiện
này là gì?
c) Chúa Giêsu không tán thành như thế nào với
lời giải thích thông thường về các sự kiện?
d) Ý nghĩa của bài dụ ngôn là gì? Có điều gì liên kết giữa bài dụ ngôn và lời
nhận xét của Chúa về các sự kiện không?
e) Sứ điệp của bài Tin Mừng này đối với chúng ta
là những người phải giải thích những dấu chỉ của thời đại ngày nay là gì?
5. Ý chính của bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
a) Bối cảnh văn học và lịch sử thời bấy giờ và
ngày nay:
Thánh Luca viết sách Tin Mừng của ông
vào khoảng năm 85 sau Công Nguyên cho các cộng đoàn Kitô hữu ở Hy Lạp. Một cách tổng quát, ông dựa theo lời tường
thuật trong sách Phúc Âm của thánh Máccô.
Thỉnh thoảng ông đưa ra một vài khác biệt nho nhỏ hoặc thay đổi một số
từ ngữ để thích ứng câu chuyện với mục đích của ông. Khác với Tin Mừng Máccô, Luca cũng còn tham
khảo các sách khác và có các nguồn tư liệu khác: các nhân chứng và các thừa tác viên của Lời
Chúa (Lc 1:2). Tất cả các tài liệu không
thấy hiện diện trong Tin Mừng của Máccô, Luca sắp xếp lại thành một hình thức
văn học: Chúa Giêsu trên cuộc hành trình
dài từ Galilêa về Giêrusalem. Có sự mô
tả về cuộc hành trình trong sách Luca từ câu 9:51 đến câu 19:28 và điều này bao
gồm mười chương hoặc một phần ba của sách Tin Mừng!
Trong những chương này, Luca liên tục nhắc
nhở các độc giả của mình rằng Đức Giêsu đang đi trên một cuộc hành trình. Hiếm khi nào ông nói cho chúng ta biết Chúa
Giêsu đang ở đâu, nhưng ông cho chúng ta biết rõ ràng rằng Chúa Giêsu đang trên
đường đi và điểm dừng chân sẽ là Giêrusalem nơi Người sẽ chịu chết theo như lời
các ngôn sứ đã báo trước (Lc 9:51,53,57; 10:1,38; 11:1; 13:22,33; 14:25; 17:11;
18:31,35; 19:1,11,28). Và ngay cả sau
khi Chúa Giêsu đã đến Giêrusalem, Luca vẫn tiếp tục nói về cuộc hành trình
hướng về trung tâm thành thánh (Lc 19:29,41,45; 20:1). Ngay trước khi cuộc hành trình bắt đầu, nhân
dịp Chúa Biến Hình vời các ông Môisen và Êlia trên núi, cuộc hành trình tiến về
Giêrusalem được xem như là cuộc xuất hành đối với Chúa Giêsu (Lc 9:31) và như là việc Chúa lên trời
(Lc 9:51). Trong Cựu Ước, ông Môisen đã
dẫn dân chúng trong cuộc xuất hành thứ nhất được giải phóng khỏi sự áp bức của
Pharaôn (Xh 3:10-12) và tiên tri Êlia được lên thiên đàng (2V 2:11). Chúa Giêsu là ông Môisen mới, Đấng đến để
giải thoát con người khỏi sự áp bức của Lề Luật. Người là ông Êlia mới, Đấng đến để chuẩn bị
cho Nước Trời đã gần đến.
Sự mô tả về cuộc hành trình dài của Chúa Giêsu
tiến về Giêrusalem không chỉ là dụng cụ văn học để giới thiệu tài liệu thích
hợp cho Luca. Nó cũng phản ảnh cuộc hành
trình dài và cam go mà các cộng đoàn ở Hy Lạp đã trải qua trong cuộc sống hằng
ngày của họ vào thời của Luca: trải qua
từ thế giới nông thôn từ vùng Paléstine đến môi trường quốc tế trong nền văn
hóa Hy Lạp ở biên giới các đô thị lớn của châu Á và châu Âu. Đoạn Tin Mừng này hoặc sự hội nhập văn hóa
được đánh dấu bằng sự căng thẳng mạnh mẽ giữa những người Kitô hữu xuất thân từ
Do Thái giáo và những tân tòng xuất thân từ các nhóm sắc tộc và văn hóa khác. Thật vậy, lời mô tả cuộc hành trình dài tiến
về Giêrusalem phản ảnh tiến trình chuyển đổi khó nhọc mà những người liên đới
với Do Thái giáo phải trải qua: rời bỏ
thế giới của việc tuân giữ lề luật đã chỉ trích và buộc tội họ, để hướng tới
thế giới của tình yêu nhưng không của Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người,
hướng đến điều chắc chắn rằng trong Đức Kitô tất cả mọi dân tộc được gộp nhập
lại thành một trước mặt Thiên Chúa; để rời bỏ thế giới khép kín của một chủng
tộc mà hướng về lãnh thổ phổ quát của nhân loại. Đây cũng là cuộc hành trình của đời sống
chúng ta. Chúng ta có khả năng hoán đổi
thập giá của cuộc sống thành một cuộc xuất hành giải phóng như thế không?
b) Lời bình luận về văn bản:
Lc 13:1:
Người
ta thuật lại cho Chúa Giêsu về việc thảm sát mấy người Galilê
Giống
như ngày nay, người ta phê bình về các sự kiện xảy ra và muốn nghe ý kiến từ
những kẻ có thể ảnh hưởng đến ý kiến của quần chúng. Đó là lý do tại sao có một số người đã tìm
đến Chúa Giêsu và thuật lại cho Người về vụ thảm sát một số người Galilê mà
quan Philatô đã làm cho máu của họ hòa lẫn với máu các vật họ tế sinh. Đó có thể là vụ thảm sát đã xảy ra trên núi
Giêrazim, nơi đã là địa điểm hành hương và người ta quen đến để dâng của
lễ. Sự kiện này nhấn mạnh đến sự tàn bạo
và ngu xuẩn của một số kẻ cai trị La Mã tại miền Paléstine là những kẻ đã gây
ra sự nhạy cảm về tôn giáo của người Do Thái qua các hành động vô lý như thế
này.
Lc
13:2-3: Chúa Giêsu nhận xét về việc thảm sát và
từ đó rút ra một bài học cho người ta
Khi được yêu cầu cho biết ý kiến, Chúa Giêsu hỏi
lại: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ
Galilê này bị ngược đãi như vậy là vì họ tội lỗi hơn tất những người khác ở xứ
Galilê ư?” Câu hỏi của Chúa Giêsu phản
ảnh lối suy nghĩ phổ biến của người ta thời bấy giờ: sự đau khổ và cái chết thảm thương là một sự
trừng phạt từ Thiên Chúa vì những tội lỗi mà người ấy đã phạm. Phản ứng của Chúa Giêsu thì minh bạch rõ
ràng: “Ta bảo các ngươi: không phải
thế!” Người bác bỏ lối suy luận thông
thường và biến đổi sự kiện thành cơ hội để tự vấn lương tâm: “nhưng nếu các ngươi không ăn năn, thì tất cả
các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy”.
Nói cách khác, ngoại trừ có một sự thay đổi thực sự và thích đáng, việc
tàn sát tương tự cũng sẽ xảy ra cho tất cả mọi người. Họ đã không thay đổi và bốn mươi năm sau, vào
năm 70, thành Giêrusalem đã bị tàn phá bởi người La Mã. Nhiều người đã bị giết chết. Đức Giêsu đã trông thấy tính nghiêm trọng
tình hình chính trị của đất nước Người.
Một mặt, sự thống trị của người La Mã đã trở nên nặng nề và không thể
chịu nổi hơn bao giờ hết. Mặt khác, tôn
giáo chính thức, càng ngày càng trở nên xa lạ mà không có sự hiểu biết tầm quan
trọng về niềm tin vào Đức Gia-Vê trong đời sống người dân.
Lc
13:4-5: Để chứng minh cho ý nghĩ của mình, Chúa
Giêsu nhận xét về một sự kiện khác
Chúa
Giêsu chủ động việc nhận xét về một sự kiện khác. Một trận bão tuyết khiến cho tháp Silôê sụp
đổ và khiến cho các tảng đá đè chết mười tám người. Người ta nghĩ rằng đó là “sự trừng phạt của
Thiên Chúa!” Lời nhận xét của Chúa Giêsu
là: “Ta bảo các ngươi: không phải thế!
Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt
như vậy”. Mối quan tâm của Người là giải
thích các sự kiện theo cách mà lời kêu gọi của Thiên Chúa để thay đổi và hoán
cải trở nên rõ ràng. Chúa Giêsu là một
mầu nhiệm, một sự chiêm niệm. Người nhìn
các sự kiện theo cách khác. Người có thể
đọc và giải thích các dấu chỉ thời đại.
Đối với Người, thế giới thì rõ ràng, tỏ lộ sự hiện diện và lời mời gọi
của Thiên Chúa.
Lc
13:6-9: Dụ ngôn cây vả không sinh hoa trái
Sau
đó Chúa Giêsu kể dụ ngôn cây vả không mang lại hoa trái. Có người đã trồng một cây vả trong vườn nho
nhà mình. Trong ba năm, nó không sinh
được một trái nào. Vì vậy ông liền bảo
người làm vườn rằng: “Hãy đốn nó
đi”. Nhưng người làm vườn thưa lại
rằng: “Thưa ông, xin hãy để cho nó thêm
một năm nữa… may ra nó có trái vào năm tới; nếu không, sang năm ông sẽ chặt nó
đi”. Chúng ta không biết có phải Chúa
Giêsu kể dụ ngôn này ngay sau khi Người đưa ra nhận xét về việc thảm sát và
chuyện tháp Silôê sụp đổ hay không. Có
lẽ thánh Luca là người muốn đặt dụ ngôn này ở đây, bởi vì Luca thấy có sự liên
hệ giữa những lời nhận xét về các sự kiện và dụ ngôn cây vả. Luca không nói mối tương quan này là gì. Ông để cho chúng ta khám phá ra điều ấy. Luca đã trông thấy ý nghĩa gì? Tôi xin mạo muội đưa ra một ý kiến. Bạn có thể khám phá ra một ý nghĩa khác. Chủ vườn nho và của cây vả là Thiên Chúa. Cây vả đại diện cho người ta. Chúa Giêsu là người làm vườn. Chủ vườn nho đã mệt mỏi tìm quả của cây vả mà
chẳng thấy trái nào. Ông quyết định chặt
bỏ nó. Như vậy sẽ có chỗ cho một cây
khác có thể sinh hoa kết trái. Dân riêng
được chọn đã không sinh hoa trái mà Thiên Chúa mong đợi. Người muốn chuyển Tin Mừng sang cho dân
ngoại. Chúa Giêsu là người làm vườn nài
xin cho cây vả được hoãn thêm một ít thời gian.
Người sẽ nỗ lực gấp đôi để đạt được một sự thay đổi và hoán cải. Sau đó trong sách Tin Mừng, Chúa Giêsu nhận
ra rằng những nỗ lực gấp đôi của Người đã không có kết quả gì. Họ sẽ không hoán cải. Chúa Giêsu đau buồn cho việc thiếu hoán cải
và thương tiếc cho thành Giêrusalem (Lc 19:41-44).
c) Phần phụ chú:
Một bài sử
ký ngắn về cuộc kháng chiến nổi tiếng chống lại người La Mã vào thời Chúa Giêsu
Trong phần
Tin Mừng Chúa Nhật tuần này, thánh Luca làm rõ ràng những lời ám chỉ đối với sự
đàn áp của binh lính La Mã chống lại cuộc nổi dậy nổi tiếng của người
Galilê. Do đó, chúng tôi đưa ra một sơ
đồ tổng quát về cuộc kháng chiến nổi tiếng của người miền Giuđêa chống lại sự
thống trị của người La Mã. Qua nhiều
năm, cuộc kháng chiến này đã trở nên sâu rộng hơn và bắt rễ trong niềm tin của
người dân. Dưới đây là bản phác thảo
song song với quãng đời Đức Giêsu:
i) Từ năm 63 đến năm 37 trước Chúa Kitô: Cuộc tổng khởi dậy mà không có bất kỳ chủ đích rõ rệt
nào. Vào năm 63 trước Chúa
Kitô, đế chế La Mã xâm chiếm vùng đất Paléstine và áp đặt một sự cống nạp nông
phẩm. Từ năm 57 đến năm 37, chỉ trong
vòng 20 năm, sáu cuộc nổi dậy đã bùng nổ trong xứ Galilê! Người dân, không chủ đích, ủng hộ bất cứ ai
đã hứa hẹn sẽ giải phóng họ khỏi việc triều cống người La Mã.
ii) Từ năm 37 đến năm 4 trước Chúa Kitô: Thời kỳ đàn áp và xáo trộn. Đây là thời kỳ trị vì của vua Hêrôđê, được
gọi là Hêrôđê Cả. Ông ta là người đã ra
lệnh giết các hài nhi vô tội ở Bêlem (Mt 2:16).
Việc đàn áp tàn bạo đã ngăn chặn bất kỳ loại chống đối rộng lớn
nào. Do đó vua Hêrôđê thúc đẩy cái gọi
là Thời đại
thịnh trị La Mã (Pax Romana). Thời kỳ
thái bình này đã đem đến cho Đế Chế một ổn định kinh tế nhất định, nhưng đối
với dân tộc bị áp bức thì đó là thời kỳ bình an của một nghĩa trang.
iii) Từ năm 4 đến năm 6 sau Chúa Kitô: Những cuộc cách mạng Thiên Sai. Đây là thời kỳ trị vì của vua Archelaus tại
xứ Giuđêa. Vào ngày lên nắm quyền, ông
ta đã tàn sát 3000 người tại quảng trường Đền Thờ. Cuộc cách mạng bùng nổ trên khắp toàn đất
nước, nhưng nó không có chủ đích. Các
nhà lãnh đạo nổi tiếng vào thời này đang tìm kiếm động cơ nối kết với truyền
thống cổ xưa và tự nhận mình là vua thiên sai.
Sự đàn áp của người La Mã đã phá hủy thành Sephôris, thủ phủ của xứ
Galilê. Bạo lực là dấu hiệu cho thời thơ
ấu của Chúa Giêsu. Trong mười năm cai
trị của chính quyền Archelaus, Người đã thấy miền đất Paléstine trải qua một
trong những thời kỳ bạo lực nhất trong lịch sử của nó.
iv) Từ năm 6 đến năm 27: Nhóm Nhiệt Thành với Lề Luật: Thời gian chỉnh sửa. Vào năm 6, Romolus đã lật đổ vua Archelaus và
biến miền Giuđêa thành một tỉnh của đế quốc La Mã, ban chiếu chỉ kiểm tra dân
số để chắc chắn rằng thuế triều cống phải được trả. Việc kiểm tra dân số tạo đã nên một phản ứng
mạnh mẽ chung được lấy cảm hứng bởi Lòng nhiệt thành với Lề Luật. Nhóm Nhiệt Thành này (do đó có từ ngữ cuồng tín)
kêu gọi mọi người tẩy chay và từ chối nộp triều cống. Đây là một hình thức mới của việc phản kháng,
một loại bất tuân dân sự được lây lan như ngọn lửa cháy âm ỉ dưới than
hồng. Tuy nhiên, Nhóm Nhiệt Thành
có một viễn kiến hạn chế. “Những kẻ cuồng tín”
đã tạo nguy cơ làm giảm việc tuân giữ Lề Luật để đeo đuổi việc chống đối người
La Mã. Chính trong thời gian này, Chúa
Giêsu đã lớn lên trong nhận thức về sứ vụ của mình.
v) Từ năm 27 đến năm 69: Các tiên tri tái xuất hiện. Sau 20 năm này, từ năm 6 đến năm 26, việc cải
sửa mục tiêu của cuộc hành trình tái xuất hiện với lời rao giảng của các tiên
tri là những kẻ đại diện cho bước tiến trong phong trào quần chúng. Các tiên tri đã hô hào dân chúng ngồi lại với
nhau và mời gọi họ thay đổi và hoán cải.
Họ muốn cải cách lịch sử từ nguồn gốc.
Họ tập họp dân chúng trong sa mạc (Mc 1:4), bắt đầu cuộc xuất hành mới,
được công bố bởi tiên tri Isaia (Is 43:16-21).
Người đầu tiên là Gioan Tiền Hô (Mt 11:9; 14:5; Lc 1:76), người đã thu
hút được nhiều dân chúng (Mt 3:5-7).
Ngay sau đó, Chúa Giêsu đã xuất hiện và được người ta coi là một tiên
tri (Mt 16:14; 21:11,46; Lc 7:16). Chúa
Giêsu, giống như ông Môisen, đã công bố Lề Luật Mới trên Núi (Mt 5:1) và nuôi
dưỡng người ta trong sa mạc (Mc 6:30-44).
Giống như sự sụp đổ của tường thành Giêricô vào đoạn cuối của bốn mươi
năm trong sa mạc (Is 6:20), Chúa Giêsu cũng tuyên bố về sự sụp đổ các bức tường
của thành Giêrusalem (Lc 19:44; Mt 24:2).
Cũng giống như các tiên tri xưa kia, Chúa Giêsu công bố về việc giải
phóng những kẻ bị áp bức và bắt đầu năm thánh (Lc 4:18-19), và yêu cầu một
sự thay đổi trong cách sống (Mc 1:15; :c 13:3,5).
Có những
tiên tri khác sau thời Chúa Giêsu. Đó là
lý do tại sao cuộc
cách mạng, phái duy cầu nguyện và phái nhiệt thành tồn tại cùng
lúc. Các nhà cầm quyền đương cuộc, người
La Mã và nhóm Hêrôđê, cũng như các thày cả, luật sĩ và Biệt Phái, tất cả đều lo
lắng đến sự an toàn của Đền Thờ và Dân Tộc (Ga 11:48) và với việc tuân giữ Lề
Luật (Mt 23:1-23), có thể thấy sự khác biệt giữa các tiên tri và những người
lãnh đạo quần chúng khác. Đối với họ,
tất cả đều như nhau. Họ lầm tưởng Chúa
Giêsu với một vị vua thiên sai (Lc 23:2,5).
Ví dụ, Gamaliên, một vị tiến sĩ luật có tiếng, so sánh Chúa Giêsu với
Giuđa, lãnh tụ của các người cách mạng (Cv 5:35-37). Chính Flavius Josephus, một sử gia, đã nhầm
lẫn các tiên tri với “những kẻ trộm và kẻ mạo danh”. Ngày nay, chúng ta có lẽ sẽ nói rằng cả thảy
họ “chẳng đáng giá gì”!
6. Thánh Vịnh 82 (81)
Thiên Chúa cảnh báo các kẻ cầm quyền loài
người
Thượng Đế chủ tọa triều đình thiên
quốc,
Người xử án giữa chư thánh chư thần:
"Tới bao giờ các ngươi còn xử án bất công,
hay còn thiên vị phường gian ác?
Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn;
minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng,
giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng,
cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân.
Người xử án giữa chư thánh chư thần:
"Tới bao giờ các ngươi còn xử án bất công,
hay còn thiên vị phường gian ác?
Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn;
minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng,
giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng,
cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân.
"Vậy mà chúng chẳng hay chẳng
hiểu,
cứ bước đi, giữa tăm tối mịt mù,
khiến nền tảng địa cầu phải lung lay nghiêng ngả.
Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây
đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao,
thế nhưng rồi phải chết không khác kẻ phàm nhân,
và có ngày sụp đổ như mọi bậc quan quyền."
Tâu Thượng Đế, xin Ngài đứng dậy mà xét xử địa cầu,
vì chính Ngài làm chủ muôn dân.
cứ bước đi, giữa tăm tối mịt mù,
khiến nền tảng địa cầu phải lung lay nghiêng ngả.
Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây
đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao,
thế nhưng rồi phải chết không khác kẻ phàm nhân,
và có ngày sụp đổ như mọi bậc quan quyền."
Tâu Thượng Đế, xin Ngài đứng dậy mà xét xử địa cầu,
vì chính Ngài làm chủ muôn dân.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về
Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc
làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc
khải cho chúng con. Nguyện xin chúng
con, trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà
còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng
hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần
đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét